Duyên Kỳ Ngộ - Chương 26 - phần 2
Ngày mồng mười tháng ba, Cố tướng lấy cớ thăm con gái, sải bước dài đi vào phủ Ly Thân vương. Tổng hợp các nguồn tin ở Phong thành, điều động binh mã ở Biên thành khiến Tử Ly bận tối mắt, khi Cố tướng đến, chàng đang xem bản đồ địa hình khe núi Hoàng Thủy.
“Nhạc phụ đại nhân!”. Tử Ly cúi người hành lễ, bình tĩnh đỡ Cố tướng an tọa, “Chuyện ở An Thanh vương phủ đã làm nhạc phụ không vui”.
“Ôi dào, đàn ông năm thê bảy thiếp chuyện thường, huống hồ sau này con...”. Cố tướng thở dài, không muốn nhắc lại chuyện đó, nói đến là đau đầu, quên cả thân phận của Tử Ly.
Tử Ly nói thẳng: “Nhạc phụ hiểu lầm rồi, đó là mưu kế của Tử Ly và vương thúc, dù thái tử có tin hay không, cũng ít nhiều mê hoặc thái tử. Sau này bất luận thế nào Thiên Lâm đều là chính thê kết tóc xe tơ của con, con sẽ đối xử tốt với nàng”.
“Lão cáo già đó, ngay cả ta cũng giấu!”. Miệng nói vậy mà lòng nở hoa, Cố tướng nói, “Có An Thanh vương hỗ trợ, chuyện này sẽ thuận lợi vô cùng. Danh tính trong tờ kê này là người của chúng ta trong cung, điện hạ hãy thu nạp”.
Tử Ly trịnh trọng tiếp nhận: “Con và Bình Nam vương đã suy nghĩ kỹ, giao đấu ở khe núi Hoàng Thủy nên như thế nào, nhạc phụ có cao kiến gì không?”.
“Thế nào? Đánh cho Đông cung xem ư?”.
Tử Ly trầm ngâm rất lâu: “Vương thúc từng trải qua trăm trận, ý của vương thúc là, đây là kế trong kế, chúng ta định ra kế này, nhưng cũng đề phòng Đông cung tương kế tựu kế. Nghe đồn Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, hành quân bố trận đều tinh thông, Vương thái úy từng nói, có đứa con gái này có thể địch với mười vạn tinh binh, không biết thủ pháp của nàng ta thế nào”.
“Thiên Tường thống lãnh thủy quân Nam quân đã lâu, khi luận đàm binh pháp với thống lãnh lục quân Nam quân, người này từng nói, Vương Yến Hồi tiểu thư bài binh bố trận đều thích lưu lại một nước cờ bất ngờ, trong mọi tình huống đều có một chiêu sau cùng, thông thường chính chiêu này mới là tinh binh tối hậu”. Cố tướng suy nghĩ rồi trả lời.
“Lời của nhạc phụ cũng tương tự dự đoán của vương thúc và Bình Nam vương, đây là khe núi Hoàng Thủy, phía bắc là phần kéo dài của dãy Ngọc Tượng, giấu binh ở thảo nguyên không thích hợp, muốn phục binh ở khe núi cũng rất khó, bởi vì trên đó chắc chắn có binh mã của chúng ta mai phục, cho nên họ đành từ bên này núi đánh sang khe núi đó. Nhưng cách này rất ngốc, bởi vì chỗ cao là người của chúng ta, từ trên cao nhìn xuống, đối phương nằm gọn trong tầm mắt chúng ta, họ bại là chắc. Chúng ta mai phục chặn cửa khẩu vào khe núi cũng dễ, cái khó là làm thế nào để dụ địch vào trong hẻm núi đó”.
Ngoài cửa có tiếng cười khẽ: “Ám Dạ cầu kiến”.
Tử Ly hơi bực mình, mỗi lần Ám Dạ đến đều nhẹ như cái bóng, chàng hạ giọng: “Mời vào!”.
Ám Dạ từ cửa sổ vọt vào, chắp tay chào Cố tướng nhưng không lên tiếng, lôi ra từ trong người một vật để lên án thư, nói khẽ: “Bản đồ bố trận chủ nhân giao cho”. Nói đoạn, chắp tay hành lễ, lại vọt ra ngoài.
Cố tướng kinh ngạc: “Ô y kỵ của An Thanh vương phủ ư? Sao ta chưa bao giờ biết bên cạnh Tử Ly cũng có Ô y kỵ?”.
Tử Ly cười: “Vương thúc rất tín nhiệm người này, con cũng coi trọng y”. Nói đoạn mở bản đồ bố trận, hít một hơi, cười phấn khởi: “Đúng là diệu kế, vương thúc bản lĩnh thực cao cường! Tử Ly khâm phục!”.
Cố tướng nghiêng đầu nhìn, vuốt chòm râu bạc trắng, cười khà khà: “Nếu kế này mà thành, sau trận này, Đông cung không còn khả năng tranh giành với chúng ta nữa. Lão cáo già đúng là cáo già”.
Tử Ly đốt tấm bản đồ, quay người hành lễ: “Như vậy, ngày mười lăm tháng ba mọi sự trong vương cung xin trông cậy vào nhạc phụ và quần thần tâm phúc. Nhạc phụ đừng lo cho Thiên Lâm, con đã để năm trăm thiết vệ quân trong vương phủ, binh mã còn lại đều giao cho vương thúc, An Thanh vương sẽ đích thân chỉ huy trấn thủ Phong thành, khống chế cục diện trong thành”.
Sau khi Cố tướng đi ra, Tử Ly mở cửa sổ, trong gió đêm vẳng lại tiếng đàn thấp thoáng, trong đó hàm ẩn một chút trách móc nhẹ nhàng. Sau khi trở về Phong thành, chàng chỉ gặp Cố Thiên Lâm hai lần, những ngày này luôn một mình trong thư phòng, nàng... Tử Ly thở dài, lặng lẽ đóng cửa sổ, tiếng đàn bị chặn lại bên ngoài, yếu dần rồi tắt hẳn.
Chàng lấy ra bình rượu từ Biên thành mang về, thong thả uống, cố gắng gạt đi những suy nghĩ lan man. Chàng tự nhủ, việc quan trọng lúc này không phải là tình cảm nam nữ, tuy nhiên khuôn mặt A La cứ hiện lên trước mặt chàng không thể khống chế, đôi đồng tử lóng lánh, sinh động. Chàng ngửa cổ tu cạn bình rượu, cuối cùng đầu hơi chếnh choáng. Chàng mỉm cười, như thế này có thể ngủ được rồi.
Mùa xuân bước nhanh chân, bảy ngày đại tế đã qua, quan tài bằng ngọc của Ninh vương được chuyển lên táng trên đỉnh núi, những lá phướn trắng trong cung được hạ xuống, núi Ngọc Tượng lộ ra một màu xanh nhung, dần dần khôi phục sinh khí ngày xưa. Cùng với lễ đăng cơ của tân vương đang tới, không khí cảnh giác trong vương cung càng tăng. Vương cung đồ sộ vắng tiếng tơ trúc do Ninh vương băng hà, đêm vừa xuống càng trở nên vắng lặng, im lìm.
Trong Ngọc Phượng cung, Vương hoàng hậu, thái tử, Vương Yến Hồi và Vương thái úy tề tựu tại chính đường. Ngày mai đã là ngày mười lăm, không khí bức bối trước cuộc giao chiến khiến thái tử nóng ruột, nhưng lại khấp khởi mừng thầm. Chàng hạ giọng hỏi: “Mẫu hậu, tại sao phụ hoàng vừa ra đi, tứ hoàng đệ cơ hồ biến thành một người khác hẳn? Không có phụ hoàng che chở, sao hắn dám to gan như vậy?”.
Vương hoàng hậu suy nghĩ hồi lâu nói: “Thực ra mẫu hậu luôn muốn trừ khử Lưu Phi, ai dè hắn ta bề ngoài cơ hồ chỉ có một mình, lại luôn có thị vệ lẩn quất xung quanh, bao nhiêu năm, chưa một lần đắc thủ. Chúng ta cũng không thấy di chiếu của phụ hoàng con, liệu có phải đã âm thầm hạ chiếu muốn truyền ngôi cho hắn?”.
“Lo lắng của muội không hẳn không có lý, thái tử còn nhớ chứ, khi tuyển lập thái tử phi, vương thượng một mực muốn ban con gái Cố tướng cho Ly Thân vương? Cố tướng là nguyên lão hai triều, môn sinh vô số, đích tử là Cố Thiên Tường nhiều năm trong quân ngũ, uy tín rất cao, Tử Ly nếu được Cố tướng ủng hộ, tất sẽ như hổ mọc cánh. Ta thấy lúc đó vương thượng đã có ý bồi dưỡng thế lực cho Tứ điện hạ”. Vương thái úy nói.
Thái tử quay sang Vương Yến Hồi: “Lúc đầu nếu không phải nghe kiến nghị của nàng, trong tay Lưu Phi đâu có binh quyền? Khống chế hắn trong thành, giết hắn dễ như giết kiến!”. Khẩu khí đã thoáng ý chỉ trích.
Vương Yến Hồi giật mình, nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Nếu không tước Hữu quân trong tay An Thanh vương, cha con cùng dấy binh, chàng và tứ điện hạ đều không có cơ hội. Hiện nay ít nhất An Thanh vương bề ngoài tỏ ra ủng hộ Đông cung chúng ta, cho dù ông ta liên thủ với tứ hoàng đệ, lực lượng của bọn họ và chúng ta cũng tương đương! Nên biết Hữu quân trên danh nghĩa là do Ly Thân vương thống lĩnh, Ly Thân vương khi sử dụng cũng đâu có thuận lợi như An Thanh vương? Vì vậy sức chiến đấu cũng sẽ yếu vài phần. Nam quân trong tay Bình Nam vương cũng vậy, lực lượng của họ Vương chúng ta, cho dù bị bọn họ diệt bảy tám phần, cũng vẫn còn hai ba phần trong tay”.
Nàng từ từ liếc nhìn mọi người xung quanh, nhìn phụ thân Vương thái úy. Vương thái úy cười hà hà, thần sắc ngạc nhiên: “Nội ứng của chúng ta ở Nam quân cho biết, Nam quân trấn giữ bên ngoài cổng nam thành, ba vạn binh mã đã chia ra trấn thủ các cổng của Phong thành, không thể khinh suất điều động, vì vậy chỉ có một vạn quân sĩ điều về phía tây. Tin từ Biên thành cho biết, Ly Thân vương chỉ mang hai vạn Hữu quân, hai vạn quân này lập trại ở khe núi Hoàng Thủy”.
“Có nghĩa là có hai khả năng, một là hai người đó định giao chiến một trận thật sự, hai là hai người họ liên thủ bày trận định nuốt chửng một phần binh mã chúng ta. Nếu là khả năng thứ nhất, đợi hai người đánh nhau một chặp, chúng ta tiện thể cất một mẻ lưới bắt giết Ly Thân vương! Nếu là khả năng thứ hai, họ cũng giả bộ đánh một hồi, chúng ta cũng nhân lúc tình hình rối loạn mà ra tay. Hai người binh lực hợp lại cũng không quá ba vạn binh mã, đến lúc đó điện hạ lấy cớ sợ hai tiểu đệ bị tổn thương, mang năm vạn binh mã Đông quân của chúng ta đến, còn hai vạn tinh binh Bắc quân sẽ nấp phía sau, đợi lúc bọn họ không đề phòng sẽ ra tay”. Vương Yến Hồi thong thả nói kế hoạch.
Mắt thái tử sáng bừng, phấn khởi, không kìm được nắm tay Vương Yến Hồi: “Có ái phi định kế, coi như yên tâm”. Bất chợt lại lo lắng: “Nhưng nếu vậy, ta đi khỏi, chẳng phải vương cung bỏ trống sao?”.
Vương thái úy cười: “Thái tử yên tâm, binh sĩ cấm vệ quân trong cung, ta đã nắm trong tay tám, chín phần, Thành thị lang theo lệnh của ta đã sớm bố trí đâu vào đó. Bọn họ không động binh, không có nghĩa chúng ta không động, chỉ cần nhận được tin báo từ phía tây, Đông quân của ta lập tức từ cổng đông thành nghênh đón thái tử vào Phong thành. Binh sĩ thủ thành không quá ba vạn, cứ coi cộng thêm sáu vạn Nam quân, sao có thể địch nổi mười lăm vạn đại quân của ta? Hơn nữa, lại có Yến Hồi trấn thủ trong cung”.
“Chẳng lẽ sáu vạn Nam quân còn lại không có động tĩnh gì?”. Vương hoàng hậu hỏi.
Vương Yến Hồi đáp: “Mẫu hậu có lẽ không biết, sáu vạn Nam quân kia hiện đã rất khó điều động, họ còn lo đối phó mười lăm vạn Đông quân của ta đồn trú tại ngoại ô phía đông. Chỉ riêng binh lực, họ đã không bằng Đông quân. Nhưng chúng ta cũng không thể khẳng định Ly Thân vương đã liên thủ với cha con An Thanh vương, cho nên chỉ có thể phòng không thể đánh. Chúng ta biết hai người họ sẽ thực chiến ở khe núi Hoàng Thủy, nhưng họ lại không biết chúng ta có đến hay không, đến lúc này, chúng ta đã nắm chắc ưu thế”. Trong lòng Vương Yến Hồi thầm nghĩ, thực ra thái tử không đi mới là cách hay nhất, đã biết Nam quân và Hữu quân cộng lại vẫn chưa mạnh bằng Đông quân, đợi bọn họ thực sự tấn công Phong thành, triển khai chiến trận mới là kế hay. Chỉ có điều... nàng thở dài, ai bảo nàng là người đưa ra quyết định?
Thái tử nghĩ một lát, nở nụ cười thỏa mãn, chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Bất luận hai người liệu có phải đánh nhau vì Lý Thanh La thật không, Lý Thanh La cũng là con bài vô cùng quan trọng đối với cục diện này, chúng ta phải nghĩ cách đưa nàng ta vào cung trước ngày mười lăm tháng ba”.
Vương Yến Hồi cười: “Điều đó còn phải xem thái tử có nỡ hay không!”.
Thái tử nghi hoặc nhìn nàng. Vương Yến Hồi nói: “Theo thiếp quan sát, Lý Thanh La cũng chẳng mấy thân thiết với đại tỷ và cả nhà Lý tướng, nhưng thiếp thấy cô ta thực lòng thích Tâm Nhi”.
“Không được! Tâm Nhi còn nhỏ, không được đưa vào chỗ nguy hiểm!”. Thái tử nói như đinh đóng cột.
Vương Yến Hồi vẫn tươi cười: “Thiếp biết điện hạ không nỡ mà, cho nên, thiếp chỉ đưa tỳ nữ của nàng ta vào cung. Thị vệ của nàng ta võ công cao cường, đả thương hơn mười cao thủ của thiếp, cũng được, để bọn họ trở về đưa thư”.
“Như vậy, chẳng phải rút dây động rừng hay sao?”.
“Thiếp thấy hai người đó có tình ý, thiếp chỉ nói với anh ta, chuyện này chỉ cần cho Lý Thanh La biết, thêm một người biết, coi như chờ nhận thêm một cái xác”.
Khi Vương Yến Hồi nói ra câu đó, Lưu Anh người đầy máu quỳ trước mặt Lưu Giác, kể lại chi tiết sự việc. Lưu Giác cau mày, hỏi: “Vậy tại sao ngươi không nói cho một mình A La biết?”.
Lưu Anh cười: “Chúa thượng đã dặn, nhất định phải bảo vệ tiểu thư, nói cho tiểu thư biết, tiểu thư không xông vào cung mới lạ. Lưu Anh đã trung thành với tiểu thư, sao có thể để tiểu thư biết mà hại tiểu thư!”.
Mắt Lưu Giác lộ vẻ cảm động: “Ngươi yên tâm, bản vương sẽ trả Tiểu Ngọc nguyên vẹn cho ngươi”.
“Tạ ơn chúa thượng, Lưu Anh không dám lộ mặt trước tiểu thư, bây giờ sẽ tìm chỗ dưỡng thương”.
“Nếu vết thương không quá nặng, ngươi hãy đến chỗ của Cáp tổ. Ám Dạ đang có việc phải làm, thời gian này Ô y kỵ do ngươi phụ trách”. Lưu Giác nói, ném cho Lưu Anh lọ thuốc trị thương.
Lưu Giác nhắm mắt chậm rãi suy nghĩ. Đông cung không thật sự tin mình và Tử Ly trở mặt, nhưng lại không thể khẳng định hai bên liệu có liên thủ hay không. Tình hình này đã nằm trong suy đoán của ta, mọi bố trí đều nỗ lực theo hướng này. Ngày mai đã là mười lăm tháng ba, tất thảy mọi thứ đều sẽ kết thúc trong ngày này. Chàng đột nhiên thấy hoang mang, đứng dậy đi về phía phòng ngủ.
Trong phòng, A La đang chơi đàn, miệng khẽ hát khúc hát đã hát ở Lâm Nam: “Chim bay mỏi cánh chạm chân sông, rồng vẫy chán vắt ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải đường diễm sắc nhớ chàng mà say”.
Lưu Giác đứng ngoài cửa ngây người nghe. Lúc này, trong lòng A La đã có chàng. Nụ cười ấm áp trên môi, chàng đẩy nhẹ cửa nói đùa: “Ta cũng say đây!”.
A La đỏ mặt, dừng tay. Hôm nay nàng đặc biệt bảo Tư Họa chải tóc cho mình thật kỹ, những sợi tóc mai bay bay, như sương như khói, đôi mắt lóng lánh thủy tinh, chan chứa tình cảm mà chàng không biết, Lưu Giác đột nhiên đứng ngây ra. A La mỉm cười nói khẽ: “Chàng đang định nói, ai bảo thiếp ăn vận thế này chứ gì? Không đẹp sao?”.
Lưu Giác hơi bất lực, vẻ sôi nổi bông lơn ngày xưa đã bay biến đi đâu, chàng ấp úng: “Không đâu, rất... rất đẹp mà”.
A La lườm chàng: “Đàn ông khi yêu đều rất ngốc!”.
Lưu Giác vẫn ngơ ngẩn, bất giác gật đầu. Lát sau mới định thần, nói: “Ý ta là nàng chỉ được mặc cho mình ta ngắm!”.
“Vậy, sau này thiếp ra ngoài cũng khỏi cần mặc trang phục nữa hay sao?”. A La nghĩ, đấy là nàng còn chưa mặc mấy kiểu hở hang, e rằng như vậy sẽ khiến chàng chết khiếp!
“Hả, nàng dám! Những lời thương phong bại tục như vậy mà nàng cũng dám nói?”. Lưu Giác mặt đỏ bừng, nha đầu này trở nên to gan như vậy từ lúc nào?
“Thiếp không chỉ nói được, mà còn làm được!”. A La từ từ kéo giải áo, chiếc áo choàng bên ngoài tuột xuống, bên trong chỉ có chiếc váy mỏng và yếm ngực màu xanh nhạt, lộ ra đôi tay và bờ vai trần.
Lưu Giác hoảng hốt nhảy đến, nhặt chiếc áo choàng bọc lấy nàng: “Nàng làm gì vậy!”.
“Chàng không muốn sao? Chẳng may ngày mai chàng có mệnh hệ gì... thiếp không muốn hối hận!”. A La bình tĩnh nói. Nàng không có tư tưởng bảo thủ như người xưa, lại sợ nhỡ có chuyện gì sẽ không gặp được người đàn ông như Lưu Giác nữa.
“Không có chẳng may nào hết! Ta nhất định bình an trở về, đợi mọi sự hoàn tất, ta sẽ cưới nàng về phủ, ta muốn là của nàng vào đêm động phòng!”. Lưu Giác nói.
A La thở dài, hết cách. Người ở đây đầu óc bảo thủ, khi người ta không muốn lại dường như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống, đến khi người ta muốn cho lại nghĩa hiệp chối từ. Xem ra mình vẫn đánh giá cao thân xác mình rồi, tưởng là chàng nhìn thấy là lập tức ngất xỉu.
Lưu Giác khẽ khàng giúp nàng sửa lại trang phục, kéo nàng vào lòng: “A La, nàng phải hứa với ta, ở trong vương phủ đợi ta quay về. Bên ngoài rất loạn, không nên đi đâu. Hãy tin ta, được không?”.
A La nhìn chàng, khuôn mặt đó nàng càng nhìn càng thấy đẹp. Tất cả kể cả con người chàng và những thứ đang có đều đẹp đến nỗi khiến nàng bất giác hoài nghi, không biết sau này liệu còn gì trắc trở? Liệu có thể suốt đời sống yên ổn cùng chàng? Mặc dù Lưu Giác không nói với nàng tình hình chuẩn bị cho cuộc chiến ở khe núi Hoàng Thủy, nhưng nhìn vẻ bận rộn những ngày vừa qua của chàng, A La cũng đoán ra tình hình căng thẳng nguy hiểm trong đó. Đây là cuộc chiến tranh giành vương vị, chiến tranh thời kỳ vũ khí lạnh vô cùng thảm khốc, nghĩ đến cảnh chiến trường đầy xác chết, máu chảy thành sông, nàng bất giác tim đập chân run. Cũng muốn hỏi chàng tình hình, đưa ra chút ít kiến nghị, nhưng lại sợ mình không có tri thức quân sự, ngộ nhỡ nói sai làm hỏng việc, nhưng không hỏi lại không yên tâm: “Có thể cho thiếp biết tình hình ở khe núi Hoàng Thủy không?”.
Lưu Giác vốn không muốn cho nàng biết, sợ nàng lo lắng, chàng cảm thấy đánh trận là việc của đàn ông. Nghe nàng hỏi, chàng nghĩ một lát, nhân tiện rà soát lại lộ trình lần nữa, sau đó lấy bút vẽ tình hình đại khái, giảng cho nàng nghe.
A La nghe đến đoạn Lưu Giác nói, trên thảo nguyên chỉ có cỏ thấp, không có cách nào ẩn náu mai phục, đột nhiên nghĩ tới bộ phim từng xem, hỏi: “Nếu binh sĩ vận trang phục như màu cỏ, lấy cỏ làm y phục, bôi mặt màu xanh và màu đất, không mang theo cờ, mai phục trên thảo nguyên, chắc sẽ không bị phát hiện?”.
Lưu Giác ngẩn người, rồi kinh ngạc mừng rỡ: “Nàng luôn nghĩ ra kế vặt gì đó, nhưng lại rất hữu dụng”. Hôn nàng thật kêu rồi chàng quay người chạy đi.