Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 01 - Phần 1

HỒI THỨ NHẤT

Lánh Trịnh Kiểm, Đoan quốc công đem quân vào Thuận Hóa

Nắm quyền binh, Trịnh Đô tướng lập vua nhỏ Duy Đàm.

Thơ rằng:

Ngày bụi phất đêm dặc dài

Kể chuyện rồng lên hổ rống

Khoe tài côn[1] nhảy bằng bay

Đến đầu chẳng biết trời đất rộng

Đưa mắt mới hay núi sông dài

Ngoài cuộc chán xem tranh thắng bại

Trong vòng những muốn giữ đất đai

Đó thịnh suy, triều đại hưng vong chăng đổi

Đông chinh, Tây chiến, trời người ứng thuận chẳng hề sai.

[1] Côn: tên một loài cá. Huyền thuyết của Trang Tử nói: Biển Bắc có con cá tên là côn. Cá côn lớn không biết mấy nghìn dặm; hóa thành chim, tên gọi là chim bằng. Lưng chim bằng rộng không biết mấy nghìn dặm; giận mà bay thì cánh nó che tỏa khắp trời (Trang Tử, Tiêu dao du).

Chuyện nước Nam ta từ thời Hùng Vương, Triệu Vương đến Đinh, Lý, Trần, Lê, sáu triều đại hưng phế tiếp nhau. Nhà Trần lại đến lúc hết vận, quân nhà Minh kéo sang xâm lược nước ta. Tướng giặc hung ác, lính giặc kiêu căng, dân ta bị giết hại khốn khổ không kham đặng. Trời sinh vua Lê Thái Tổ vốn là người áo vải dấy nghĩa ở đất Lam Sơn thu phục được giang sơn bờ cõi, đường đường cùng với Trung Quốc làm đế một phương. Triều Lê truyền ngôi qua các đời Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông cho đến Chiêu Tông hoàng đế. Nhưng vì Chiêu Tông nhu nhược, rốt cuộc bị cường thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi. Chiêu Tông phải chạy ra ngoài, trở về đất gốc Thanh Hóa, lấy làm hổ thẹn vì nỗi sinh linh phải chịu lầm than, xã tắc biến thành gò đống. Vua bèn thu tập tàn binh, chí muốn diệt Mạc, một phen quyết chiến với Mạc Đăng Dung phục thù cho tông xã. Không may Chiêu Tông bị Đăng Dung bắt, rồi bị giết hại. Họ hàng con cháu nhà Lê phải chạy trốn. Con Chiêu Tông tên là Ninh còn thơ dại, bà mẹ sợ Đăng Dung trừ cỏ nhổ rễ phải ôm con chạy lánh sang đất Ai Lao.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Bấy giờ cựu thần nhà Lê đều theo về với họ Mạc để mưu cầu phú quý. Chỉ có viên tướng cũ là An Tĩnh hầu Nguyễn Kim quê ở Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Tống Sơn, phủ Trung, trấn Thanh Hoa, vì lúc trước ở Thăng Long từng có lần ngăn trở việc Đăng Dung xin quân nên Đăng Dung không vừa ý, bèn tức giận giải tán bộ thuộc, lui về quê quán. Về sau hầu vào trú ngụ ở Nghệ An, cũng nghĩ sống an phận để bảo toàn mạng sống. Nhưng thấy cơ đồ vương triều nhà Lê ngày một suy vong, bề tôi không kẻ vui lòng giúp rập. Nguyễn Kim vì thế ngày đêm khóc thầm, bèn đi khẳp các nơi ở miền Thanh - Nghệ chiêu tập hào kiệt, nêu danh nghĩa phù Lê diệt Mạc để dụ bảo nhiều người vui theo. Bấy giờ hầu bèn bàn với người họ ngoại của vua Chiêu Tông là Trịnh Duy Sản tìm đón Lê Ninh ở Ai Lao về, lập làm vua (tức Trang Tông), cất dựng hành điện ở gần sông Tất Mã[2]. Lại đặt doanh ở sách Vạn Lại[3] làm nơi ở, chiêu binh mãi mã, tiếp đón anh hùng, trữ lương chứa cỏ, cùng nhau mưu đồ việc khôi phục. Chỉ trong vài tuần binh chúng đã được mấy vạn người.

[2] Sông Tất Mã: tức sông Mã ở Thanh Hóa.

[3] Sách Vạn Lại: Nay là xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa).

Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn ghi Trang Tông lên ngôi (Bd, tr.277) ở sách Thúy Thuần.

An Tĩnh hầu thỉnh thoảng đưa quân ra ngoài đánh nhau với quân Mạc, nhưng thường bị thua. Sau lại tiến đánh quân Mạc ở lộ Sơn Nam Thượng, quân Mạc bị thua. Bên Mạc ngầm sai tướng là Trung Hậu hầu[4] làm kế trá hàng. An Tĩnh hầu cả tin thu nhận, rồì sau đó bị Trung Hậu hầu đầu độc mà chết, được tặng tước Chiêu Huân Tĩnh vương.

[4] Trung Hậu hầu: Tên tước của tướng nhà Mạc. Toàn thư ghi không rõ họ tên. ĐNTLTB ghi là hoạn quan, tên là Trung, không rõ họ.

Cương mục ghi rõ họ tên là Dương Chấp Nhất, sau khi đầu độc Nguyễn Kim lại trở về với nhà Mạc.

An Tĩnh hầu có con là Nguyễn Hoàng, bẩm tính thông minh mẫn tiệp, trí tuệ hơn người, nhưng vì tuổi nhỏ chưa thể cầm nắm việc quân. Rể của hầu là Trịnh Kiểm vốn người có sức có tài, được quân sĩ tuân phục. Bấy giờ Kiểm đang đóng quân ở nội đạo[5], Trang Tông tạm trao cầm giữ binh qruyền, chuyên lo việc đánh dẹp. Nguyễn Hoàng lớn lên theo Kiểm đi chinh chiến, trong nhiều năm đều lập nhiều chiến công, được Trang Tông gia phong nhiều lần, làm quan đến chức hữu tướng. Kiểm thấy vậy, ngày càng thêm lo ngờ, cho rằng hữu tướng Nguyễn Hoàng ngày sau công danh không kém gì Kiểm, Kiểm bèn tâu với vua xin cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Trước đó đất Thuận Hóa do quân tướng nhà Mạc đóng giữ. Mưu của Kiểm sai Hoàng trấn thủ ở đó là có ý muốn mượn tay họ Mạc để giết Hoàng.

[5] Nội đạo: Cũng gọi là nội trấn. Thời Lê trung hưng phủ Trường Yên và Thiên Quan (thuộc Ninh Bình cũ) sáp vào trấn Thanh Hoa, gọi là Thanh Hoa ngoại trấn. Nội trấn (hoặc đạo) là phần đất tỉnh Thanh Hóa nay.

Tâm địa của Kiểm như thế, nhưng đạo trời lại không phải thế. Người đời saụ có thơ rằng:

Thành bại hưng vong lẽ lớn lao.

Kinh kì im nhịn tự năm nào.

Phượng vin cành lẻ đàn vẹt rỡn.

Cọp rống rửng bằng đảng ác trào.

Chớ bảo giếng làng nhền chăng lưới.

Hãy xem ngựa chiến vượt khe rào.

Rồng thần há phải loài ao cạn.

Nằm đợi trời cao gió thét gào?

Lại nói năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Trị thứ nhất (1558), con của thái sư Chiêu Huân Tĩnh vương là hữu tướng Đoan quận công Nguyễn Hoàng đi đánh nhà Mạc lập nhiều công lớn, đi đến đâu quân địch đều kinh sợ tháo chạy, dân chúng ngưỡng mộ mến yêu. Từ sau khi Chiêu Huân Tĩnh vương qua đờí, thái sư Minh Khang vương Trịnh Kiểm là con rể của Tĩnh vương cậy quyền cậy thế không nghĩ đến ân tình, chỉ ghen ghét muốn mưu tính làm hại Đoan quận công. Bấy giờ Thích quốc công[6] là cậu ruột của Đoan quận công bí mật bàn với Đoan quận công sai người lén vào nội cung cầu cứu chị ruột là Nguyễn thị[7].

[6] Thích quốc công: Tên tước của Nguyễn Ư Dĩ (tự Vô Sự).

[7] Nguyễn thị: Theo Toàn thư bà chính phi này tên là Ngọc Bảo.

Bà chính phi của Trịnh Kiểm nghe chuyện lấy làm lo, bèn lập mưu báo Nguyễn Hoàng giả điên, rồi vào thưa với Khang vương rằng:

- Đứa em của tiện thiếp là quận Đoan bỗng dưng phát chứng điên đến nỗi ngu mê, như thế thì không thể giúp việc chính sự trong triều. Thiếp bị người trong triều chê cười phải xấu hổ nhiều phen. Nay thiếp nghe nói hai xứ Quảng Nam, Thuận Hóa là chỗ núi độc nước xấu, dân man hung dữ, người ta đều chê không muốn đến. Cúi xin tôn ông nghĩ đến công cha tình thiếp, cho quận Đoan em thiếp vào trấn thủ ở xứ ấy, làm bề tôi nơi phên giậu để được hưởng ơn sống suốt đời, tình nghĩa chị em nhờ thế may ra mới được trọn vẹn. Mong tôn ông thương xót ưng thuận cho.

Thái sư Minh Khang vương nói:

- Em Đoan là kẻ anh hùng tuấn kiệt, đủ trí nhiều mưu, có thể dùng vào việc lớn, nào phải là người đần độn đâu. Ta sao nỡ đặt em vào nơi đất xấu ấy? Phu nhân chớ lo, ta đâu có lòng nào. Chánh phi nghe nói, nức nở quỳ khóc, hai ba lần khẩn khoản van nài. Thái sư Minh Khang vưong thầm nghĩ: “Xứ ấy có quân đồn trú của nhà Mạc, cứ cho y đến đó, kể như mượn tay họ Mạc. Ta khỏi phải mang tiếng không biết dùng người”. Nghĩ vậy Kiểm mới chịu ưng cho. Chính phi vái tạ lui ra. Rồi đó thái sư vào tâu vua xin phong cho Nguyễn Hoàng làm thái úy Đoan quốc công, giữ chức trấn thủ tổng quản binh dân hai xứ Thuận, Quảng, hàng năm theo thể lệ thu thuế mà dâng nạp.

Đoan quốc công Nguyễn Hoàng vái tạ trở về phủ từ biệt chị là Nguyễn phi. Rồi Đoan quốc công cùng với các công tử thái bảo Hòa quận công, Thụy quận công và các tướng Văn Nham, Thạch Xuyên, Tiền Trung, Tường Lộc ngay ngày hôm ấy đem một nghìn quân thủy ra cửa biển nhằnn theo hướng hai xứ Thuận, Quảng mà tiến. Chiến thuyền tiến thẳng vào cửa Yên Việt[8] đóng quân trên bãi cát nổi thuộc xã ái Tử, huyện Vũ Xương[9]. Nguyễn Hoàng mật sai quân đi khắp các huyện từ Vũ Xương đến Hương Trà xem xét địa thế. Quân của Hoàng thấy ở xã Phú Xuân huyện Hương Trà núi sông vòng tụ, cảnh đẹp dân giàu, bèn trở về bẩm báo, Đoan quốc công rất mừng, nghĩ cách thi hành đức chính để vỗ về dân chúng.

[8] Cửa Yên Việt tức cửa Việt.

[9] Vũ Xương: Tên huyện đời Lê Mạc. Sau đời Nguyễn đổi gọi là Đàng Xương, nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Bình Trị Thiên.

Lại nói lúc trước vào khoảng năm Quang Bảo (1554-1556) nhà Mạc đã sai tướng là đô đốc Lập quận công vào trấn thủ hai xứ Thuận, Quảng. Quận Lập đóng doanh ở miền huyện Khang Lộc[10], khi nghe tin Đoan quận công vào trấn thủ liền đem ba mươi chiến thuyền vượt biển đến cửa Yên Việt. Lại sai một ngàn quân bộ tiến phát theo đường Hồ Xá, đến qua xã Lãng Uyển dừng lại đóng quân ở miếu Thanh Tương, dự định đáuh úp cướp trại của chúa Tiên[11].

[10] Khang Lộc: Tên huyện đời Lê, trước gọi là Kiến Lộc, sau đổi là Khang Lộc, đầu đời Nguyễn đổi là Phong Lộc, nay thuộc phần đất của huyện Quảng Ninh, tỉnh Bình Trị Thiên.

[11] Chúa Tiên: Từ này trong nguyên văn gọi Nguyễn Hoàng là Vương (chúa) hoặc Tiên vương (chúa Tiên).

Bấy giờ chúa vốn không có quân bộ, chỉ có hai mươi chiếc chiến thuyền không có bộ binh, thế khó chống cự. Chúa rất lo lắng. Đang đêm đốt đuốc ngồi buồn, bỗng nghe bên bờ sông có tiếng dòng nước kêu vaug “Trảo trảo...”. Chúa lấy làm lạ. Sáng ngày ra bờ sông thấy một vùng nước xô sóng cuộn âm thanh vang động khác thường, bèn thầm khấn rằng: “Trên sông nếu có thần linh phù hộ cho đánh tan quân giặc, sẽ xin lập miếu bốn mùa cúng thờ”, khấn xong trở về doanh. Đêm ấy chúa chiêm bao thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm chiếc quạt the đi đến thưa rằng: “Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng cần lập kế dụ chúng đến bãi cát bên sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phiền nhiễu đến dân trong miền”. Nói xong buông tay áo mà đi. Chúa tỉnh dậy mới biết là nằm mộng, thầm vui trong lòng, ngước lên không mà kính tạ. Chúa nghĩ bụng: Chiêm bao thấy người đàn bà bảo ta phải lập kế dụ địch, như vậy ắt phải dùng kế mĩ nhân.

Bấy giờ chúa có nàng hầu xinh đẹp quê ở xã Thế Lại[12] xứ Thuận Hóa tên là Ngô Thị Lâm, tuy là phận gái nhưng có mưu trí gan dạ, nói năng nhanh nhẹn dễ nghe, ứng đối trôi chảy, về nhan sắc thì nguyệt mờ hoa thẹn, dáng điệu cá lặn nhạn rơi, dẫu là đối với nàng Tây Thi[13] ở Hàm Đan cũng không chịu thua kém mẩy. Chúa cả mừng, bèn sai Ngô thị đem các thứ báu vật vàng bạc, kì nam đến trại quan tiến dâng cho quận Lập xin mở đường hòa hiếu, ưng chịu cho hắn tư thông rồi tìm cách dụ hắn đến xứ Trảo Trảo để lập kế diệt trừ. Ngô thị nghe nói quỳ khóc thưa rằng:

- Tiện thiếp từ khi theo hầu chúa thượng dốc lòng theo nữ đạo, giữ trinh tiết phu nhân. Nay chúa bảo nhảy vào chỗ nước sôi lửa bỏng, muốn chết thiếp cũng không dám từ. Nhưng lại bảo tư thông với người ta, thiếp thật không hiểu là có ý gì! Thần thiếp xin chịu tội chết chứ không dám tuân theo lệnh ấy.

[12] Xã Thế Lại: thuộc huyện Tư Vinh. Tư Vinh là tên huyện đời Lê, đến đời Nguyễn đổi gọi là Phú Vinh (thường đọc là Phú Vang).

[13] Tây Thi: người con gái đẹp ở nước Việt thời Xuân Thu. Việt vương Câu thua trận ở Cối Kê, Phạm Lãi đem Tây Thi dâng cho Ngô vương Phù Sai làm kế mĩ nhân. Nước Ngô mất, Tây Thi lại trở về với Phạm Lãi.

Chúa vừa cười vừa bảo:

- Lời nàng nói như thế thật biết giữ phẩm tiết lớn của đàn bà. Ta hiểu rõ lòng nàng. Nhưng nay việc quốc gia đại sự không dùng sức nàng thì làm sao mà phá giặc được? Nàng cứ nghe theo lời ta, chớ chối từ.

Thị Lâm vái khóc tuân mệnh, rồi lĩnh các thứ báu vật đem đến quân doanh xin yết kiến Lập quận công. Thị Lâm thưa rằng:

- Thần vâng lệnh quan quận Đoan nghe tin minh công oai trời sắp đến, lo sợ khôn xiết, đặc cách sai tiện thiếp đem vài thứ đồ vật cũ đến kính mừng để bày tỏ thành tâm. Xin minh công cho lập lễ thề: Minh công làm huynh trưởng, bản quan của thiếp làm nghĩa đệ, cùng đồng lòng chung sức may mới tránh khỏi hiềm thù đánh giết lẫn nhau, gây tổn hại cho trăm họ.

Quận Lập nghe xong cất giọng cả mắng:

- Ngươi muốn làm sứ giả đàn bà đến thuyết khách để câu ta đó chăng?

Thị Lâm giả cách run sợ sụp đầu van lạy nhưng vẫn ngước mắt chuyển làn thu ba đưa tình. Quận Lập là kẻ tham của và mê gái, thấy nàng Ngô thị xinh đẹp vô song, ăn nói giỏi giang khéo léo, lòng dục đã bốc lên. Quận Lập liền đổi sắc mặt, cả cười thu nhận lễ vật, rồi dắt tay đưa về phòng riêng, cùng Ngô thị tư thông. Thị Lâm dùng kế “cành dương ngả theo bóng dương”. Quận Lập đã say đắm mê muội, Thị Lâm lại đẹp tình nhắc việc lập lễ thề, quận Lập bèn nghe theo. Quận Lập hai ba lần sai quân đi thám thính, thấy quả thật bên quận Đoan ít quân, không có điều gì đáng nghi ngờ, bèn cùng với Ngô Thị Lâm định ngày làm lễ thề kết nghĩa.

Ngô Thị Lâm vui mừng khôn xiết, liền sai người hầu trở về báo tin cho chúa biết. Đoan quốc công cả mừng, liền sai người đến bãi cát ở xứ Trảo Trảo dựng một gian miếu tranh, đào hố ngầm ở bốn phía, chọn những tên quân sĩ khỏe mạnh, ai nấy đều cầm khí giới nằm nấp trong hố, lấy cỏ lác và cát vùi lên. Còn lại hơn hai mươi tên quân già yếu sai cầm sọt xách chổi đứng chờ ở cửa miếu để đợi lệnh.

Hạ tuần tháng mười, Thị Lâm dụ quận Lập đến thảo miếu làm lễ thề. Quận Lập thấy bên quận Đoan ít quân, cho nên không dè dặt nghi ngờ, bèn lên một chiếc thuyền nhỏ, đem theo ba mươi tên quân hầu, bắt chước cách Quan Vân Trường một mình đến chỗ hội. Khi đến trước cửa miếu Trảo Trảo, thuyền ghé vào bãi, quận Lập tay cầm bảo đao đi bộ vào miếu. Bấy giờ Thị Lâm đi theo bên cạnh thưa rằng:

- Xin minh công đi chầm chậm kẻo bản quan của thiếp lo sợ.

Quận Lập cất tiếng cười vang, bèn lơi chân thong thả bước về phía cửa miếu. Đoan quốc công sửa áo mũ ngay ngắn, chắp tay ra đón tiếp từ xa. Khi quận Lập đi đến gần miếu. Đoan quốc công bèn quát lớn: “Quân bay dậy mau để đón tiếp tôn huynh!”.

Quân phục nấp dưới hố nhất tề vùng dậy xông vào vây bắt. Quận Lập cả kinh, hồn xiêu phách lạc co chân tháo chạy, đến bên sông thì thuyền vừa rời bãi. Quận Lập trổ hết sức bình sinh nhảy ào lên mạn thuyền, nhưng rơi tõm xuống sông. Lúc ấy bộ tướng của Đoan quốc công là Thự Trung, Thự Thiết[14] nối đến, thấy quận Lập lóp ngóp dưới sông, bèn dương cung bắn chết. Quân hầu của quận Lập tán loạn chạy trốn. Đoan quốc công thừa thắng tung quân đánh gấp. Quân thủy quân bộ của quận Lập tìm đường tháo chạy về Đông kinh[15] hoặc đầu hàng.

[14] Thự Trung, Thự Thiết: hai người tên Trung và Thiết giữ chức thự vệ (quan võ).

[15] Đông kinh: Tức kinh đô Thăng Long (bấy giờ do nhà Mạc kiểm soát).

Đoan quốc công giận thần miếu Thanh Tương[16] trách mắng rằng:

- Ta đã cho bốn mùa thờ cúng, xin giúp phúc nước hộ dân, sao lại dung cho đảng giặc vào trong cõi? Thế thì thờ cúng có ích gì?

[16] Miếu Thanh Tương (ở gần xã Lãng Uyển) là nơi quân bộ của quận Lập dừng nghỉ khi đi đánh Nguyễn Hoàng.

Nói đoạn sai thủy quân triệt phá miếu thờ. Rồi đó Đoan quốc công Nguyễn Hoàng trở về phủ doanh mở tiệc thết đãi các tướng, hậu thưởng ba quân. Lại sai người tu sửa miếu Trảo Trảo, phong hiệu cho vị thần ấy là “Linh thu phổ trạch tướng hựu phu nhân”[17], bồn mùa thờ phụng. Chúa nghĩ đến công lao của nàng hầu Ngô thị, muốn đền đáp trọng hậu, bèn mời nàng tới bảo rằng:

- Trừ diệt được phe đảng của quận Lập, ấy là nhờ công lao của nàng. Ta muốn kén chọn người tài trí gả chồng cho nàng để tại thành địa vị khanh tướng, khỏi phải lóc lóc[18] làm kẻ nô tì, cũng là để làm cho hiển rạng công lớn.

[17] Linh thu phổ trạch tướng hựu phu nhân: Có nghĩa là “Vị thần ở dòng nước thiêng có công phù hộ”.

[18] Lóc lóc: Có nghĩa là cô đơn (từ cổ, chép chữ Nôm trong nguyên văn).

Ngô thị nghe nói, sụp khóc mà than rằng:

- Ý nguyện bình sinh của thần thiếp là muốn được cầm khăn lược theo hầu chúa thượng, giữ vẹn tiết trinh. Chỉ vì việc nước mà phải ô uế tấm thân, khó mài rửa được. Từ nay về sau thần thiếp xin giữ việc bếp nước quét tước đền ơn thánh chúa để vẹn đạo làm tôi. Còn như chúa thượng muốn cải giá cho thần thì thần đến chết cũng không dám tuân mệnh. Xin chúa thượng lượng thứ cho.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3