Linh hồn và quỷ dữ - Chương 12
Chương 12:
RẰM THÁNG BA[27]
CUỐN SÁCH VỀ JULIUS
Ngày trước ngày rằm tháng Ba.
[27] The Ides of March: Theo ngôn ngữ Latin là Idus Martii – là cách gọi ngày 15 tháng 3 trong lịch La Mã, chỉ ngày trăng tròn (như ngày rằm trong lịch âm ở phương Đông – ND). Từ Ides được sử dụng cho ngày 15 của các tháng Ba, Năm, Bảy và Mười; và cho ngày 13 các tháng còn lại. Ngày rằm tháng Ba là ngày lễ tưởng nhớ vị thần chiến tranh và thường được tổ chức diễu hành duyệt binh. Trong xã hội hiện đại, cụm The Ides of March được biết đến rộng rãi nhất là ngày mà Julius Caesar bị giết vào năm 44 TCN. Julius Caesar bị đâm 23 nhát cho đến chết trong Thượng viện La Mã bởi kẻ dẫn đầu Marcus Junius Brutus, Gaius Cassius Longinus và 60 kẻ đồng mưu khác.
The Ides of March ở đây được nhắc đến là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Thornton Wilder viết theo lối thư từ được xuất bản năm 1948, mà theo tác giả, đây là một phóng tác dựa trên những sự kiện và nhân vật cụ thể trong những ngày cuối cùng của đế chế La Mã.
Năm của lãnh sự Publius Cornelius Lentulus Spinther và Quintus Caecilius Metellus Nepos.
Đã ba năm kể từ khi ta bắt đầu chiến dịch khốn khổ chống lại người Gô-loa - vì tiền, mặc dù trong những bản ghi chép của ta, ta đều nói với thần dân La Mã đó là vì danh dự của họ. Bởi vì ta người kiểm soát La Mã, nhưng ta lại sợ ta sẽ không bao giờ là Caesar của nó. Trong khi cắm trại tại sông Sambre, đội bọc hậu của chúng ta đã phải hứng chịu một cuộc tấn công bất ngờ. Chúng đã lao vào khiên của chúng ta với sức mạnh kinh người, ta nghĩ có thể cuộc viễn chinh của ta trước giờ là một sự liều lĩnh vô ích. Ta có thể bị buộc phải tham gia vào cuộc chiến. Ta không lo cho mạng sống của mình. Ta chỉ lo sợ cho tên tuổi của ta.
Rằm tháng Ba.
Năm của lãnh sự Publius Cornelius Lentulus Spinther và Quintus Caecilius Metellus Nepos. Ta đã gặp một người phụ nữ.
***
Tháng Ba là một tháng thê lương và ảm đạm, không có gì khác ngoài những kế hoạch không thể hoàn thành. Thời tiết New York ẩm ướt và u ám. Madame Vileroy vẫn như mọi khi, và phần lớn bọn trẻ nhà Faust vẫn chưa được chào đón lắm ở Marlowe. Belle trở thành nàng ong chúa là điều mà ai cũng phải thừa nhận, nhưng không ai thích ong chúa cả. Những lần tắm rửa quá đau đớn làm nó phải mất nhiều ngày mới hồi phục. Mặc dù nó có thể kiểm soát cảm giác của người khác, nhưng tâm trạng của chính nó thì lại bất ổn và hoảng loạn. Nó thường rời khỏi phòng tắm trong tình trạng hoàn toàn suy nhược, móng tay cắm vào trong cẳng tay. Sau những hồi phục ban đầu, nó cáu kỉnh, rồi trở nên giận dữ với cả thế giới. Đó là những khi nó mắc sai lầm, khi những cơn đau làm cho nó trở nên chua cay. Thậm chí ngay cả khi tự nó làm người ta yêu thích nó, thì bản thân nó cũng không hề thích tham gia vào trò chơi đó chút nào. Một ngày kia nó làm một giáo viên phải khóc. Gương mặt sưng vêu to bè của ông ta trông thật kinh tởm khi ông ta rền rĩ giữa lớp, nói rằng ông ta yêu nó, rồi gọi điện thoại cho vợ ngay trước mắt toàn thể học sinh và nói rằng ông ta muốn chia tay. Đó đúng là một cảnh tượng kỳ cục, một người đàn ông trưởng thành quỳ gối, vô cùng tuyệt vọng và khát khao, làm đám học sinh khiếp sợ. Và sự không đứng đắn trong việc này đã làm Belle trông thật xấu xa.
Sự căm ghét mà Victoria dành cho Marlowe dịu đi sau khi nó thắng trong cuộc bầu chọn chủ tịch Hội học sinh. Nó đã tham gia đội hùng biện và bị cuốn vào thời gian biểu đầy kín những hoạt động. Mặc dù vậy, nó vẫn tìm ra hàng đống thứ để căm ghét, như mấy mụ già xấu như cóc trong văn phòng cố vấn - những kẻ mà số lần nghĩ đến món kem làm người ta sốc, hay gã lỏi con Thomas đang trong giai đoạn chiến thắng ở môn hùng biện, hay những tay rapper muốn trở thành găng-xtơ trong Câu lạc bộ Ngân hàng đầu tư - và dĩ nhiên, còn một liều lượng căm ghét bệnh hoạn nó dành cho Lucy Spencer nữa.
Tuy vậy, không có đứa trẻ nhà Faust nào bị xuống tinh thần trong cái tháng Ba dài vô tận như Christian. Nó đã đánh mất thằng bạn duy nhất sau sự vụ trong hành lang với Lucy. Sau việc đó Connor đã giữ khoảng cách với nó, cậu chàng không đề nghị chơi golf hay dẫn Christian tham quan quanh trường nữa. Christian tiếp tục sống, nhưng nó không thích nghi giỏi với tình trạng không bạn bè như Bicé. Một lần, Bicé bước vào phòng Christian khi mọi thứ xung quanh đã dừng lại và cô bé thấy Christian đông cứng đang dạy cho con rối Buddy cách đập tay ăn mừng chiến thắng kỳ quặc.
Bicé duy trì tình trạng trầm lắng. Bọn trẻ trong trường cười nhạo nó, bảo nó chậm phát triển, vì chuyện nó cứ quên mọi thứ mà người ta vừa bảo nó, hay gần như ré lên nếu như có người chạm vào nó, hoặc tự độc thoại trong lớp học khi giáo viên giảng bài. Ngay cả khi ở giữa đám đông, Bicé cũng hành động như thể nó bị đắm tàu và lạc trên hoang đảo. Nó hẳn là phải bị điên hay tâm thần phân liệt, cho đến khi đột nhiên nó dịch tiếng Latin của Cicero[28] như thể đó là tiếng Anh của Seuss[29], hay bắt được bọn châu Á đang cười nhạo nó bằng tiếng Quảng Đông và sửa lại ngữ pháp cho chúng, hay dành trọn một giờ giải thích ẩn ý của những câu chuyện cười trong Finnegans Wake. Trong những giờ phút đó, Bicé vô cùng rộng lượng, và rồi nó thấy những đôi mắt đang nhìn nó chằm chằm và thế là nó co lại. Nó bảo như thế giống như kiểu “ở trong chuồng khỉ” ấy, đó là một thành ngữ ở Swahili. Nó đã trở nên nổi tiếng. Dạy Bicé giống như khai quật thư viện Alexandria - không có gì để thêm vào, chỉ hi vọng khám phá ra thứ gì đã có sẵn, chôn giấu dưới mặt biển.
[28] Marcus Tullius Cicero: Một triết gia, một luật sư, một chính khách, một nhà lý luận chính trị, và là một người theo chủ nghĩa hợp hiến của La Mã.
[29] Theodor Seuss Geisel: Thường được biết đến với tên Dr. Seuss, là một nhà văn, một người vẽ tranh biếm họa của Mỹ nổi tiếng với các tác phẩm viết cho trẻ em.
Chuyện quá nhiều người chú ý làm nó bị ghen ghét, mang tiếng xấu. Nếu như bắt xe buýt, nó sẽ là đứa co ro trên ghế ngồi ngay phía sau tài xế. Anh chị em của nó thì bận rộn với cuộc sống cuồng nhiệt, vì thế càng lúc càng nhiều các bữa trưa và giờ nghỉ đọc sách nó chỉ có một mình. Trong khi anh chị em của nó vật lộn vì những phần thưởng, trong khi chúng lao về phía những giấc mơ cụ thể của mình, thì Bicé vật lộn để tìm một người bạn - bất kỳ nơi đâu, thậm chí là trong những cuốn sách. Nó cứ nghĩ rằng nếu như có thể học được ngày càng nhiều các thứ tiếng thì nó sẽ tìm được một người bạn ở đâu đó trên hành tinh này.
Những ngày này, những đứa trẻ khác chòng ghẹo nó và biết rằng nó sẽ không phản kháng. Không hiểu sao, chẳng đứa nào ở trường có thể hiểu được một người như Bicé, vì thế chúng đem nó ra làm trò cười, làm cho nó xấu hổ. Những lúc hiếm hoi mà Bicé đối đáp lại một cách thông minh thì chúng lại cười nó nhiều hơn. Đôi khi, Valentin nói rằng Bicé quá mức lơ đễnh như thể giả vờ, tự biên tự diễn. Như cái lần Bicé bị bắt gặp đang đọc Kama Sutra[30] bằng tiếng Phạn gốc trong hành lang giữa giờ học, ngay giữa thanh thiên bạch nhật, cái bìa phản cảm giơ ra trước mặt đám học sinh, lật trang sột soạt, trán cau lại, tập trung cao độ để hiểu từng từ trong sách.
[30] Kama Sutra là một cuốn sách Ấn Độ cổ, biên khảo về tình dục. Tác phẩm gồm 7 phần, với khoảng 1.250 khổ thơ được cho là do thiền sư Bà la môn Mallanaga Vatsyayana, sống ở Pataliputra, phía bắc Ấn Độ, viết vào thế kỷ thứ III. Kama Sutra đề cập đến nhiều khía cạnh trong đời sống tình dục, như mô tả các tư thế giao hợp, những gì đôi bạn tình chờ đợi ở nhau và đưa ra lời khuyên hữu ích. Các vấn đề tình dục được Kama Sutra đề cập rất chi tiết, cụ thể.
Trên thực tế, Bicé không có lựa chọn nào ngoài việc tập trung như thế. Bởi vì nó không chỉ đang học ngôn ngữ, mà còn giải mã ngôn ngữ. Bóc tách chúng ra, rồi lại ghép chúng lại với nhau từ các mảnh nhỏ. Nó dành hàng giờ liền nghiên cứu về cú pháp và nguồn gốc, sử dụng ngôn ngữ này để học một ngôn ngữ khác. Đó là lý do vì sao hầu hết bọn trẻ ngoại quốc không thích nó. “Quá ngạo mạn,” chúng bảo nó thế. Như vụ với Pamposh Koul và cái băng gồm những cô nàng nhập cư Nam Á lộng lẫy của cậu ta - những cô nàng đã chuyển đến Marlowe từ những trường hàng đầu ở Ấn Độ và Pakistan, hầu hết đều đang được huấn luyện để tranh ngôi Hoa hậu Hoàn Vũ và tập trung sát sao cạnh Pamposh. Đó là cái ngày mà Pamposh đã hỏi Bicé xem nó có biết nói tiếng Kashmir không và Bicé trả lời không, bởi vì nó không biết thật. Vài giờ sau, Pamposh và ba cô bạn gái của cậu ta ngồi quanh một chiếc bàn ở thư viện, cách Bicé vài bước chân, thì thào những nhận xét xấu xa bằng tiếng Kashmir, đảm bảo nhấn mạnh cái thực tế rằng, đúng, chúng đang chòng ghẹo Bicé,, và không, lần này Bicé không thể hiểu được.
Thế rồi một trong mấy đứa nó bước qua bàn Bicé, vẫy vẫy một mảnh giấy.
“Này, cậu là đứa con gái ngôn ngữ, đúng không?” Bicé không nói gì.
“Bọn tôi nghĩ cậu sẽ thích học tiếng Kashmir. Bọn tôi viết ra đây vài từ. Đây, nhìn xem.” Con bé đó đưa bản danh sách cho Bicé, được viết bằng nét chữ con gái khá đẹp. “Đến ngồi với bọn tôi, bọn tôi sẽ dạy cho cậu nói.” Mắt nhìn mẩu giấy với vẻ tập trung cao độ, Bicé chỉ hơi ngẩng lên khi nó để đứa con gái kia dẫn nó đến bàn của bọn kia. Nó ngồi im lặng trong lúc bọn chúng dỗ ngọt nó nói vài cụm từ, như chúng bảo nó nhắc lại cái này hay phát âm cái kia, “Đây là từ để nói xin chào.”
“Đây là cách cậu hỏi đường đến nhà hàng gần đây.”
“Đây là cách cậu giới thiệu gia đình mình.” Cuối cùng, sau khoảng mười phút, Bicé ngẩng lên.
“Từ này không có nghĩa là nhà hàng.”
“Đúng thế đấy.” Pamposh nói với vẻ ngây thơ.
“Chà, nếu đúng thế, thì tôi cá là những du khách nói tiếng Urdu không ăn uống thường xuyên ở Kashmir...”
“Cái gì?”
“Và chỗ này đây, nghĩa của nó không phải là ‘Rất hân hạnh được gặp bạn.’ Nó thật tục tĩu.” Bicé tiếp tục đọc. “Và tôi sẽ không nói bất kỳ câu nào trong số đó về ừm… đó rõ ràng là về Christian.” Pamposh, thay vì cảm thấy hổ thẹn lại chỉ nghĩ rằng mình bị Bicé lừa gạt. Cậu chàng khoanh tay và ngồi thẳng dậy, nhìn Bicé nghiền ngẫm những từ tục tĩu bằng tiếng Kashmir. Bicé như một nhà địa chất đào xuyên qua những lớp rác rưởi đã hóa thạch (những thứ mà Pamposh đã vô tình cung cấp) để gạn lọc ra những thứ hữu ích. Pamposh không thích thú vị thế của mình cho lắm.
“Gì, vậy là cậu đã học tiếng Kashmir trong ba giờ vừa rồi?” Vào những lúc như thế, khi Bicé nghĩ rằng mấy đứa bạn học của nó thực sự cần một lời giải thích, khi nó cho rằng một câu trả lời hợp lý sẽ làm nó được yêu quý, đó là những lúc nó cảm thấy hạnh phúc - để rồi sau đó, lại cảm thấy cô độc nhất. Những lúc như thế thì bản năng tự phòng vệ của nó luôn chịu thua trước những quyết định thiếu sáng suốt.
Nó gấp tờ giấy lại, hơi quá hào hứng.
“Không, không! Thấy không, một khi các cậu biết được bảy hay tám ngôn ngữ trong cùng một họ thì ngôn ngữ thứ chín sẽ trở nên dễ dàng. Các cậu không cần phải học trên lớp hay gì cả. Chỉ cần một cuộc nói chuyện và một giờ đồng hồ với từ điển …” Bọn chúng không thấy ấn tượng. Bicé tiếp tục:
“Các cậu có thể sử dụng các ngôn ngữ khác - cú pháp, gốc từ và những từ thông thường...” Khi không ai nói gì, Bicé trở nên ấp úng, nó nghĩ rằng bọn chúng không hiểu.
“Có những họ ngôn ngữ, hiểu không? Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha.” Nó đếm ngón tay, “Đó là họ ngôn ngữ La tinh.” Vẫn không có phản hồi nào.
“Chà, các cậu có họ ngôn ngữ của các cậu, đúng không? Ngôn ngữ Indo-Aryan? Punjab, Gujarat, Kashmir? Các cậu hiểu không?” Sau một lúc, nó nhận ra rằng bọn chúng chẳng quan tâm. Rằng bọn chúng không kiếm tìm bài học. Rằng một lần nữa nó lại sai lầm. Vì thế nó hắng giọng rồi thì thào bằng một giọng yếu ớt, ề à, “Klingon, Wookie, Elvish[31]...” Chẳng đứa nào hiểu câu nói đùa đó.
[31] Klington: Người cây, nhân vật trong game Star War. Wookie: chiến binh trong sê-ri phim Star Trek. Elvish: ngôn ngữ yêu tinh.
***
Vào bữa trưa, hành lang trường Marlowe đầy bọn trẻ với cổ áo dựng lên, điện thoại di động màu hồng chóe, và những cái hộp bento[32] chứa đầy unagi[33]. Bicé bâng quơ đứng bên ngoài thư viện, quan sát đám học sinh đang tán gẫu trong đồng phục Marlowe, giày thể thao màu xámxanh, quần thụng và váy, áo sơ mi trắng quăn tít. Bicé cảm thấy thôi thúc muốn quay về nhà. Hay dừng tất cả lại và một mình khám phá ngôi trường. Hay chỉ trốn ở đó thêm vài phút nữa. Bicé ghét đám đông hơn bất kỳ thứ gì. Nó nghĩ sẽ quay trở lại thư viện, dành giờ ăn trưa để đọc sách và giải mã một họ ngôn ngữ khác, có thể là họ ngôn ngữ Mỹ bản địa nào đó. Nhưng rồi từ khóe mắt, nó nhìn thấy Belle đang hấp tấp bước về phía phòng vệ sinh nữ. Quên ngay cái danh sách ngắn ngủi thảm hại của nó về các lựa chọn cho bữa trưa, Bicé có một khao khát lớn hơn tất cả là trách nhiệm với đứa em gái. Nó theo Belle vào phòng vệ sinh, co người lại trong góc khi Belle bước vào một buồng vệ sinh. Cửa vào phòng vệ sinh đột nhiên bật mở lần nữa, và Bicé phải núp sau cửa khi một con bé tóc vàng hoạt bát buộc tóc đuôi ngựa bước vào và bắt đầu gõ cửa từng buồng.
[32] Bento: Tiếng Nhật, nghĩa là bữa ăn bỏ hộp.
[33] Unagi: Tiếng Nhật, nghĩa là lươn nước ngọt.
“Tôi ở đây, Mags,” Bicé nghe giọng khào khào của em gái nó phát ra từ một buồng vệ sinh, “Đừng lo, không có ai khác ở đây cả.” Bicé tự hỏi bọn nó nấn ná trong phòng vệ sinh như thế để làm gì. Chẳng phải Belle nên đi mê hoặc mọi người vào giờ ăn trưa sao? Sự mê hoặc trong phòng ăn của Belle chưa bao giờ là kín đáo. Khi Belle lướt qua khung cửa đôi to lớn, toàn trường quay lại nhìn nó, đánh rớt những miếng sandwich đang ăn dở, bỏ rơi những thanh kẹo và những mẩu đối thoại. Khi Belle tiến về một chiếc bàn, mọi người liền tìm cơ hội, liều lĩnh để được đến gần nó hơn. Belle là thứ gây nghiện tập thể ở Marlowe, thấm vào trái tim toàn trường theo từng cơn gió.
Maggie cố gắng bước vào trong, nhưng trong buồng còn rất ít chỗ. Hai đứa nó để cửa mở tung một cách bất cẩn. Bên trong, Bicé nhìn hai đứa cúi xuống trên túi xách của Belle. Lần lượt, từng đứa thò tay vào túi và bốc ra một tay đầy thuốc. Maggie đột nhiên cười khúc khích, và Belle phải giơ tay bịt mồm để bắt Maggie im lặng. Bicé cảm thấy buồn và sốc, nó tìm cơ hội rời khỏi nơi ẩn náu của mình và trốn vào trong một lớp học trống.
***
Kể từ cái ngày định mệnh vào cuối tháng Bảy đó, mà theo như cách gọi của bà Wirth là “thứ Sáu thổ tả”, bà Wirth đã không hề đến gần Câu lạc bộ Quần vợt sân tường và Sức khỏe ở Trung tâm Rockefeller, nơi tất cả các quý bà tụ tập sau một buổi chiều lê thê “mua sắm cho đến khi chúng đứt!” (“chúng” ở đây là đám phục vụ). Các quý bà thường ngồi cùng nhau tranh cãi việc “săn lùng món hời” khó dễ đến mức nào, món sinh tố kiwi đầy axít amin khó uống làm sao, và những huấn luyện viên thể hình trông ngon lành thế nào khi họ phô diễn trên máy đi bộ. Thế là bây giờ vào các buổi chiều thứ Sáu, bà Wirth tránh câu lạc bộ sức khỏe như câu lạc bộ chân dài mùa trước. Trên thực tế, trong cái ngày đặc biệt này, bà cũng không khác nhiều so với “các quý bà ăn trưa và nghiến răng”. Bà bước vào cửa hàng Payard Patisserie và chỉ vào món bánh nhân hoa quả trên kệ thứ ba, món bánh kem mút trên kệ thứ tư, phần lớn món bánh hạnh nhân ở kệ số một, và gần như là tất cả những gì bà có thể xách từ kệ số hai, năm và sáu (trừ món pudding chuối mà bà nghe nói là làm từ kem bơ, một mục “không” trong cái danh sách ăn kiêng không kem bơ). Bà Wirth mua cappuccino không đường cùng với món sandwich tastie, lấy món cannoli “ăn trên đường” đến bàn của mình. Bà đang cố gắng dùng lưỡi xúc bỏ lớp kem, quăng quật đống túi đựng đồ vào mặt những khách hàng khác, thì nhận ra Nicola Vileroy đang ngồi ở một góc hóng mát một mình.
Bà vẫy vẫy tay, “Yô hô! Nicola thân mến!” Vileroy không quay lại.
Bà Wirth trề môi và bước thẳng tới, “Nicola? Nicola!” Madame Vileroy ngồi ở một bàn trống, nhìn trân trân vào một mảng tường trống, dường như không hề chú ý đến ai. Mụ không nháy mắt, và bên dưới chiếc váy đen vừa vặn được trang điểm bởi đăng ten khâu bằng tay, ngực mụ dường như không hề nhấp nhô theo hơi thở như những người bình thường. Mụ trông như thể bị tâm thần phân liệt. Bà Wirth ngồi ngay trước mặt mụ. Nhưng dường như Madame Vileroy không nhận thấy sự có mặt của bà, hay bất kỳ điều gì khác.
“Nicola thân mến. Cô không định chào hỏi sao?” Bà Wirth vẫy vẫy tay trước mặt mụ, “Cô có muốn dùng nửa phần cannoli của tôi không?” Không có câu trả lời. Bà Wirth với tay chạm vào tay Vileroy. Nó lạnh như một tầng hầm rỗng tuếch. Bà Wirth khẽ véo Vileroy, rồi lại cố véo lần nữa mạnh hơn. Bà cắm móng tay vào lớp da trên mu bàn tay Vileroy, nhưng không có phản ứng gì. Như thể Madame Vileroy không có cảm giác gì, không nghe, không thấy, không ngửi, không nếm được gì. Mụ như mất tất cả các giác quan - tất cả những cảm nhận tốt và xấu về thế giới.
Madame Vileroy bừng tỉnh và nhìn thấy bà Wirth đang lấy một cái nĩa chọc vào tay mụ.
“Ồ!” Bà Wirth kêu lên, rụt cái nĩa lại. “Cô không sao chứ? Tôi đang định gọi xe cứu thương đấy.”
“Không cần,” Madame Vileroy nói, cố nở một nụ cười tỏ ra bối rối. Kể từ khi bà Wirth biết mụ, đây là lần đầu tiên bà thấy mụ trong tình trạng như vậy. Vileroy đặt một tay lên búi tóc, nhìn xung quanh như thể tự hỏi mình đang ở đâu, rồi tóm lấy ly cappuccino không đường đang bốc khói của bà Wirth và uống một hơi hết sạch.
“Nicola, bạn yêu quý, cô có sao không? Cô làm tôi sợ gần chết,” bà Wirth nói.
Gương mặt Madame Vileroy dần dần tan ra thành nụ cười đầy mật ngọt. “Thêm ít chocolate chứ?” Mụ mời người bạn mới. Dần dần, bà Wirth quên mất cơn sốc của mình và trở nên mê mải trước sự hiện diện đầy ma thuật của người đàn bà trước mặt.
“Chà, thực sự là tôi không nên. Chocolate đã phủ đầy bánh ngọt của tôi rồi. Mặc dù rất cám dỗ...”
“Ai cấm bà thi thoảng đầu hàng trước cám dỗ một lần chứ? Như chúng tôi nói ở Paris, Tout en moderation, mime moderation. Mọi thứ đều phải vừa phải, ngay cả sự vừa phải.”
“Ồ, ồ,” Bà Wirth nói. “Phải, chà, trong trường hợp đó...” Bà Wirth cố gọi bồi bàn, nhưng không ai chú ý đến bà ta. Madame Vileroy khẽ ho vào tay. Đột nhiên một anh chàng bồi bàn đẹp trai bê một tách trà Darjeeling và món tráng miệng ưa thích của bà Wirth ra. Đó là một miếng bánh Devil’s Food. Thật lạ, bởi vì nhà hàng không phục vụ bánh Devil’s Food. Bà Wirth chỉ ngồi đó, không thốt nên lời, trong khi anh chàng bồi bàn đem cho Madame Vileroy một miếng bánh nhân táo đỏ và một tách trà Earl Grey. Madame Vileroy cầm nĩa lên. Mụ nhìn cái bánh một lát, rồi ném cho anh chàng bồi bàn một cái liếc mắt, anh ta vội vã bỏ miếng mâm xôi ở trên cái bánh đi. Trong khi bà Wirth cố gắng nghĩ và tìm ra lời giải thích hợp lý cho những gì vừa mới xảy ra, thì Madame Vileroy nhẫn nại và chậm rãi ăn chiếc bánh của mình, trầm ngâm nhấp trà, nghĩ rằng một buổi chiều đáng chán có thể trở nên vui vẻ hơn bởi những tội lỗi không mời mà đến.
“Cô đang làm gì ở đây?” Bà Wirth hỏi.
“Chỉ là tìm một món quà cho Valentin thôi.”
“Ồ! Sinh nhật thằng bé à?”
“Không.” Bà Wirth chờ, nhưng không có thêm thông tin nào nữa.
“Genevieve, bạn thân mến,” Madame Vileroy nói sau khi dừng lại một lát, “tôi nghe nói con trai bà đang thi đấu trong giải golf.”
“Ồ, phải!” Bà Wirth rạng rỡ. “Connor của tôi luôn chiến thắng. Nó giỏi lắm.”
“Tôi biết,” Madame Vileroy ngọt ngào, “Tôi đã đến buổi tập hôm trước. Đến xem Christian.”
“Tuyệt.” Bà Wirth cắn một miếng bánh.
“Tôi thấy lo lắng. Connor trông hơi… lơ đãng.” Bà Wirth ngẩng lên khỏi chiếc bánh, “Ý cô là gì?” Madame Vileroy nhún vai, “Như có ai đó đã hút sạch sinh lực ra khỏi người thằng bé...” Lúc này thì bà Wirth đã trở nên lo lắng, “Tôi có nên đưa nó đến bác sĩ không?”
“Ồ, tôi chắc là không nghiêm trọng đến thế,” Madame Vileroy nói, “bọn thiếu niên bây giờ lúc nào chẳng mệt mỏi. Tôi chỉ hi vọng là nó không đột nhiên hôn mê trong cuộc thi thôi.” Bà Wirth gượng nở một nụ cười lo lắng. Madame Vileroy chờ đợi. Mụ yêu sự im lặng không thoải mái.
“Bánh ngon thật,” bà Wirth đánh trống lảng.
“Mmmm.” Madame Vileroy chờ đợi. Không cần phải ép người khác bằng cách đào sâu không cần thiết. Bà Wirth sẽ sớm tự nguyện lộ ra những món ngon hữu ích thôi.
Đột nhiên, bà Wirth nghĩ ra thứ để nói, “Thomas cũng chơi golf, cô biết đấy. Và bố thằng bé, Charles, cũng sẽ đến.”
“Ồ?”
“Phải. Charles là một người đáng mến, và có trái tim nhân hậu. Charles làm cho một tổ chức chuyên phát tiền cho các gia đình nghèo ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tổ chức này do một nhà từ thiện người Thổ Nhĩ Kỳ giàu có tên là Yamin lập ra. Nghe nói ông Yamin này đã lâm vào nợ nần khi sáng lập ra tổ chức tài chính nhân đạo này. Và Charles đang giúp ông này giải quyết vấn đề nợ nần ”.
“Ừm,” Madame Vileroy nói, “Chà, chuyện này thật thú vị, Genevieve, nhưng tôi phải đi rồi.” Bà Wirth đang nhấp một ngụm trà, vội nuốt mạnh xuống và nói, “Ồ!” như thể rất thất vọng.
“Tôi phải chuẩn bị một món quà.” Madame Vileroy nháy mắt với bà bạn mới.
“Phải rồi, quà của Valentin.” Bà Wirth nói. “Cô sẽ tặng thằng bé cái gì?” Nicola Vileroy nghiêng đầu, nheo mắt vẻ suy tư trước người phụ nữ già nhạt nhẽo nhưng giao thiệp rộng, rồi nói đơn giản, “Một thứ làm cho nó say mê và vui sướng. Một thứ hoàn toàn siêu thực chắc chắn sẽ túm lấy trí tưởng tượng của nó và không chịu thả ra.”
“Ồ, Nintendo[34], dễ thương làm sao!” Bà Wirth kêu ré lên trong lúc Madame Vileroy xoa xoa cái đầu đau nhức của mình và lặng lẽ gọi một cốc đôi cà phê - rồi rời khỏi.
[34] Nintendo: Một loại video game nổi tiếng của Nhật.
***
Nicola Vileroy tận hưởng các buổi tối một mình. Trong khi bọn trẻ ngủ, mụ lướt qua ngôi nhà và nhìn chúng. Mụ vô hình, bước chân không gây ra tiếng động, hơi thở không tạo ra hơi ấm. Mụ chỉ đơn giản lướt xuyên qua phòng của bọn trẻ, như một bà mẹ thận trọng canh gác cho các con và lên kế hoạch cho ngày tiếp theo. Thường thì bọn trẻ đều ngủ say, và mụ bảo mẫu còn lại trong thế giới riêng của mình. Mụ không phải đứng thẳng người, giữ dáng vẻ quyền uy của mình. Mụ hơi cúi xuống. Búi tóc vàng của mụ còn lâu mới gọn gàng, những xúc tu của mái tóc rối bù xù ra mọi hướng. Con mắt đóng dấu của mụ không ánh lên màu xanh dương như ban ngày, mà rực lên và làm người khác khiếp sợ trong thứ ánh sáng lờ mờ khủng khiếp của bóng đêm vĩnh cửu bao trùm ngôi nhà. Trong bóng đêm của ngôi nhà, không có âm thanh nào ngoại trừ tiếng đập cánh của vài con sâu bướm và tiếng thở của những đứa trẻ đang say ngủ. Nhưng tối nay, khi mụ bảo mẫu thực hiện các vòng thơ thẩn của mình, khi những ngón tay dài lượn lờ bên trên cơ thể xinh đẹp của Belle, chỉ một chút nữa là chạm vào cô bé, mụ bỗng nghe thấy tiếng động, một thứ gì đó trước đây mụ chưa từng nghe thấy, vọng đến từ bên kia phòng.
Madame Vileroy quay lại nhìn về phía giường của Bicé, mụ nghe thấy cô bé đang thì thào, trùm kín đầu chiếc khăn trải giường màu xám. Nói chung, âm thanh khi bọn trẻ lảm nhảm trong lúc ngủ, âm thanh từ những cơn ác mộng của chúng hầu như không làm mụ bảo mẫu xúc động. Nhưng tối nay có điều gì đó thật khác lạ. Mụ di chuyển về phía giường Bicé. Đầu tiên mụ nghe được một từ, sau lại một từ nữa. Tiếng thì thầm bằng một ngôn ngữ khác. Bà ta ở gần. Bà ta ở quá gần. Tay Vileroy run lên khi mụ chồm qua vật lùm lùm nhỏ màu xám - thân hình gầy gò của Bicé. Mụ với tay để chạm vào nó, bàn tay xương xẩu run run của mụ chỉ cách lưng nó vài phân. Nhưng rồi không nói một lời nào, mụ rút tay lại và lướt ra khỏi phòng, mụ ưỡn thẳng lưng, tư thế đầy quyền uy, tâm trí mụ hướng đến ngày tiếp theo. Mụ còn phải nghĩ đến món quà mới cho Valentin. Còn Bicé, mụ không còn món quà nào cho nó nữa, bởi vì mọi bảo mẫu giỏi đều biết, quá nhiều quà sẽ làm hư bọn trẻ, và ai còn muốn một đứa trẻ nằm ngoài tầm kiểm soát của mình như thế?