Bố già trở lại - Phần II - Chương 03 - Phần 2
Cô em Rita cũng đã đi đâu rồi. Một em mái tốt với chất sex tươm ra trên từng phân vuông cơ thể, thạo nghiệp vụ và nhiệt tình công tác. Đáng đồng tiền bát gạo! Căn phòng chừng như còn thoảng mùi whiskey, mùi thuốc lá và mùi... âm hộ của các em. Bức tượng mĩ nữ khỏa thân trong dòng suối với đôi tay giang rộng ra như muốn ôm ai đó. Chàng ta mặc quần áo và để chắc ăn rằng mình sẽ không ngủ gật trên đường đến Los Angeles, uống một trong những viên thuốc màu xanh lá cây mà bác sĩ Jules Segal đã kê toa.
Johnny Fontane bước vào vùng ánh sáng chói chan của bãi đổ xe hạng VIP của khách sạn mà không hề ngần ngại gì. Chàng ta túm lấy các ve áo, duỗi thẳng chiếc áo jacket và leo vào chiếc xe mới, màu đỏ, hiệu Thunderbird (Chim Sấm sét). Đám cớm ở đây đều biết chiếc xe này của ai. Chàng cho con chim bay với tốc độ hơn một trăm ngay cả trước khi rời khỏi thành phố. Chàng liếc nhìn đồng hồ. Trong vòng mấy tiếng nữa đám nhạc công sẽ bắt đầu đi từ từ vào studio. Họ sẽ mất khoảng một giờ để chỉnh dây đàn và uống nước, nói chuyện phiếm và khoảng một giờ khác để Eddie Neils, người nhạc trưởng chỉ huy họ tổng diễn tập. Johnny sẽ làm điều đó đúng lúc. Để lại vài dấu vết ban đầu, đến sân bay lúc sáu giờ, nhảy vào chiếc máy bay thuê bao theo hợp đồng cùng với Falcone và Gussie Cicero, và trở lại đây vừa kịp lúc cho sô diễn riêng mà chàng ta bảo là sẽ làm cho Michael Corleone.
Mãi cho đến lúc bốn giờ sáng - sau khi anh ta đến, mệt lử, dãy phòng khách của Vista del Mar Golf & Racquet Club - thì Tom Hagen mới nhận ra là mình đã để quên cái vợt ở nhà. Cửa hàng bán đồ thể thao không mở cửa cho đến chín giờ, cùng thời điểm mà Hagen dự kiến gặp gỡ Ngài Đại sứ ở Sân 14. Hagen không thể để trễ hẹn. Anh ta hỏi nhân viên tiếp tân xem mình có thể mượn một cái vợt không, và anh chàng tiếp tân nhìn anh ta cứ như thể anh vừa vấy bùn lên lớp nệm trắng tinh của khách sảnh. Anh bảo người tiếp tân rằng sáng mai mình có hẹn chơi tennis sớm và hỏi xem có cách nào để ngay bây giờ đi vào shop chuyên bán đồ thể thao và anh chàng tiếp tân lắc đầu, bảo rằng mình không có chìa khóa. Hagen hỏi liệu có bất kì điều gì có thể làm, hoặc là ngay bây giờ hoặc là vào một thời điểm nào đó trước tám giờ rưỡi sáng mai, và anh chàng tiếp tân lại xin lỗi và nói không. Hagen bèn lấy ra hai tờ trăm đô la và năn nỉ anh chàng tiếp tân rằng mình sẽ biết ơn lắm lắm nếu có bất kì điều gì là khả thi trong sức người mà có thể làm được. Và thế là chàng ta bèn... cười rất điệu!
Hagen đã bắt đầu ngày hôm qua nơi giường của mình ở Las Vegas, rồi, trước bình minh, bay cùng với Michael Corleone đến Detroit, đầu tiên là để gặp Zaluchi nhân ngày cưới ái nữ của Ông Trùm này, sau đó dự đám cưới, xuất hiện ở quầy tiếp tân, và cuối cùng bay trở lại về Vegas. Mike có thể về nhà và đi ngủ. Hagen đến văn phòng, giải quyết giấy tờ trong một giờ và sau đó ghé thăm nhà trong chốc lát, thay quần áo và hôn cô con gái đang ngủ, Gianna, vừa mới lên hai, và hôn vợ chàng, Theresa, đã trở thành một nhà sưu tập nghệ thuật và rất phấn khởi về bộ sưu tập tranh Jackson Pollock vừa mới đến từ người phụ trách mãi vụ của nàng ở New York. Hai cậu con trai, các teenagers Frank và Andrew, mỗi cậu đằng sau cánh cửa khép kín của phòng ngủ riêng vùi đầu vào những cuốn truyện khoa học viễn tưởng hoặc những đĩa nhạc da đen. Giờ này không thể hôn chúng.
Trong lúc Tom Hagen gói dụng cụ chơi tennis, Theresa đi vòng quanh căn nhà mới của họ, nhìn ngắm bức tranh lộng lẫy đối diện mấy bức tường trắng. Nàng đã lợi dụng việc chuyển nhà đến Las Vegas và những vùng bề mặt còn trống để tiếp tục mua sắm lu bù. Những bức tranh đáng giá gấp nhiều lần hơn chính ngôi nhà. Chàng thích kết hôn với một phụ nữ có khiếu thưởng ngoạn nghệ thuất tinh tế. “Đem treo đối diện bức màu đỏ của Rothko ở trung tâm hành lang, anh thấy thế nào?” nàng gọi anh.
“Treo ở phòng ngủ được không?”
“Anh nghĩ vậy à?” nàng hỏi.
“Chỉ là ý nghĩ thoáng qua thôi”, chàng trả lời. Chàng gặp ánh mắt của nàng và nhướng mày lên để chỉ rằng không phải là chuyện chỗ treo bức tranh mà chàng đang nói đến.
Nàng thở dài. “Có lẽ anh nói đúng.” Nàng hạ bức tranh xuống và nắm tay chàng.
Chàng đã quá mỏi mệt, và mọi chuyện chẳng mấy suôn sẻ.
Từ lâu rồi Hagen không còn là consigliore của nhà Corleone, nhưng với cái chết của Vito Corleone và Tessio cũng chết rồi và Clemenza đang trong tiến trình nắm lấy quyền lực, cát cứ ở New York, Michael cần một trợ thủ giàu kinh nghiệm. Ông Trùm đang chờ cho đến khi nào cảm thấy chắc chắn là cuộc chiến với nhà Barzinis và nhà Tattaglias đã dứt khoát qua đi mới thông báo một consigliore mới. Michael đã có một mưu đồ gì đó giấu nơi tay áo nhưng tất cả những gì mà Hagen có thể hình dung ra đó là kế hoạch đó có liên quan đến Cleveland. Trong khi chờ đợi, Hagen vẫn tiếp tục công việc cũ của mình và cũng cố gắng chuyển dịch đến chuyện tiếp theo. Anh ta đã bốn mươi lăm tuổi, còn lớn tuổi hơn cha mẹ anh ta khi mất đi và hẳn là đã quá già cho cái công việc quái quỷ này.
Giờ đây anh gọi cho phục vụ buồng để kêu thức uống trước khi đi ngủ. Anh uống cạn nhanh li cà phê đầu tiên trước khi cánh cửa chính khép lại đằng sau người bồi phòng. Hagen tự tán thưởng mình vì đã đoán trước rằng mình sẽ cần đến hai bình nước. Anh cầm theo một bình và đi ra ngoài ban công. Tám giờ sáng, mặt trời mới vừa lên khỏi ngọn núi phía đông mà không khí đã nóng bức. Ai cần tắm hơi? Xin mời đến đây. Vào lúc Hagen cạn bình cà phê đầu tiên - trong khoảng mười phút - cái áo anh mặc đã ướt đẫm.
Hagen cạo râu, tắm rửa, mặc bộ đồ để đánh tennis, và đứng bên ngoài shop dụng cụ thể thao vào lúc tám giờ rưỡi, chờ ai đó đi đến. Sau những phút chờ đợi dài vô tận, anh trở lại quầy tiếp tân. Một nhân viên khác nói rằng người quản lí sẽ đến ngay bây giờ và sẽ gọi anh trên loa.
Hagen trở lại bên ngoài shop chuyên doanh kia. Cuộc chờ đợi căng thẳng đến nhức nhối. Nếu như có một điều mà anh đã học từ Vito Corleone - và có gì mà anh không học từ ông ấy? - thì đó là sự sốt sắng, sẵn sàng. Anh đi tới đi lui một cách bồn chồn và không dám đi vào phòng toa-lét vì sợ sẽ hụt gặp viên quản lí hay một nhân viên nào đó đang đi đến. Khi cuối cùng có ai đó đến mở cửa - một phụ nữ người Slave trông giống một cô mát-xa hơn là một quản lí hay cửa hàng trưởng - thì kim đồng hồ chỉ đúng chín giờ.
Hagen tóm ngay lấy một cây vợt, dằn mạnh hai trăm đô-la xuống quầy tiếp tân và bảo cô cứ giữ lại chỗ tiền dư.
“Chúng tôi không nhận tiền mặt”, cô ta nói. “Ông phải kí tên vào biên nhận.”
“Tôi kí ở đâu?”
“Ông có phải là hội viên không? Tôi không nhận ra ông.”
“Tôi là khách mời của Ngài Đại sứ Shea”
“Chính ông ấy phải là người kí. Ông ấy hoặc một thành viên trong gia đình ông ấy hoặc là người hầu của ông ấy.” Cô ta gằn giọng mấy chữ ấy nghe như tiếng búa gỗ gõ lốp cốp lên bàn gỗ vậy.
Hagen bèn móc ra một tờ trăm đô-la nữa và nài nỉ cô ta mở lượng hải hà giải quyết cho qua cái sự vụ lấn cấn này và chàng xin rất lấy làm đa tạ.
Cô ta nhìn chàng theo cái cách mà anh chàng tiếp tân hồi tối từng nhìn, ngạc nhiên tự hỏi cái anh chàng “cả quỷnh” này làm gì mà quýnh quáng lên thế vì một cây vợt tennis. Nhưng được cái là cô cũng hạ cố nhón lấy mấy tờ trăm đô và khẽ khàng cho vào túi. Trúng mánh nhẹ nhàng, ngu gì không chộp. Rồi đi mua một cây vợt khác thế vào, chỉ với nửa số tiền ấy thôi. Chuyện dễ ợt mà!
Hagen tưởng chừng như cái bọng đái của mình sắp nổ tung, nhưng bấy giờ đã là chín giờ năm phút. Chàng xé cái hộp giấy đựng cây vợt và lao vào một cuộc chạy đua nước rút tử thần. Những từ chính xác đó xảy đến với anh - chạy đua nước rút tử thần.
Khi anh đến Sân 14, trễ mười phút so với giờ hẹn, thì không thấy bóng dáng ai ở đó. Hiếm khi nào anh trễ hẹn nên anh không có ý tưởng phải xoay xở thế nào. Có phải ngài Đại sứ đã đến đây và không thấy chàng liền bỏ đi? Hay là ông ta cũng trễ? Mình nên chờ bao lâu đây? Hay là đi đái cái đã rồi sẽ quay lại chờ. Anh ta nhìn quanh. Nhiều bụi cây lắm, nhưng nơi đây đâu phải là chỗ mà người ta có thể tè bậy, nhất là khi người ta là một quý ông sang trọng, đứng đắn. Làm người sang trọng lắm khi cũng khổ thật! Vậy là chàng ta phải trân mình chịu trận, hai chân kẹp chặt, ấn một bàn tay để chận lại. Chắc chắn là ngài Đại sứ đã đến và đã bỏ đi. Cuối cùng, chịu hết nổi, chàng chạy bay đến phòng toa-lét gần nhất. Nhưng vì quá khẩn cấp, chàng không còn để ý gì nữa và chạy lộn vào chỗ dành cho quý bà! Song đã đến nước này thôi thì phải xả láng đã, rồi tính sau. Cũng may mà không bị ai bắt gặp nên cũng đỡ ê mặt. Khi chàng trở lại Sân 14, một bức thư ngắn được ghim vào trên lưới. Đại sứ Shea - không thể chơi tennis sáng nay. Bữa ăn sáng muộn? 2. Hồ bơi. Có người sẽ đón anh.
Bức thư không nói ở đâu.
Kay Corleone chỉ tay ra sau về phía con đường đi tới sân bay Las Vegas. “Anh ấy đã lỡ hẹn với chúng ta”, nàng nói. “Michael, chúng ta đã chệch mục tiêu.”
Ngồi bên nàng ở ghế sau của chiếc Cadillac màu vàng mới sắm, Michael lắc đầu.
Kay nhíu mày. “Có phải chúng ta đang lái xe về hướng Los Angeles? Anh có mất trí không đấy?”
Hôm đó là lễ kì niệm lần thứ năm ngày cưới của họ. Nàng và các con và cả mẹ nàng, cả mục sư Tẩy lễ đều đã sẵn sàng cho lễ Misa. Tối nay Michael bận việc, trước, trong khi và sau sô diễn riêng mà Johnny Fontane đang thực hiện như một món quà ưu ái cho Nghiệp đoàn Tài xế Xe tải. Nhưng chàng đã hứa với nàng rằng trọn ngày hôm nay cho đến lúc đó, sẽ là một cuộc hẹn hò yêu đương dài - giống như thời xưa, mà còn nồng nàn hơn nữa.
Michael lắc đầu. “Chúng ta không lái xe. Và chúng ta không đi đến Los Angeles”
Kay xoay vòng trong chỗ ngồi, nhìn lại sau về hướng con đường không đi theo, rồi quay về phía chồng nàng. Đột nhiên nàng cảm thấy có cái gì đấy giống như một khối nước đá trong gan ruột nàng. “Michael,” nàng nói, “Thứ lỗi cho em, nhưng em thấy cuộc hôn nhân này đã trải qua bao nhiêu chuyện ngạc nhiên đến độ - ” Nàng lấy tay xoay thành những vòng tròn, giống như một huấn luyện viên thể thao ra hiệu rằng một động tác nào đó là không đúng.
Chàng mỉm cười. “Nhưng đây sẽ là một ngạc nhiên thú vị”, chàng nói. “Anh xin hứa.”
Chẳng mấy chốc họ đến Hồ Mead, gần một bến cảng với một chiếc thủy phi cơ bỏ neo ở cuối bến. Chiếc máy bay được đăng kí tên Công ty Điện ảnh của Johnny Fontane, mặc dầu cả Fontane lẫn những người làm việc nơi công ty đó chẳng một ai hay biết tí gì về chuyện này.
“Ngạc nhiên số một”, Michael nói, vừa chỉ tay vào chiếc máy bay.
“Ồ, anh cưng” nàng nói. “Số một?” Thế còn những số nào nữa, hở ông Giáo sư Toán học?”
Họ ra khỏi xe.
“Đơn giản mới chỉ là đếm số thôi, em yêu. Đừng nâng lên thành toán học, to tát quá!” Chàng giang tay về phía bến tàu, nghiêng mình, cố tình làm ra kiểu phường tuồng: “Xin mời nương tử.”
Kay muốn nói rằng nàng sợ nhưng rồi không nói, không thể nói. Nàng không có bất kì lí do gì để nghĩ rằng chàng có thể làm hại nàng.
“Ngạc nhiên số hai - ”
“Michael”
“- là chính anh sẽ lái chiếc máy bay này.”
Đôi mắt nàng mở to.
“Anh đã theo khóa huấn luyện phi công khi còn trong binh chủng Thủy quân lục chiến,” chàng nói, “trước khi anh... như em biết rồi đấy” Được gửi đi chiến đấu trong cái nắng gay gắt nơi các đảo san hô đầy bùn và những thây người. “Bay giúp anh thư giãn. Em yên tâm. Anh đã học bay có bài bản, rất nghiêm túc. Chẳng kém phi công chuyên nghiệp tí nào đâu.”
Kay thở phào nhẹ nhõm. Nàng đã không nhận ra là nàng nín thở khá lâu. Nàng đã không nhận ra rằng trong tất cả những khoảng thời gian không được giải thích mấy tuần trước đây, nàng từng lo sợ là chàng có chuyện mờ ám nào đấy. Điều đó không đúng. Điều mà nàng lo sợ còn tệ hơn nhiều. “Nếu anh có thú tiêu khiển nào đó thì tốt quá” nàng gợi ý. “Ai cũng cần có thú tiêu khiển riêng. Bố anh có khu vườn của ông. Người khác thích chơi golf.”
“Golf ư?” chàng nói. “Thế còn em. Em không có thú tiêu khiển nào sao?”
“Em không có”
“Luôn luôn có golf đó.” Chàng đang mặc chiếc áo khoác thể thao và một sơ-mi trắng tinh, không thắt cà-vạt. Chàng không bôi trơn tóc. Một ngọn gió nhẹ làm rối tóc chàng.
“Nói thật nhé, anh sẽ nghĩ gì nếu em trở lại với việc dạy học?”
“Đó là một việc làm. Em đâu cần việc làm. Ai sẽ trông nom Mary và Anthony.”
“Em sẽ không bắt đầu cho đến khi chúng ta ổn định chỗ ở. Lúc đó mẹ anh sẽ ở đây và mẹ sẽ trông nom chúng. Em tin là mẹ sẽ rất vui khi được ở gần và chăm sóc các cháu. Mặc dầu Kay thực sự kinh sợ phải nghe những gì mẹ chồng sẽ nói về việc nàng đi làm ở ngoài nhà. Thực sự tất cả chuyện này chỉ là một thú tiêu khiển.”
“Em có muốn một việc làm không?” Michael hỏi.
Nàng nhìn lảng đi. Một việc làm chưa phải là điểm chính.
“Để anh suy nghĩ về chuyện đó đã.” Bố chàng có lẽ đã không chấp nhận, nhưng chàng không phải là bố chàng. Michael từng có lần, giống như bố chàng, kết hôn với một cô gái Ý ngoan hiền, nhưng Kay không biết chuyện đó và cũng không phải là cô gái đó. Điều Michael quan tâm là sự an nguy của gia đình, làm sao cho nguy cơ đối với vợ con nằm ở mức tối thiểu. Michael đặt một bàn tay lên cánh tay vợ, bóp nhẹ.
Kay đặt bàn tay lên đầu bàn tay chàng. Nàng hít một hơi sâu. “À, này” nàng nói. “Em không muốn dính vào guồng máy rắc rối đó. Ít nhất cho đến khi anh cho em biết chúng ta đang đi đâu.”
Michael nhún vai. “Tahoe”, chàng nói. Một nụ cười nhẹ thoáng qua khuôn mặt chàng. “Hồ Tahoe”. Chàng vung tay vế phía chiếc thủy phi cơ. “Hẳn nhiên rồi”
Có lần nàng từng nói với chàng nàng rất thích đến nơi đó. Nhưng nàng không nghĩ là chàng quan tâm lắm.
Chàng mở cửa máy bay. Kay bước vào. Lúc đó cả hai vạt áo của nàng tốc lên, duỗi căng qua mông nàng. Michael cảm thấy một thôi thúc hoang dại thèm siết vào mông nàng từ phía sau nhưng kiềm chế lại và thay vì thế chỉ để cho đôi mắt la cà, nấn ná, lần lữa trên đôi mông căng tròn của nàng. Không có gì khoái hơn, gợi dục hơn là nhìn vào vợ mình giống như thế này mà nàng thì tuyệt nhiên không biết.
“Giờ đây, điều phiền duy nhất về các chiếc thủy phi cơ “, Michael nói trong lúc chàng bước vào buồng lái và bắt đầu nổ máy, “đó là đôi khi chúng bật tung lên.”
“Bật tung lên?” Kay hỏi.
“Rất hiếm khi” Chàng trề môi dưới ra, như thể muốn chỉ rằng một chuyện như thế quả là cực hiếm. “Và nếu một chiếc thủy phi cơ bật tung lên, đoán thử xem chuyện gì xảy ra? Nó vẫn nổi thôi. Yên tâm, cưng nhé.”
Kay nhìn chàng. “Vậy hay quá”
“Anh yêu em quá chừng. Em biết điều đó chứ?
Nàng cố gắng để đạt cái nét không biểu cảm mà Michael đã làm chủ quá tốt. “Điều đó cũng hay quá”
Máy bay cất cánh thật êm khiến Kay cảm thấy mọi cơ bắp đều thư giản. Nàng đã không ý thức rằng chúng co thắt lại. Nàng chẳng biết trong bao lâu.