Vợ phi công - Chương 13 phần 1
CHƯƠNG 13
Họ di chuyển từ phòng này sang phòng khác, lau bụi, hút bụi, chà rửa sàn nhà, đổ rác, dọn giường, giặt giũ. Robert làm những việc này như một người đàn ông, cô nhận thấy thế: vụng về khi dọn giường, tháo vát trong nhà bếp, chà rửa sàn nhà bếp như đang hành hạ tra tấn nó. Với sự có mặt của Robert trong phòng ngủ của cô và của Mattie, những vật dụng tiềm ẩn hiểm họa trở nên bình thường: Áo sơ mi vắt trên ghế cũng chỉ là một chiếc áo mà Robert ném xuống đất cùng mớ quần áo cần giặt khác. Ga giường là ga giường, cần được giặt như bất cứ thứ gì khác. Anh nhặt giấy tờ trong phòng làm việc của Jack và, chẳng cần xem chúng là gì, không như Kathryn, cho hết vào ngăn kéo và đóng lại. Trong phòng của Mattie, Kathryn nhận thấy sự dò xét của Robert, cảm nhận rằng anh sợ khi vào phòng này cô sẽ chùn bước, nhưng cô khiến anh và chính bản thân cô ngạc nhiên khi tỏ ra đặc biệt nhanh nhẹn và hiệu quả. Thậm chí cô còn giúp Robert hạ cây thông Giáng sinh xuống, cả hai kéo cây thông đã khô héo qua nhà bếp ra hành lang sau nhà, làm lá rụng vương vãi trên sàn gỗ và sàn đá. Khi họ dọn dẹp xong, những gợn mây màu trắng sữa trên trời đã nhường chỗ cho những cụm mây xám thấp là đà.
“Sắp có tuyết rồi,” Robert nói, dùng một ống nước xịt bên trong bồn rửa bát.
Cô mở tủ dưới bồn rửa, cất lại những chai nước cọ rửa nhà tắm, hiệu Pine Sol và Comet. Cô rửa tay dưới vòi nước rồi lau khô bằng khăn lau bát.
“Tôi đói rồi,” cô nói, cảm thấy sự hài lòng nhẹ nhàng mỗi khi nhà cửa sạch sẽ. Giống như vừa ngâm mình trong bồn tắm.
“Tốt,” anh quay người lại nói. “Trong xe có tôm hùm đấy.”
Cô nhướn mày.
“Mua ở Ingerbretson,” anh giải thích. “Tôi mua trên đường đến đây. Không cưỡng lại được.”
“Tôi không thích tôm hùm lắm,” cô nói.
“Tôi thấy đồ kẹp trong ngăn đồ bạc.”
“Anh cũng thích nghiêng nhỉ.”
“Thỉnh thoảng thôi.”
Nhưng khi đứng đó, cô chợt có cảm giác rằng Robert Hart lúc nào cũng ngó nghiêng. Lúc nào cũng quan sát.
***
Robert nấu hôm hùm trong khi Kathryn dọn bàn ngoài phòng khách. Một cơn mưa tuyết trút xuống, những mảng bông tuyết lặng lẽ rơi lên kính cửa sổ. Kathryn mở tủ lạnh, lấy ra hai chai bia. Cô khui một chai, chuẩn bị khui chai thứ hai thì chợt nhớ ra Robert không uống bia. Cô lén cất hai chai bia vào tủ lạnh không để Robert nhận ra.
“Làm ơn đi mà,” Robert nói khi đang đứng cạnh bếp. “Cứ uống bia đi. Tôi không thấy phiền đâu. Thật ra nếu cô không uống thì tôi mới thấy khó chịu đấy.”
Kathryn nhìn đồng hồ: mười hai giờ hai mươi. Thời gian thấm thoắt trôi. Một lần nữa, vỏ bọc thời gian lại mở ra. Hôm đó là thứ sáu. Bình thường giờ này cô đang ở trường, tiết năm. Bình thường cô sẽ không uống bia. Dù đó là kỳ nghỉ Giáng sinh, cô nghĩ; theo lý thuyết, phải đến ngày mồng hai tháng giêng cô mới đi dạy lại. Cô chưa nghĩ đến chuyện sẽ xoay sở thế nào trong lớp học. Một hình ảnh tốp học sinh chạy nhảy trên hành lang hiện lên, nhưng cô gạt bỏ nó ngay.
Lúc mười hai giờ kém năm phút, Robert đã tắt tất cả tiếng chuông điện thoại. Không có gì khẩn cấp đến nỗi không chờ được một, hai giờ, anh bảo thế, và cô đồng tình.
Trên tinh thần đó, cô trải lên chiếc bàn gần cửa sổ trong phòng khách chiếc khăn in hoa đỏ, màu sắc tươi tắn của khăn trải bàn đối nghịch với sắc trời ảm đạm bên ngoài. Robert mở nhạc lên: B.B.King. Kathryn ước gì trong nhà có hoa tươi. Nhưng chính xác thì cô đang ăn mừng chuyện gì? cô tự hỏi, cảm thấy hơi tội lỗi. Vì đã sống sót trong mười một ngày qua? Vì đã dọn dẹp nhà cửa? Cô xếp dao nĩa, bát đựng vỏ tôm, bánh mì, bơ đã làm tan, và một cuộn khăn giấy dày lên bàn. Robert bước từ nhà bếp vào phòng khách, bê một đĩa tôm hùm ướt và trơn. Mặt trước áo anh lấm tấm nước
“Tôi đói rụng rời rồi,” anh nói, đặt đĩa tôm xuống và ngồi đối diện cô.
Cô nhìn những con tôm hùm trước mặt. Và vào đúng lúc đó, sự chấn động ký ức mạnh mẽ, quyết liệt lại tấn công cô. Cô nhìn nhanh ra ngoài cửa sổ. Cô đưa một tay lên miệng.
“Chuyện gì vậy?” Robert hỏi.
Cô vội lắc đầu nguầy nguậy. Cô ngồi yên, giữ chặt trong một hình ảnh, không dám cử động về trước hay sau vì sợ những vết nứt. Cô hít sâu vào, rồi thở ra, đặt hai cánh tay lên bàn.
“Tôi chỉ mới nhớ lại một kỷ niệm,” cô đáp.
“Kỷ niệm gì?”
“Jack và tôi.”
“Ở đây à?”
Cô gật đầu.
“Ngồi ăn như thế này?”
Giống thế này, cô muốn nói như thế, nhưng không phải thế này. Lúc đó là đầu hè, rèm được cuốn lên. Mattie đang ở nhà bạn, và lúc đó là buổi chiều, gần bốn hoặc năm giờ. Ánh nắng rất đặc biệt, cô còn nhớ, lung linh xanh như thủy tinh biển. Họ uống champagne. Họ ăn mừng chuyện gì nhỉ? Cô không tài nào nhớ nổi. Có thể chẳng vì chuyện gì cả, có thể là để chúc tụng chính họ. Cô đã muốn làm tình, cô còn nhớ, và anh cũng thế, nhưng không ai muốn hi sinh một con tôm hùm mới luộc nóng hổi, thế là họ chờ đợi với một sự căng thẳng ngọt ngào giữa hai người. Cô đã mút càng tôm một cách cường điệu, Jack đã cười bảo cô đang khiêu khích, và cô cảm thấy thích thú vì điều đó. Khiêu khích. Cô hiếm khi nào
“Tôi rất tiếc,” Robert nói. “Tôi nên biết mới phải. Tôi sẽ đem thức ăn vào nhà bếp.”
“Không,” cô nói nhanh, chặn tay anh lại khi anh với lấy đĩa của cô. “Không, làm sao anh biết được. Vả lại, cuộc sống tôi đầy ắp những kỷ niệm như vậy. Hàng trăm kỷ niệm nhỏ khiến tôi không kịp trở tay. Chúng giống như bom mìn chôn dưới đồng vậy, chỉ chờ đến lúc phát nổ. Thật lòng mà nói, tôi muốn cắt bỏ thùy não quách cho rồi.”
Robert rút bàn tay dưới tay cô ra rồi đặt nó lên các ngón tay cô. Anh nắm tay cô theo kiểu một người đàn ông nắm tay bạn của mình, chờ đợi một cơn khủng hoảng nhỏ bùng nổ. Bàn tay anh rất ấm, vì tay của Kathryn chợt lạnh buốt. Những kỷ niệm đã khiến cô trở nên thế này; chúng đã rút hết máu khỏi tay chân cô. Cũng giống như nỗi sợ.
“Anh tốt với tôi quá,” cô nói.
Thời gian trôi qua. Bao lâu? Cô không còn tính được từng giây, từng phút. Cô nhắm mắt lại. Bia khiến cô hơi buồn ngủ. Cô muốn lật bàn tay lại, muốn anh chạm vào lòng bàn tay cô. Vuốt bàn tay anh dọc lòng bàn tay lên đến cổ tay cô. Cô tưởng tượng có thể cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay anh di chuyển dọc mặt trong cánh tay mình, vỗ lên cùi chỏ.
Các ngón tay cô trở nên buông lỏng, và cô cảm thấy sự căng thẳng trút khỏi người mình. Sự buông lỏng đó, đầu hàng đó thật hư hỏng, nhưng không. Mắt cô dường như không còn nhìn thấy rõ nữa, cô không còn nhìn thấy Robert hay cái gì khác nữa, chỉ còn cảm giác ánh sáng từ cửa sổ. Ánh sáng đó, phân tán và mờ ảo, tạo ra một cảm giác dễ chịu uể oải. Và cô nghĩ rằng cô phải cảm thấy khó chịu vì đã nghĩ đến Robert và cô theo cách đó, nhưng một cảm giác khoan dung dường như đã trỗi lên như một làn khói mờ, cô cảm thấy mơ hồ và lãng đãng. Đến nỗi khi Robert, trong nỗ lực kéo cô về với thực tại, siết chặt bàn tay cô, cô cảm thấy như bị ném về khoảnh khắc hiện thực.
“Anh giống như một linh mục vậy,” cô nói.
Anh bật cười. “Không có đâu.”
“Tôi nghĩ vì vậy mà tôi tìm đến anh.”
“Cha Robert,” Robert nói, mỉm cười.
Và rồi cô nghĩ: Có ai biết được bàn tay của người đàn ông này vuốt lên mặt trong cánh tay cô đâu? Có ai quan tâm đâu? Chẳng phải mọi luật lệ đều đã bị phá vỡ rồi sao? Chẳng phải Mattie đã nói như thế sao?
Sự im lặng của trận tuyết rơi bao trùm lấy họ. Cô có thể nhận thấy anh đang cố gắng hiểu một cách chính xác cô đang nghĩ gì và tại sao, nhưng cô không thể giúp anh, vì bản thân cô còn không biết. Phòng khách lúc nào cũng quá lạnh vào mùa đông, cô nghĩ, và đã cô rùng mình dù nghe được tiếng hơi nước róc rách trong máy sưởi. Bên ngoài, trời đã âm u đến nỗi có thể nhầm tưởng là hoàng hôn.
Anh rút tay lại, để bàn tay cô trơ trọi trên bàn. Cô cảm thấy bị phơi bày.
Cô uống chai bia thứ hai. Họ ăn hết bánh mì và tôm hùm. Giữa lúc ăn, Robert đứng dậy và thay đĩa nhạc. B.B.King chuyển sang Brahms.
“Cô có mấy đĩa nhạc hay quá,” anh nói khi quay lại.
“Anh thích nghe nhạc lắm à?”
“Vâng.”
“Thể loại gì?”
“Đặc biệt là piano. Nhạc này của Jack hay của cô?” anh hỏi, ngồi xuống.
Cô cúi đầu, không chắc chắn có hiểu câu hỏi đó hay không.
“Thông thường các đĩa nhạc và dàn âm thanh là đam mê của một trong hai vợ chồng, không thể của cả hai,” anh giải thích. “Đó là theo kinh nghiệm của tôi.”
Cô nghĩ ngợi về điều này.
“Của tôi,” cô đáp. “Jack không phân biệt được các nốt nhạc. Nhưng anh ấy thích rock and roll. Và một vài đĩa nhạc của Mattie - vì tiết tấu, tôi nghĩ vậy. Còn anh thì sao?”
“Cũng của tôi,” anh đáp. “Dù vợ cũ của tôi giữ lại dàn âm thanh và phần lớn đĩa nhạc. Một trong hai đứa con của tôi thừa hưởng tai nghe nhạc từ bố. Nó chơi saxophone trong trường. Đứa kia thì hình như chẳng quan tâm gì.”
“Mattie chơi kèn clarinet đấy. Tôi đã cố gắng hướng nó chơi piano,” Kathryn kể, “nhưng điều đó giống như cực hình.”
Kathryn nghĩ về tất cả những thời gian cô ở cạnh Mattie bên cây đàn piano, Mattie rõ ràng không muốn ngồi đấy, cường điệu hóa sự miễn cưỡng vô lý của nó bằng cách gãi lưng liên tục khi không thể đàn đúng, hoặc chỉnh lại ghế ngồi, hoặc mất rất nhiều thời gian một cách quá đáng để đàn đúng. Buộc Mattie chơi một bản nhạc một lần đã khó, huống chi đến việc bảo nó tập bài đó vài lần. Thông thường, Kathryn phải bỏ ra khỏi phòng với cảm giác tức giận gần như không che đậy, và mỗi lần như vậy Mattie lại khóc rấm rứt. Khi năm đầu tiên sắp trôi qua, Kathryn nhận ra nếu cô cứ ép buộc Mattie học đàn, thì tình mẹ con của họ sẽ tan nát.
Bây giờ, tất nhiên, Mattie hầu như không bao giờ sống thiếu âm nhạc - trong phòng nó, trong xe, và gắn tai nghe suốt ngày như thể người ta truyền oxy qua tai nghe vậy.
“Anh có chơi nhạc cụ không?” Kathryn hỏi.
“Từng chơi.”
Cô quan sát anh và điểm thêm một nét nhỏ vào bức chân dung đã hình thành từ ngày anh bước chân vào nhà. Đó là việc người ta hay làm với người khác, Kathryn tự nhủ, vẽ chân dung, chấm phá thêm những nét còn thiếu, chờ đợi ảnh và màu hiển hiện.
Anh nhúng một phần đuôi tôm vào bơ rồi cho vào miệng.
“Đêm trước khi Jack đi làm,” Kathryn nói, “anh ấy vào phòng của Mattie và hỏi con bé có muốn đi xem đội Celtics thi đấu vào tối thứ sáu không. Một người bạn tặng anh ấy vé ngồi ở vị trí rất tốt. Điều tôi muốn biết là: Liệu một người đàn ông có rủ con gái mình đi xem đội Celtics chơi hay không nếu anh ta dự định tự sát trước khi quay trở lại?”
Robert lau cằm rồi nghĩ ngợi một lúc.
“Liệu một người đàn ông có ghế ngồi rất tốt ở một trận Celtics có tự sát trước khi kịp xem trận đấu không?”
Cô mở to mắt.
“Tôi xin lỗi,” anh ta vội nói. “Không. Nó không hợp lý, tôi không thể lý giải nổi.”
“Và Jack bảo tôi gọi cho Alfred,” Kathryn nói tiếp. “Anh ấy bảo tôi hẹn Alfred thứ sáu đến sửa lại vòi hoa sen bị rỉ nước. Nếu Jack không có ý định quay về, thì anh ấy sẽ chẳng làm thế. Không nói kiểu như thế, gần giống như anh ấy chợt nhớ ra trong lúc đi ra xe. Và anh ấy hẳn đã cư xử khác với tôi. Anh ấy hẳn đã chào tạm biệt theo cách khác. Tôi biết như vậy. Hẳn phải có một chi tiết nhỏ mà lúc đó tôi không nhận ra, nhưng sau đó phải nhớ ra. Một điều gì đó.”
Robert với tay lấy ly nước rồi nhích ra xa chiếc bàn.
“Anh có nhớ,” cô hỏi tiếp, “khi Ban An toàn thẩm vấn tôi, họ hỏi Jack có bạn bè thân thiết ở Anh không?”
“Vâng.”
Cô nhìn vào chiếc bát đựng vỏ tôm.
“Tôi vừa nghĩ ra một ý,” cô nói. “Tôi sẽ quay lại ngay.”
Khi đi lên cầu thang, cô cố gắng nhớ lại xem mình đã giặt mẻ đồ đó chưa. Cô đã mặc chiếc quần jean đó hai ngày rồi ném nó vào giỏ quần áo. Nhưng không phải giỏ của cô, cô nhớ như vậy, mà là giỏ của Mattie. Và Kathryn chưa giặt quần áo của Mattie lần nào vì Mattie không có ở đó. Tất cả quần áo Mattie cần mặc đều được giặt ở nhà bà Julia.
Cô tìm thấy chiếc quần jean bên dưới một đống đồ bẩn, bị chôn vùi dưới mớ quần áo mà Robert và cô ném vào giỏ vài giờ trước. Cô lấy ra xấp giấy tờ và hóa đơn, chúng bị ẩm một chút vì chiếc khăn tắm lâu ngày chưa giặt.
Khi cô quay về phòng khách, Robert đang trầm tư ngắm tuyết rơi. Anh quan sát khi cô đẩy đĩa thức ăn ra xa và mở xấp giấy tờ ra.
“Nhìn này,” cô nói, đưa tấm vé số cho Robert. “Tôi tìm thấy mớ giấy tờ này nhét trong túi quần jean của Jack móc trên cửa nhà tắm vào ngày anh ấy mất. Lúc đó tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều mà chỉ nhét chúng vào túi quần jean của mình. Nhưng anh có thấy dòng ghi chú đó không, M ở A, và mấy con số theo sau? Anh nghĩ đó là gì?”
Robert nghiên cứu những con số, và cô có thể thấy từ cái chớp mắt của anh rằng anh hiểu điều cô đang nghĩ.
“Một số điện thoại ở Anh, cô nghĩ vậy à,” anh ta nói.
“Đó là mã số của London, phải không? Số một tám một đ“Tôi nghĩ vậy.”
“Đó có phải là số điện thoại không nhỉ?”
“Tôi không biết nữa.”
“Để tôi xem nào,” cô nói và chìa tay ra. Robert đưa cô tờ vé số với vẻ miễn cưỡng.
“Tôi tò mò thôi,” cô biện hộ. “Nếu nó là số điện thoại thì tại sao lại viết trên tấm vé này? Mà cái này cũng mới đây thôi. Chắc anh ấy mua tờ vé số này một ngày trước khi đi.” Cô nhìn ngày tháng trên tấm vé. “Đúng rồi. Mười bốn tháng mười hai.”
Đây là việc hoàn toàn hợp lý, cô nghĩ trong lúc bước đến chỗ điện thoại cạnh sofa. Cô nhấc ống nghe lên rồi bấm số. Gần như ngay tức khắc, cô có thể nghe thấy tiếng chuông vang từ xa, âm thanh luôn khiến cô liên tưởng đến những chiếc điện thoại Paris cổ có giá đỡ màu đen thanh mảnh.
Một giọng nói cất lên ở đầu dây bên kia, và Kathryn, bất ngờ trước giọng nói ấy, chưa chuẩn bị tinh thần đón nhận nó, liếc nhanh lên Robert. Cô chưa nghĩ đến điều mình muốn nói. Một phụ nữ nhắc lại câu xin chào, lần này có vẻ khó chịu một chút. Không phải bà già, không phải thiếu nữ.
Kathryn tìm một cái tên. Cô muốn hỏi: Chị có biết một người tên là Jack Lyons không? nhưng câu hỏi đó chợt nghe có vẻ vô lý quá.
“Chắc tôi nhầm số rồi,” Kathryn đáp nhanh. “Xin lỗi đã làm phiền chị.”
“Ai đấy?” người phụ nữ hỏi, bây giờ có vẻ cảnh giác.
Kathryn không thể xưng tên.
Có tiếng gác máy bực bội. Sau đó là im lặng.
Tay run lẩy bẩy, Kathryn đặt lại ống nghe và ngồi xuống. Cô cảm thấy bấn loạn hệt như lúc còn là cô nữ sinh trung học, gọi điện cho một cậu bạn học mà cô cảm mến nhưng lại không dám xưng tên.
“Thôi bỏ qua chuyện này đi,” Robert khẽ nói.
Kathryn chà hai bàn tay lên đùi quần jean để ngừng run.
“Thế này,” cô nói. “Anh tìm giúp tôi một thứ được không?”
“Thứ gì?”
“Anh có thể tìm tên của toàn bộ phi hành đoàn mà Jack từng bay cùng không?”
“Tại sao?”
“Tôi có thể nhận ra một cái tên nếu nhìn thấy. Hoặc nhớ lại một khuôn mặt mà tôi từng gặp.”
“Nếu cô muốn thế,” anh nói chậm rãi.
“Thật khó để biết tôi muốn gì,” cô đáp.
***
Khi Robert đi lên phòng của Jack để lấy danh sách phi hành đoàn, Kathryn trải toàn bộ những mảnh giấy từ tập giấy nhăn nhúm và xem xét cẩn thận. Cô đặc biệt chú ý đến một hóa đơn từ bưu điện cho một món hàng trị giá hai mươi hai đô la. Có lẽ đó không phải là tiền tem, cô nghĩ, xem xét tờ hóa đơn kỹ hơn. Cô mở mảnh giấy kẻ hàng trắng và đọc những dòng thơ mà Jack đã chép lại.
trong ngõ hẹp và phương Bắc khắc nghiệt, những bội phản
Vĩnh viễn, phản kháng tàn nhẫn vô phương.
Cơn thịnh nộ bất ngờ của dao găm trong đêm tối: cuộc chiến sinh tồn
Của những tế bào mù đói khát từ sự sống trong dạ con.
Bài thơ có ý nghĩa gì? Cô ngước lên nhìn mảng trời trắng xóa ngoài cửa sổ. Trên bãi cỏ đã có một lớp tuyết phủ, và cô nghĩ có lẽ mình nên gọi điện cho bà Julia để hỏi xem hai bà cháu có ổn không. Cô tự hỏi giờ này Mattie đã thức dậy chưa.
Cô mở mảnh giấy kẻ hàng thứ hai - danh sách cần nhớ. Áo choàng Bergdorf gửi FedEx đến ngày 20.
Kỳ lạ, cô thầm nghĩ, nhưng không có kiện hàng Fedex nào đến vào ngày hai mươi cả. Cô chắc chắn như vậy.
Cô vừa đứng dậy vừa ngẫm nghĩ về ý nghĩa những câu thơ. Bây giờ thì chúng chẳng có ý nghĩa gì với cô, nhưng biết đâu cô có thể tìm thấy cả bài thơ và khi đó sẽ hiểu ra ý gì đó. Cô tiến đến kệ sách. Nó chỉ là những tấm ván gỗ chia thành tầng, kéo dài đến gần trần nhà. Jack đọc sách về máy bay và tiểu sử người nổi tiếng, đôi khi anh đọc tiểu thuyết có cốt truyện sáng tạo. Còn Kathryn chủ yếu đọc tiểu thuyết của các tác giả nữ, thường là tiểu thuyết đương đại, dù cô đặc biệt yêu thích Edith Wharton và Willa Cather. Cô tìm một quyển tuyển tập thơ cũ và thấy nó trên kệ dưới cùng.
Cô ngồi ở mép sofa. Cô đặt quyển sách trên đùi và bắt đầu giở các trang. Khi không phát hiện ngay bài nào đáng chú ý, cô quyết định bắt đầu từ đầu, dự tính sẽ xem từng trang cho đến khi thấy những câu thơ mình đang tìm. Nhưng cô nhanh chóng nhận ra không cần phải làm thế: Những bài thơ đầu rất cổ. Dùng ngôn ngữ trong bài thơ làm manh mối, cô mở quyển sách từ giữa ra. Ở đó, các nhà thơ dùng cú pháp tương tự như những câu thơ mà cô đang cầm trong tay. Cô vừa bắt đầu lần giở một cách bài bản qua các trang sách thì nghe tiếng Robert gọi từ phòng của Jack.
Bên ngoài, tuyết đang rơi dày đặc, va vào cửa sổ như dòng thác đổ ào ào. Dự báo thời tiết nói tuyết sẽ rơi dày mười lăm đến hai mươi centimet, Robert đã nói như vậy. Ít ra Kathryn biết Mattie đang ở đâu và sẽ không đi ra ngoài bằng xe ô tô.
Cô đặt quyển sách xuống rồi đi lên phòng làm việc của Jack. Robert đang ngồi ở bàn làm việc, tay cầm một tờ fax bằng giấy bóng. Và cô chợt nhận ra, khi cô nhìn thấy anh ta ngồi trên ghế của Jack, rằng Robert đã biết trong cuộn băng có gì - tất nhiên là anh ta biết.
“Hãy cho tôi biết về cuộn băng đi,” cô nói.
“Đây là danh sách tất cả những người Jack từng bay cùng tại Vision,” anh nói, đưa cô tờ fax.
“Cám ơn anh,” cô đáp, nhận lấy tờ fax nhưng không nhìn nó. Cô có thể thấy rằng anh không nghĩ là cô sẽ hỏi. “Làm ơn đi,” cô lặp lại. “Hãy kể cho tôi những gì anh biết.”
Anh khoanh tay trước ngực và đẩy ghế ra khỏi bàn, tạo một khoảng cách nhỏ giữa hai người. “Tôi chưa nghe được cuộn băng đó,” anh đáp. “Chưa ai nghe cả.”
“Không, tôi biết như vậy.”
“Tôi chỉ có thể cho cô biết những gì mà một người bạn làm việc ở Liên đoàn đã nói với tôi.”
“Tôi biết.”
“Cô thật sự muốn nghe chứ?”
“Vâng,” cô đáp, dù cô không biết, cô không rõ. Làm sao cô biết mình có muốn nghe hay không cho đến khi đã nghe được nó chứ?
Anh đột ngột đứng dậy rồi tiến về cửa sổ, quay lưng lại với Kathryn. Anh nói ngắn gọn, kiểu giọng công việc, như muốn tước hết mọi cảm xúc trong câu chữ.
“Chuyến bay vẫn bình thường cho đến phút thứ năm mươi sáu,” anh nói. “Jack có vẻ như có biểu hiện lạ.”
“Biểu hiện lạ?”
“Anh ấy rời buồng lái sau khi máy bay bay được năm mươi sáu phút mười bốn giây. Anh ấy không nói có chuyện gì, chỉ nói là sẽ quay lại. Họ - những người đã nghe đoạn băng – cho rằng anh ấy đi vệ sinh.” Anh quay lại nhìn về hướng cô, dù không hẳn là nhìn trực diện.
Cô gật đầu.
“Hai phút sau, Cơ phó Roger Martin thông báo gặp vấn đề về tai nghe. Anh ta đề nghị mượn tai nghe của Trevor Sullivan, kỹ sư chuyến bay. Sullivan đưa tai nghe của mình cho Martin và nói, Thử cái này xem. Martin thử tai nghe của kỹ sư, nhận thấy nó hoạt động bình thường, và nói, Không phải do dây cắm. Chắc tai nghe của tôi bị hỏng rồi.”
“Tai nghe của Roger Martin bị hỏng,” Kathryn nói.
“Phải. Thế là Martin trả lại tai nghe cho Sullivan, rồi Sullivan nói, Đây này, đợi một chút. Có thể Lyons có một bộ thừa. Dường như, Sullivan sau đó đã tháo đai an toàn rồi với tay qua lấy túi xách của Jack. Cô biết túi bay được đặt ở đâu chứ?”
“Bên cạnh phi công?”
“Ở buồng bên ngoài cạnh mỗi phi công. Phải. Và Sullivan khi đó hẳn đã lôi ra cái gì đó từ túi bay của Jack mà không nhận ra. Vì anh ta nói, Cái quái gì thế này?”
“Đó là một thứ mà anh ta không ngờ đến.”
“Có vẻ như vậy.”
“Không phải tai nghe.”
“Chúng ta không biết.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó Jack quay trở lại buồng lái. Sullivan nói, Lyons, đây là một trò đùa có phải không?”
Robert dừng lại. Anh tựa lên bậu cửa sổ, nửa đứng nửa ngồi.
“Lúc này có thể đã xảy ra một trận ẩu đả,” Robert nói. “Tôi nghe các báo cáo mâu thuẫn nhau. Nhưng nếu có thì nó cũng xảy ra rất nhanh. Vì Sullivan nói gần như ngay lập tức, Cái quái quỷ gì vậy?”
“Rồi sao?”
“Rồi anh ta nói, Chúa ơi.”
“Ai nói Chúa ơi?”
“Sullivan.”
“Sau đó?”
“Chỉ có vậy.”
“Không ai nói thêm gì
“Đoạn băng kết thúc.”