Oan nghiệt - Chương 01 phần 1
CHƯƠNG 1
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu sách.]
- Má ơi! Má! Đến xem này.
Bà Rosalind đang nhồi vào bụng con gà một hỗn hợp gồm nấm rừng, dầu ô liu, tỏi và rau cần tây, món ăn mà bà đã học trong một khóa học cách nấu đồ ăn Pháp mới đây. Bà đáp lớn:
- Má không đến được. Má bận rồi.
- Nhưng má ơi! Má phải đến xem. Cô gái của nhà ta nè.
Thằng bé học thứ ngôn ngữ bình dân này ở đâu thế nhỉ? Bà Rosalind tự hỏi. Vợ chồng bà đã đóng học phí thật nhiều mỗi học kỳ để cho con được học tại ngôi trường thật tốt ở Yorkshire, thế mà thằng bé lại nói như đồ đầu đường xó chợ. Có lẽ họ phải về sống ở miền Nam lại tình hình mới có tiến bộ chăng? Bà đáp lại con:
- Benjamin, má đã nói rồi. Má đang bận. Tối nay ba con có mời khách ăn cơm, má phải lo chuẩn bị.
Bà Rosalind chẳng chú tâm đến chuyện nấu nướng - thực tế thì bà đã theo học nhiều khóa nấu nướng và rất thích các buổi học này - nhưng hiện tại, như bà nói, bà ước chi có thể nói rằng người đầu bếp đang nấu nướng, còn bà thì đang bận xem mình nên mặc áo quần gì. Nhưng họ không có đầu bếp, mà chỉ có một bà đến lau chùi nhà cửa mỗi tuần một lần. Không phải họ không đủ khả năng thuê đầu bếp, nhưng kẹt một nỗi chồng bà chi tiêu quá phóng túng. Bà Rosalind thường nghĩ, thực ra thì chắc người ta cho chồng bà là người sinh trưởng ở Yorkshire, chứ không phải là người nơi khác đến ở đây.
- Nhưng đúng là chị ấy đây nè, Má! - Benjamin cứ nói tiếp: - Chính là cô con gái nhà ta đây mà. Chị ấy trần truồng như nhộng.
Bà Rosalind cau mày, để dao xuống. Thằng bé nói cái quái gì thế nhỉ? Benjamin mới tám tuổi, và bà biết rất rõ con bà có trí tưởng tượng rất phong phú. Bà sợ thằng bé nhầm lẫn giữa chuyện tưởng tượng với đời thực. Bà nhận thấy những đứa bé có óc tưởng tượng phong phú thường trở nên lười biếng, mơ mơ màng màng suốt ngày; chúng không chịu làm những việc thực tế hữu ích hơn.
- Má ơi! Nhanh lên!
Bỗng bà Rosalind cảm thấy hơi lo sợ, như thể có cái gì sắp thay đổi vĩnh viễn trong vũ trụ. Cố xua đuổi cảm nghĩ lo sợ, bà lau sạch tay, uống vội một hớp rượu Gin pha nước khoáng, rồi đi vào phòng học, nơi Benjamin đang chơi máy vi tính. Khi bà vừa bước đi thì bà nghe tiếng cửa trước nhà mở ra và chồng bà lớn tiếng báo cho biết ông đã về nhà. Sớm thế! Bà cau mày. Có phải ông muốn kiểm tra bà không?
Cứ tảng lờ như không nghe, bà vào phòng để xem thử Benjamin muốn nói cái quái gì. Khi bà vào phòng, cậu bé nói:
- Má, nhìn kìa. Cô gái nhà ta đấy! - Cậu bé đưa tay chỉ vào màn hình máy vi tính.
- Đừng nói năng như thế. - Bà Rosalind nói: - Má đã dặn con rồi. Nói năng như thế hạ cấp lắm.
Rồi bà nhìn. Thoạt tiên, bà chỉ ngạc nhiên khi thấy trên màn hình hiện ra hình một phụ nữ lõa thể. Làm sao Benjamin bấm ra được mạng hình này nhỉ? Cậu bé chưa đủ lớn để hiểu cách tìm ra mạng này.
Và khi bà chồm người lên vai cậu bé để nhìn cho gần màn hình, bỗng bà thất sắc, sửng sốt. Thằng bé nói đúng. Trước mắt bà là hình của cô con gái bà, Emily, trần truồng như ngày mới chào đời, nhưng chỉ khác có nhiều đường cong tuyệt mỹ, hình xăm và một đám lông lơ thơ màu vàng giữa hai chân. Đúng là Emily của bà, không sai lầm gì nữa; cái bớt có hình giọt nước mắt nằm ở phía trong đùi bên trái của cô là bằng chứng rõ ràng nhất.
Bà Rosalind đưa tay vuốt tóc. Thế này là nghĩa lý gì nhỉ? Cái gì xảy ra như thế này? Bà liếc nhìn lên hàng chữ trên đầu màn hình. Bỗng bà nhớ lại nghệ thuật nhiếp ảnh, cho nên bà hiểu ra sự thể.
- Má nhìn kìa, - Benjamin nói. - Con gái nhà ta đấy, phải không. Chị ấy ở truồng làm gì thế, má?
Bỗng bà Rosalind hoảng sợ. Lạy Chúa, không nên để thằng bé thấy như thế này. Cha của Emily. Cũng không nên để cho ông ấy thấy hình ảnh này. Hình này sẽ làm cho ông đau đớn thất vọng. Bà vội vã đưa tay về phía con chuột điều khiển máy vi tính, nhưng tay bà chưa kịp đụng đến con chuột, bà liền nghe có tiếng cất lên phía sau bà và bà nghĩ đã quá muộn rồi.
- Cái gì thế này? - Ông hỏi nhỏ, âu yếm để tay lên vai con trai.
Rồi sau một lát im lặng, Rosalind nghe chồng húng hắng thở ra, bà biết ông đã hiểu hết sự tình. Tay ông bóp mạnh vào vai Benjamin khiến cậu co người, kêu lên:
- Ba, đau con!
Nhưng ông Cảnh sát trưởng Jeremiah Riddle không để ý đến sự đau đớn của con. Ông há hốc mồm, thốt lên:
- Lạy Chúa! - Vừa đưa tay chỉ màn hình. - Có phải đây là kẻ tôi lo sợ không?
*
* *
Chánh Thanh tra cảnh sát Alan Banks dừng tay, nhìn cái xách đựng áo quần, ông phân vân không biết nên đem theo cái áo blu-dông da hay là cái áo gió. Không thể đem theo cả hai vì đã chật chỗ. Ông không biết trời có lạnh lắm không? Ông đoán thời tiết nơi ông sắp đến chắc không khác gì ở Yorkshire. Quá lắm cũng chỉ ấm hơn hai độ là cùng. Thế nhưng thời tiết vào tháng 12 cũng rất khó nói. Cuối cùng, ông quyết định mang theo cả hai.
Ông xếp cái áo gió, để trên chồng quần áo ông đã cho vào xách rồi, đoạn đè mạnh xuống để kéo dây kéo chiếc xách lại, sợi dây kéo khép lại một cách khó khăn. Nghỉ ngày cuối tuần xa nhà mà đem theo như thế này là nhiều, nhưng tộng hết được vào cái xách không mấy nặng như thế này cũng tiện. Ông sẽ mặc cái áo blu-dông da để đi đường.
Bây giờ ông chỉ còn việc tìm một cuốn sách và vài cuốn băng nhạc. Có thể ông không cần đến chúng, nhưng ông không thích đi đâu mà không có gì để đọc và không có gì để nghe, trong trường hợp chờ đợi hay gặp chuyện phải chờ được cấp cứu.
Ông đã có kinh nghiệm một lần rồi, có lần ông phải chờ bốn giờ trong phòng cấp cứu tại một bệnh viện lớn ở Luân Đôn, hôm ấy là tối thứ Bảy, ông chờ người ta khâu sáu mũi nơi vết thương bên mắt phải. Suốt thời gian ấy, ông phải giữ miếng gạc trên vết thương cho khỏi chảy máu và nhìn những nạn nhân đến trước ông đang chờ được chữa trị, vô số người dùng ma túy quá liều, những kẻ tự tử hụt, những người bị đau tim và những người bị tai nạn giao thông. Ông thấy những vết thương của họ trầm trọng hơn ông nhiều, đáng được chữa trị trước, còn ông chỉ là một vết rách nhỏ thôi.
Banks không phàn nàn gì, nhưng ông rất ao ước có gì để đọc trong cái phòng đợi nhếch nhác này, có cái gì hay hơn là tờ Daily Mirror cũ hôm trước. Người đọc tờ báo trước ông thậm chí còn chơi ô chữ ngay trên tờ báo. Dùng bút mực để chơi.
Nhưng ngày mai ông sẽ đi Paris với con gái, Tracy, để nghỉ cuối tuần. Ông sẽ có dịp đi thăm các phòng trưng bày nghệ thuật, thăm các viện bảo tàng và đi dạo, đi ăn những bữa ăn sang trọng trong các nhà hàng nhỏ ở Tả Ngạn, rồi thanh thản ngồi uống bia trong các quầy bán rượu có mặt quầy lát kẽm ở khu Montmartre, nhìn người qua lại đông đúc ngoài đường.
Hai bố con sẽ đi xem buổi trình diễn của các minh tinh Châu Âu, Banks đã được một tờ báo lớn mời đến xem. Tóm lại, vì là đang tháng 11, nên hầu hết mọi người đều thích đến vùng Lanzarote để tránh thời tiết ẩm ướt ở Paris. Có lẽ ông không cần đến nhạc hay sách, ngoại trừ lúc ở trong phòng trước khi đi ngủ, nhưng ông cũng quyết định đề phòng các trường hợp bất ngờ xảy đến khiến ông cần phải dùng các thứ này.
Banks mang theo cái xách xuống lầu, tìm trong ngăn kéo lấy thêm hai cục pin nhét vào trong túi xách với cái máy hát Walkman, rồi lấy mấy băng nhạc mà ông sang từ đĩa CD các giọng ca của Cassandra Wilson, Dawn Upshaw và Lucinda Williams. Ba giọng ca nữ khác nhau này về âm nhạc cũng như về phong cách, có lẽ những giọng ca hiếm thấy, ông rất thích, vì các ca sĩ này đã đại diện cho hầu hết các phong cách của nền âm nhạc hiện đại.
Ông nhìn vào kệ sách, lấy cuốn Maigret and the Hundred Gebbets của Simenon. Ông không hề đọc tiểu thuyết trinh thám, nhưng cái nhan đề đã đập vào mắt ông, khêu gợi ông, và có người có lần đã nói với ông rằng, ông có những nét rất giống nhân vật Maigret trong truyện. Ngoài ra, ông nghĩ rằng bối cảnh trong truyện là ở Paris.
Khi Banks đã chuẩn bị đồ đạc xong, ông rót một ít rượu Laphroaig vào ly, rồi mở máy đĩa CD nhạc Waltz for Debby của Bill Evans. Đoạn ông ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh ngọn đèn có chụp để đọc sách, xoay xoay ly uých ky trên tay dựa, gác hai chân lên nhau, vừa khi bản My Folish Heart bắt đầu từ từ cất tiếng hát. Trong lò sưởi, mấy cục than bùn bắt lửa, mùi khói hòa với mùi cay nồng của rượu cất bằng mạch nha ở vùng Islay ngấm vào lưỡi ông.
Nhưng hình như khói trong lò tỏa ra phòng quá nhiều. Banks phân vân không biết ông có cần thuê người thông ống khói không, vì có lẽ lửa trong lò lâu nay không cháy hết. Ông không biết làm sao tìm ra người thông ống khói cho được, ông cũng không biết con người kỳ lạ này có còn hiện hữu hay không? Ông nhớ hồi còn nhỏ, mỗi khi người thông ống khói đến là ông rất náo nức, và mẹ ông lấy khăn vải phủ kín hết đồ đạc trong phòng lại.
Banks được phép xem người thông khói đẩy cái sào dài cứng lên trên ống khói, mặt mày anh ta đầy mồ hóng trông rất kỳ lạ, nhưng cậu phải ra khỏi phòng trước khi công việc thực sự bắt đầu. Sau này, khi đọc những cuốn sách viết về việc thông ống khói vào thời Victoria, họ bắt những thanh niên ở trần chui lên ống khói. Ông thường phân vân về cách thông ống, ông tự hỏi, không biết ông có làm được việc này hay không? Cuối cùng, ông nhận ra rằng, anh chàng thông ống khói không thể nào sống cho thọ được, mặc dù trước mắt cậu bé kinh hoàng kia, anh ta là người già nua.
Ông nghĩ rằng ống khói còn tốt, có lẽ gió mạnh đã thổi tạt qua một ít khói vào phòng. Ông nghe gió thổi ào ào ngoài các bức tường gạch, gió lay các cánh cửa sổ không đóng trên các phòng bỏ trống không ai ngủ ở trên lầu, gió thổi tạt nước mưa đập vào khung cửa. Vì vừa rồi mưa rất lớn, nên Banks chỉ có thể nghe nước ở Thác Gratly chảy ào ào ở ngoài nhà.
Thác không lớn lắm, chỉ là một dãy vực nước cạn, sâu không quá một mét rưỡi, chảy xuyên qua làng rồi đổ xuống thung lũng và chảy vào sông Swain ở Helmthorpe. Nhưng âm nhạc thay đổi liên miên, chứng tỏ Banks rất sảng khoái, nhất là khi ông nằm trong giường chờ giấc ngủ khó đến.
Mừng vì tối nay không có việc phải ra ngoài, Banks ngồi nhâm nhi rượu uých ky, lắng nghe tiếng nhạc quen thuộc trong đĩa CD Waltz for Debby trổi lên. Tâm trí ông quay về với vấn đề khó khăn của mình do công việc vừa rồi gây ra, công việc được người ta hoạch định để đẩy ông vào chỗ thất bại và xem ông là đồ điên.
Ông không thất bại, và kết quả là Cảnh sát trưởng Riddle, người ghét Banks ngay từ đầu, còn hành hạ ông hơn bao giờ hết. Ông trở về với công việc bàn giấy nhàm chán, không có hi vọng sẽ được tung hoành ở ngoài cho thỏa chí nam nhi. Công việc văn phòng khiến ông đâm ra chán nản. Và ông chỉ còn cách tìm đường thoát khỏi công việc nhàm chán trong văn phòng.
Việc rời khỏi Yorkshire là việc rất miễn cưỡng cho Banks, nhất là khi ông vừa mới mua ngôi nhà ở đây, ngày tháng ông sống trong ngôi nhà này chưa được bao lâu. Tuần trước, sau khi đã suy nghĩ kĩ càng, ông nộp đơn xin làm việc tại Đội Điều tra Tội phạm Quốc gia, đội này có nhiệm vụ theo dõi các tổ chức tội phạm.
Là một Thanh tra Cảnh sát Điều tra Tội phạm, Banks không thể đảm nhiệm công việc bí mật, nhưng ông muốn được hưởng thú vui tột độ khi tóm được bọn gây án. Làm công việc này ông có cơ hội đi đây đi đó, theo dõi bọn tội phạm đang hoạt động ở nước Anh được chỉ đạo từ các nơi đầu não bên Hòa Lan, ở vùng Dardogne và Tây Ban Nha.
Banks biết việc mình không được đào tạo chính quy để làm công việc này, không có đủ bằng cấp, nhưng ông có nhiều kinh nghiệm trong nghề, ông tin chính kinh nghiệm mới đáng kể, khác xa với quan niệm của Riddle. Ông nghĩ ông có thể làm được những chuyện khó khăn, nhờ cách hỏi cung, nhờ tài suy đoán, những thứ rất cần thiết cho công việc điều tra tội phạm, và ông tin ông có thể nhờ vào những kinh nghiệm quí báu của các nhân vật tài giỏi trong nghề, mà ông đã từng tham khảo trong khi ông làm việc với họ tại Yorkshire, như các sĩ quan cấp trên của ông, Tổng thanh tra Gristhorpe và Giám đốc nhân viên, Millicent Cummings. Ông hi vọng tờ báo cáo tiêu cực của Riddle về ông không làm cho mọi người tin.
Còn một lý do khác nữa khiến ông xin đổi công tác. Suốt hai tháng qua, Banks đã suy nghĩ nhiều về người vợ sống ly thân, bà Sandra, ông tin rằng cuộc sống ly thân của họ chỉ là tạm thời. Nếu được thay đổi công tác, như được đến làm việc ở Cục điều tra Tội Phạm Quốc gia chẳng hạn, ông sẽ có thuận lợi để vợ chồng tái sum họp. Có nghĩa là ông sẽ đi đây đi đó, để vợ có thể về lại Luân Đôn.
Ông nghĩ đây là cơ may để cho hai người trở lại với nhau, cơ may để họ quên đi những chuyện ngu ngốc của họ trong năm qua. Banks thì dan díu một thời gian ngắn với Annie Cabbot, còn Sandra thì cặp bồ với Sean. Việc Sandra đang sống với Sean không làm cho ông bận tâm lắm. Người nào cũng có những lúc dan díu tình ái với kẻ khác hết, người nào cũng có lúc nhẹ dạ hết. Ông tin chắc khi ông trình bày, bà ta biết chương trình trong tương lai của ông, thế nào bà cũng thay đổi ý kiến, trở về lại với ông.
Đến chín giờ có điện thoại reo, ông giật mình, thoát ra khỏi giấc mơ đang chìm đắm trong điệu nhạc du dương của Bill Evans, và người đầu tiên ông nghĩ đến là Tracy. Ông hi vọng cô gái không thay đổi ý kiến về ngày nghỉ cuối tuần; ông cần nói cho con gái ông nghe về dự định tương lai của mình, cần nhờ con giúp ông trong việc đưa Sandra trở về với ông.
Nhưng không phải Tracy, mà là Cảnh sát trưởng Jeremiah "Jimmy" Riddle, người đã làm cho ông phải tính đến chuyện xin chuyển công tác đến một nơi xa xôi, phải bán nhà và rời khỏi quê nhà.
- Banks đấy phải không?
Banks nghiến răng đáp:
- Ngài cần gì?
Riddle dừng lại một lát rồi đáp:
- Tôi muốn nhờ anh một việc.
Banks há hốc mồm hỏi:
- Nhờ một việc à?
- Phải. Anh vui lòng... đến nhà tôi được không? Việc này rất quan trọng. Bất đắc dĩ tôi mới mời anh đến nhà vào lúc đêm khuya lạnh lẽo như thế này.
Banks rất ngạc nhiên, "không bao giờ" ông ta nói với ông với thái độ lịch sự như thế này, với giọng nói dịu dàng như thế này. Chuyện gì xảy ra như thế này nhỉ? Lại bịp lần nữa sao?
- Thưa ngài, khuya rồi, - Banks đáp: - Tôi mệt trong người và định...
- Này anh, tôi nhờ anh một việc mà. Vợ tôi và tôi phải hủy bỏ một bữa tiệc quan trọng vào giờ chót vì việc này. Anh không thể bỏ qua lòng thù hận để chìu tôi một lần được hay sao?
Giọng nói của ông ta nghe chẳng khác nào giọng của Jimmy Riddle trước đây. Banks định nói ông ta hãy xéo đi, thì giọng của cảnh sát trưởng lại thay đổi một lần nữa khiến cho ông bàng hoàng.
- Banks, anh vui lòng giúp tôi đi, - Riddle nói. - Tôi cần nói với anh một chuyện rất quan trọng. Một chuyện cấp bách. Tôi không bịp anh đâu. Chuyện này không phải là chuyện bịp đâu. Tôi xin hứa với anh thế. Tôi cần anh giúp đỡ thật.
Phải chăng Riddle chịu khó hạ mình bày chuyện để làm nhục ông? Banks thấy tò mò, ông quyết định phải đi mới được. Nếu ông là loại người làm ngơ trước lời kêu gọi đến nghe một chuyện bí mật, thì chắc ông đã không làm cảnh sát mật vụ. Ông không muốn ra ngoài trời đêm lạnh lẽo, không muốn rời ly rượu Laphroaig, rời nhạc Bill Evans và lò sưởi ấm áp, nhưng ông thấy cần phải đi.
Ông để ly rượu xuống, thầm mừng là cả ngày hôm nay chỉ uống có một ly uých ki nhỏ mà thôi.
- Thôi được rồi, - Ông đáp, vừa với tay lấy cây bút và tờ giấy để bên cạnh máy điện thoại. - Nhưng xin ông cho tôi biết địa chỉ của ông và hướng dẫn đi đến nhà ông. Trước đây chưa khi nào tôi được ông mời đến nhà cả.
*
* *
Riddle ở giữa đường từ Eastvale đến Northallerton, vào khi thời tiết tốt thì lái xe khoảng một giờ là tới, nhưng vào một đêm mưa gió như thế này phải lâu hơn nhiều. Mưa trút nước xối xả, cặp gạt nước ở kính chắn gió làm việc liên hồi suốt cả đoạn đường đi, và có lúc Banks không thấy gì quá vài mét. Chỉ còn hai hôm nữa là đến Đêm Lửa Trại ngày lễ 5 tháng 11, cho nên trên các bãi cỏ trong làng, người ta đã chất nhiều đống củi và các bàn ghế phế thải, tất cả đều ướt mèm.
Ngôi nhà của Riddle được xếp hàng vào loại nhà di tích, có tên Old Mill (Nhà máy xay cũ) vì nguyên thủy nhà được xây dựng. Nhà xây bằng đá vôi, mái lợp bằng đá phiến, tọa lạc bên giòng suối dùng quay các cánh quạt của nhà máy, dòng suối này chảy qua khu vườn. Nhà kho xây bằng đá cũ kĩ nằm kế bên đã được biến thành nhà xe.
Khi Banks lái xe lên con đường ngắn trải sỏi vào nhà, dừng lại trước nhà, ông thấy đèn sáng ở hai cửa sổ tầng dưới, còn ngoài ra, cả ngôi nhà đều chìm trong bóng tối. Trước khi ông kịp gõ cửa thì cửa được mở tung ra. Rồi ông được Riddle dẫn vào trong hành lang lờ mờ tối.
Riddle giúp ông cởi áo khoác một cách rất thân mật, rồi dẫn ông vào phòng khách, cái phòng khách lớn hơn cả ngôi nhà của Banks. Phòng khách phô ra những xà ngang, các tường phòng đều sơn màu trắng, trang hoàng nhiều chiếc tù và và các thứ đồ đồng dùng làm đẹp cho ngựa, tất cả đều được đánh bóng. Một tấm kính soi có khung mạ vàng treo trên chiếc lò sưởi lớn, trong lò, lửa phần phật cháy, và bên cạnh chiếc cửa sổ lồi có chấn song, kê chiếc dương cầm cánh nhỏ xinh xinh.
Nhìn ngôi nhà, Banks nghĩ rằng chủ nhân hàng năm phải có thu nhập đến hàng trăm ngàn bảng Anh hay nhiều hơn nữa, nhưng vì cảnh tượng quê mùa, và vì lửa trong lò sưởi tỏa ra yếu ớt, nên ông thấy căn phòng rất lạnh, trống trải và thiếu sinh khí.
Trên chiếc bàn thấp có lót kính, không có báo chí, không có những tập nhạc để lộn xộn dùng cho đàn dương cầm; còn đồ gỗ trong nhà thì óng ánh như thể vừa mới được đánh bóng cách đây một lát, cái gì cũng sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp. Tất cả đều y như những gì Banks đã suy nghĩ về Riddle. Sự im lặng trong ngôi nhà càng làm rõ nét thêm sự nhận định của ông về con người Riddle, chỉ thỉnh thoảng cơn gió gào rú bên ngoài và tiếng mưa rơi lộp độp vào cửa sổ mới phá tan được bầu không khí yên lặng bên trong.
Một phụ nữ đi vào phòng.
- Vợ tôi, Rosalind! - Riddle giới thiệu.
Banks bắt tay bà ta, bàn tay mềm mại, nhưng cái bắt tay thật chặt. Nếu đêm nay là một đêm ông gặp những chuyện đáng ngạc nhiên, thì bà Rosalind là điều đáng làm cho ông ngạc nhiên thứ hai.
Trước đây chưa bao giờ Banks gặp phu nhân cảnh sát trưởng - tất cả những gì ông biết về bà ta là làm việc trong một công ty luật ở Eastvale, chuyên trách công việc chuyển nhượng tài sản - và nếu ông có nghĩ đến bà ta, thì ông cũng hình dung ra một phụ nữ to lớn, mạnh mẽ, không có nét gì hấp dẫn. Ông không biết lý do tại sao, nhưng đây là hình ảnh ông đã mường tượng ra trong óc.
Thế nhưng, người đàn bà đứng trước mặt ông xinh đẹp, cao, dáng thanh mảnh của người mẫu, hai chân dài đều đặn. Bà ta mặc áo quần bình thường, cái váy màu xám với chiếc áo lụa trắng, hai hột nút áo trên cổ mở ra để lộ một mảng da có hình chữ V, mảng da trắng ngần như da mặt. Mái tóc màu vàng cắt ngắn - kiểu cắt ngắn bờm xờm, công phu, còn màu vàng thì vàng hoe - vầng trán cao, xương gò má cao và cặp mắt xanh đậm. Đôi môi dày, những người có khuôn mặt thanh tú ít ai có đôi môi dày như thế này, và son tô môi lại càng làm cho đôi môi dày thêm, trông như trề ra.
Bà không để lộ ra mặt nét gì đặc biệt, nhưng qua cử chỉ luống cuống của bà, Banks nghĩ bà ta đang lo lắng. Bà để ly rượu xuống bàn, ngồi vào chiếc ghế nệm dài bọc nhung tréo hai chân, chồm người tới trước, hai bàn tay nắm vào nhau đặt trên đùi. Bà ta làm cho Banks nhớ đến những cô gái tóc vàng xinh đẹp, lặng lẽ, trong nhiều bộ phim của Alfred Hitchcock.
Riddle mời Banks ngồi. Ông ta vẫn còn mặc đồng phục trên người. Người cao to, nhưng trông vẫn cân đối, ông ngồi đối diện với Banks trên một chiếc ghế bành, hai ống quần có nhiều vết xếp, và dựa ngửa ra lưng ghế. Đầu ông hói, cặp lông mày đen rậm như hai con sâu uốn cong trên cặp mắt nâu nghiêm nghị.
Banks có cảm giác cả hai người đều không biết nói gì. Không khí quá căng thẳng. Ông nghĩ chắc có chuyện gì không hay đã xảy ra, chuyện gì đấy tế nhị và đau lòng. Banks rất muốn hút điếu thuốc, nhưng không biết làm sao hút được. Ông biết Riddle ghét hút thuốc, vả lại trong phòng đang phảng phất mùi nước hoa oải hương, ông không thể hút thuốc để cho khói thuốc làm mất mùi nước hoa.
Sự im lặng nặng nề. Banks muốn cất tiếng nói cái gì đó để phá tan bầu không khí căng thẳng, nặng nề, nhưng trước khi ông tìm ra được chuyện vớ vẩn gì đó để nói, thì Riddle đã lên tiếng:
- Banks này... tôi... ờ... tôi biết trong quá khứ chúng ta đã có những điều dị biệt, và tôi nghĩ điều tôi yêu cầu anh giúp tôi sẽ làm cho anh ngạc nhiên, cũng như chính tôi cũng ngạc nhiên khi đưa ra yêu cầu này, nhưng tôi nghĩ tôi phải cần anh giúp đỡ.
Đã có những điều dị biệt trong quá khứ? Nói thế là không đầy đủ.
- Ông nói tiếp đi, - Banks nói: - Tôi nghe đây.
Riddle trở mình trong ghế, hai ống quần hiện thêm nhiều nếp gấp. Vợ ông đưa tay lấy ly rượu. Vòng tròn nước đá rịn ra trên mặt gương, là vật duy nhất đóng góp thêm sự hiện diện trong khung cảnh bất biến của căn phòng.
- Đây là chuyện riêng tư, - Riddle nói tiếp. - Rất riêng tư. Không phải chuyện công. Banks này, trước khi tôi trình bày chuyện này cho anh nghe, tôi muốn anh hứa với tôi là anh không để lộ ra cho bất cứ ai biết hết. Anh có thể hứa với tôi như thế không?
Banks gật đầu.
- Tôi xin lỗi! - Bà Rosalind nói, vừa đứng lên: - Chắc ông cho tôi là bà chủ nhà quá tệ. Ông đi đường xa lạnh lẽo như thế này mà tôi không mời ông được ly rượu. Mời ông uống một ly nhé, ông Banks? Mời ông ly uých ki nhỏ nhé?
- Anh ấy còn lái xe, - ông Riddle đáp.
- Chỉ một ly thôi?
Banks đưa tay ngăn bà ta lại.
- Thôi, xin cám ơn bà.
Ông chỉ muốn một tách trà thôi, nhưng điều ông muốn hơn hết là chủ nhà nói cho xong việc này để ông chóng trở về nhà. Nếu ông nhịn thuốc trong một lát được, thì cũng nhịn uống rượu được. Ông ước sao một trong hai người thông cảm với ông được điều này.
- Chuyện về đứa con gái của tôi! - Bà Rosalind Riddle cất tiếng nói, hai tay bấm vào nhau trên đùi: - Nó ra đi khi đến mười sáu tuổi.
- Nó chạy trốn khỏi nhà, Ros à! - Riddle nói, giọng gay gắt vì tức giận: - Chúng ta đừng che đậy gì hết những chuyện đã xảy ra.
- Chuyện xảy ra được bao lâu rồi? - Banks hỏi.
Riddle đáp:
- Sáu tháng rồi.
- Thật đáng tiếc, - Banks nói: - nhưng tôi không biết có chuyện gì mà...
- Đứa con trai Benjamin của chúng tôi tối nay chơi máy vi tính, - Rosalind nói xen vào: - tình cờ nó gặp phải một mạng chuyên chiếu những hình ảnh khiêu dâm.
Banks biết chơi máy vi tính rất dễ bắt gặp các mạng khiêu dâm. Cứ tìm các mạng có "Thiếu nữ yêu kiều" trên máy vi tính thế nào cũng gặp mạng "Gái giật gân".
- Một số hình ảnh... - Bà Rosalind nói tiếp. - Đúng là hình ảnh của Emily con gái tôi. Benjamin mới lên tám. Nó chẳng hiểu gì về chuyện này hết. Chúng tôi phải cho cháu đi ngủ và dặn nó không được nói gì hết.
- Bà có tin chắc đấy là con gái bà không? - Banks hỏi: - Chắc bà biết một số hình ảnh ấy đã được ngụy tạo. Chúng lấy đầu người này ráp vào thân hình người khác.
- Đúng là của nó! - Rosalind trả lời: - Ông tin tôi đi. Trên người nó có cái bớt rất dễ nhận ra.
- Chuyện này thật thế thì quả đáng buồn! - Banks nói: - Xin ông bà cho tôi gởi lời chia buồn. Nhưng ông bà muốn tôi làm gì bây giờ?
- Tôi muốn anh tìm nó giúp chúng tôi. - Riddle đáp.
- Tại sao ông không đích thân đi tìm cô ấy?
Riddle nhìn vợ, hai người nhìn nhau với ánh mắt bất bình, lên án, trách móc lẫn nhau. Ông ta đáp:
- Tôi đã nghĩ đến chuyện đi tìm nó, nhưng tôi thấy không thể thực hiện được. Tôi không thể đi tìm nó bằng con đường chính thức được. Tôi muốn nói, cho dù đây là chuyện nằm trong lãnh vực tội phạm, thì tôi cũng không thể dùng con đường chính thức được. Nó hoàn toàn có quyền về mặt pháp lý. Vả lại càng ít người biết chuyện này bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu.
- Ông sợ mang tai tiếng chứ gì?
Riddle cất cao giọng:
- Tôi biết anh nghĩ gì rồi, Banks à, nhưng chuyện này rất quan trọng. Giá mà anh ý thức được vấn đề, chắc anh sẽ làm việc này tốt thôi.
- Tai tiếng của ông quan trọng hơn sinh mạng của con gái ông à?
Bà Rosalind đáp:
- Giữ gìn tiếng tăm không có nghĩa là chồng tôi hay tôi xem nhẹ số phận con gái chúng tôi. Là người mẹ, tôi bất bình ý kiến của ông.
- Vậy thì tôi xin lỗi.
Riddle lại nói.
- Banks à, anh biết cho là trước đêm nay, tôi không có lý do gì để phải lo sợ cho số phận của con gái tôi hết. Emily là đứa con gái thông minh, sống có nề nếp, có đáng trách chăng là tội cứng đầu và ương ngạnh, nhưng bây giờ tôi thấy có lý do để lo sợ, lo sợ không phải vì tham vọng hay vì tai tiếng như anh nghĩ đâu.
- Thế thì tại sao ông không cố gắng tự mình đi tìm cô ta?
- Anh hãy thực tế một chút, Banks. Trước tiên là tôi không thể để cho mọi người thấy tôi đi làm một công việc riêng tư của mình.
- Còn tôi thì được sao?
- Người ta rất ít biết anh, chứ không như tôi. Mọi người sẽ nhận ra tôi. Tôi có thể che chở cho anh ở đây, nếu anh lo sợ có gì xảy ra. Nghĩa là tôi là cảnh sát trưởng. Và tôi sẽ hỗ trợ cho anh về mặt tài chính. Tôi không để cho anh bỏ tiền túi ra để chi tiêu trong việc này. Nhưng anh phải làm việc riêng rẻ một mình. Anh không được sử dụng tin tức tình báo của cảnh sát hay là phương tiện gì của cảnh sát. Tôi muốn anh phải giữ kín chuyện này. Đây là vấn đề của gia đình.