Thuyền trưởng tuổi 15 - Phần 2 - Chương 01 - 02 - 03

PHẦN THỨ HAI

Chương 1

ALI VÀ NEGO

Sau hôm Đíchsơn và cả nhóm tìm chỗ trú cuối cùng trong rừng, cách đó chừng ba dặm có hai người đang bàn bạc, đó là Ali và Nego. Chúng ngồi dưới gốc một cây đa lớn, trên bờ một con suối chảy như thác. Từ đầu câu chuyện chúng đã đề cập ngay đến những việc đã làm trong ngày vừa qua. Nego nói:

- Thế anh không thể đưa bọn người của tên thuyền trưởng ranh con vào sát Angola hơn nữa à?

Ali đáp:

- Không, bạn ạ. Đưa chúng vào bờ biển cách một trăm dặm cũng là một kỳ công rồi.

- Anh Ali ơi, còn phải một trăm dặm nữa mới chắc ăn. Tuy nhiên, ta không nên để chúng thoát thân.

Ali nhún vai nói:

- Thoát thế nào được! Có bay đường trời. Một trăm dặm đủ rồi. Tôi chuồn đúng lúc vì nhìn mắt tên thuyền trưởng mười lăm tuổi, tôi biết nó sắp cho tôi ăn đạn.

Nego nói:

- Rồi anh trở về đây à?

Ali đáp:

- Phải, đưa chúng vào đến đó không phải dễ. Mấy hôm đầu, tôi đã khéo bịa đặt khiến Đíchsơn tin tưởng khu vực này là thảo nguyên Atacama ở Nam Mỹ, nơi tôi đã có dịp đi qua. Dần dần tôi cũng bí. Sau khi tôi bảo hươu cao cổ là đà điểu… tôi ngụy biện kể cũng tài đấy chứ… Rồi tôi không biết bịa gì nữa, vì tôi thấy Đíchsơn không thèm nghe tôi nói nữa. Thế rồi chúng tôi đi đúng vào lối của đàn voi vừa chạy qua. Rồi các “ông” hà mã lại xuất hiện, thế có xui không! Cuối cùng, tôi không nói được gì nữa vì lão già da đen nhặt được ở gốc cây nào còng, nào xích của những tên nô lệ bẻ ra để trốn. Chưa để Đíchsơn hỏi tôi, tôi đã kịp thời lên ngựa chuồn nhanh đến đây.

Nego nói:

- Tôi đã hiểu rồi! Tiếc rằng anh không đưa được bọn chúng đi thêm trăm dặm nữa.

Ali nói:

- Bạn ơi! Người ta chỉ làm những gì người ta có thể làm được thôi, bạn ạ.

Sau một lúc yên lặng, Ali nói:

- Khi tôi tình cờ gặp anh ở cửa sông Lôngga, nơi thuyền Hải Âu đắm, anh chỉ dặn tôi tìm cách đưa bọn đắm thuyền vào nội địa, xa chừng nào hay chừng ấy, anh chưa cho tôi biết tình trạng của anh Cátxăng trong hai năm gần đây thế nào? Từ ngày anh rời Cátxăng để đưa đoàn nô lệ ra duyên hải theo lệnh của trùm Angve, người ta không thấy anh trở về nữa. Tôi đoán rằng anh đã gặp tàu tuần thám của nước Anh và anh đã bị xử giảo rồi!

- Còn xa! Anh ơi! – Nego trả lời.

Ali nói:

- Rồi sẽ đến, anh bạn ạ.

- Cảm ơn.

- Anh phải biết: đó là một may rủi trong nghề. Ngày nay người ta phải liều mạnh để hành nghề buôn nô lệ ở biển Phi châu. Sự thực, anh bị bắt à? – Ali tiếp.

- Phải.

- Bởi người Anh à?

- Không! Bởi người Bồ Đào Nha.

- Bị bắt trước hay sau khi giao hàng?

- Sau khi giao hàng. Những thực dân Bồ Đào Nha bao giờ cũng làm khó dễ. Họ không muốn có chế độ nô lệ nữa. Tôi bị tố giác, bị theo dõi, rồi bị bắt…

- Và bị giam?

- Phải, ở ngục Luanđa.

Ali kêu:

- Trời! Bị nhốt trong ngục à? Tôi thà chết treo còn hơn là chết mòn trong ngục.

Nego đáp:

- Anh phải biết, một khi lên giảo đài, người ta không thể thoát thân được, chứ một khi vào ngục, người ta có thể…

- Thế anh vượt ngục à?

- Đúng thế, anh bạn. Vào ngục đúng mười lăm ngày thì tôi trốn ra được và nấp vào trong hầm một tàu Anh đi Úclan ở hải cảng New Zealand. Ba mươi ngày nằm hầm để vượt biển, vất vả lắm anh ơi!

- Thế bình thường anh đến New Zealand rồi anh lại từ đó trở về Phi Châu cũng bằng cách nằm hầm chứ?

- Không, không, tìm cách về thong thả hơn, vì ở đây tôi chỉ muốn trở về Angola để làm nghề cũ thôi mà.

- Phải, nhân tâm ai chả yêu nghề mình… vì thói quen.

- Khi tàu cập bến Úclan, tôi lên bờ không ai biết. Nhưng lúc đó, không một đồng dính túi, tôi phải làm đủ mọi nghề để sống và đợi dịp trở về. Mãi mười tám tháng sau, tôi mới gặp chiếc thuyền đánh cá tên Hải Âu ghế bến Úclan.

- Rồi thuyền đó đưa anh về bờ biển Angola à?

- Chính thuyền đó, anh Ali ạ.

- Nhưng theo lời anh bạn trẻ đã gặp tôi thì thuyền đó đâu có muốn cập bờ biển Phi châu. Có lẽ là một sự ngẫu nhiên đã đưa thuyền đó đến đây chăng?

- Việc đó đâu phải là ngẫu nhiên! Ngẫu nhiên có chăng chính là việc tôi đã gặp anh ở ngay địa điểm mà con thuyền Hải Âu vừa đắm. Còn việc cho thuyền về hướng Angola này là do ý muốn của tôi, một ý muốn kín đáo và đã thành công. Vì thế bà Uynxton và đồng bọn mới phải đặt chân lên bờ biển Phi châu và vào sâu đến trăm dặm.

- Bây giờ thì họ có biết là họ đang ở đâu không?

- Bây giờ thì cần gì!

- Anh sẽ tính thế nào?

- Tôi định… Nhưng trước khi nói đến họ, anh cho tôi biết tin tức ông trùm Angve của chúng ta?

- Ồ! Ông ta vẫn phây phây và sẽ vui mừng khi thấy anh trở về.

- Ông ta vẫn ở chợ Bilê đấy chứ?

- Không, đã hơn một năm nay, ông ta dọn về Cadôngđê rồi.

- Công việc làm ăn ra sao?

- Mỗi ngày một khó khăn, anh ạ. Mình bị kẹt: một bên là các nhà chức trách Bồ Đào Nha, một bên là những tàu tuần thám của nước Anh, họ lùng bắt các lái buôn người rất gắt. Bây giờ chỉ còn một lối đưa hàng xuống Mosamode ở phía Nam Angola may ra mới thoát. Vì thế, hiện nay tại các trại trú chân đều đầy nô lệ, chỉ đợi tàu đi các thuộc địa Bồ Đào Nha thôi. Còn đưa hàng đi qua địa hạt Bengola hay Luanda như trước thì không thể được nữa, vì các tỉnh trưởng không nghe và các khu trưởng cũng không chịu. Thế nên trùm Angve phải quanh vào các làng xa đổi vải lấy ngà voi hoặc nô lệ. kết quả vẫn khả quan. Tuy nhiên, sau này việc buôn bán nô lệ sẽ không thể hoạt động được nữa. Người Anh mở rộng phạm vi kiểm soát rất nhanh tới trung bộ Phi châu. Mặt khác, các giáo sĩ càng ngày càng chống lại tụi ta. Lại còn tên bác sĩ Livinhtơn, người ta nói là sau khi thám hiểm miền hồ lạch, sẽ thẳng đường về Angola.

Trò chuyện đến đây, Ali đã rõ tâm trạng của Nego rồi nhưng chưa biết ý kiến y về những người đắm thuyền ra sao. Ali hỏi:

- Bây giờ anh định thế nào về bọn chúng?

Nego đáp:

- Tôi định chia thành hai nhóm: một nhóm bán làm nô lệ, còn một nhóm…

Nego không nói hết, nhưng qua nét mặt dữ tợn của hắn, người ta có thể biết mưu kế hắn dành cho tốp sau thâm độc lắm.

Ali hỏi:

- Anh định bán những tên nào?

- Những tên da đen theo bà Uynxton chứ còn ai? Trong bọn có lão Tôm già quá, bán không được mấy, còn bốn tên kia béo, khỏe rất có giá ở chợ Cadôngđê – Nego đáp.

- Đúng lắm, anh sẽ bán được đắt giá. Những nô lệ gốc ở Mỹ mà gửi sang thị trường Angola thực là của hiếm, sẽ đắt như tôm tươi. Bấy giờ chỉ còn việc chiếm đoạt thứ hàng quý giá đó thôi.

Nego hỏi:

- Việc đó có lẽ khó?

- Không bạn ạ. Cách đây 10 dặm, đang có một đoàn nô lệ đang cắm ở làng Quangđa do một lái Ả Rập tên là Amít cầm đầu. Hắn chỉ đợi tôi trở về là lên đường đến chợ Cadôngđê. Vùng đó không có lính tuần tra nên ta dễ bắt bọn Đíchsơn, miễn là bọn đi định đi về lối Quangđa.

Ali nói tiếp:

- Chắc thế, vì Đíchsơn là một tên thông minh. Nó sẽ không theo đường cũ để ra bờ biển vì dễ lạc trong những cánh rừng bao la. Tôi đoán thế nào nó cũng theo một dòng sông con đóng bè để ra biển. Nó không còn phương tiện nào hơn nữa. Tôi biết thế nào nó cũng đi bằng lối ấy, và tất nhiên nó không ngờ đến vòng lưới của chúng ta đang đợi nó.

Nego tư lự một lúc rồi nói:

- Phải… may ra…

- Không thể nói là “may ra” mà phải nói là “cầm chắc” mới đúng. Anh sẽ thấy Đíchsơn sẽ đến đúng “chỗ hẹn tưởng tượng” của tôi trên sông Quangđa cho mà xem.

- Nếu đúng như vậy thì chúng ta khởi hành ngay đi. Tôi biết Đíchsơn lắm, nó không chịu chậm trễ một giờ nào, ta phải đến trước mới được.

- Chúng ta đi.

Hai người vừa đứng dậy thì có tiếng sột soạt ở trong bụi cây gần đó. Nego dừng lại và nắm lấy tay Ali. Chợt tiếng sủa vang lên rồi một con chó hiện ra trên bờ suối, nhe nanh, vọt đến. Ali kêu:

- A! Con Đinhgô!

Nego nói:

- Lần này nó không thoát tay tôi.

Trong khi Đinhgô nhảy vào Nego, y giật súng của Ali lùi lại, ngắm và bóp cò. Một tiếng kêu đau đớn đáp lại sau tiếng nổ. Con Đinhgô biến mất sau đám cây con bao phủ bờ suối. Nego bước xuống bờ suối, thấy lá cây cào vết máu và một vệt đỏ kéo dài trên đám sỏi trắng tinh. Y nói:

- Thế là hết đời con quái vật nhé!

Ali chứng kiến hết tấn kịch đó, hỏi Nego:

- Con chó căm thù anh lắm sao?

- Hình như thế. Nhưng bây giờ thì nó hết căm thù!

- Sao nó lại căm thù anh đến như thế?

- Ồ! Đó là một chuyện cũ cần phải thanh toán giữa nó và tôi.

- Chuyện cũ à?

Nego im lặng. Ali biết Nego không muốn tiết lộ chuyện riêng nên không hỏi thêm nữa. Một giờ sau, hai tên lần theo bờ suối một đoạn nữa rồi rẽ đường rừng để đến Quangđa.

Chương 2

TÌM LỐI RA

Đíchsơn biết mình đã bị lạc vào Phi châu và không còn nghi ngờ gì nữa Ali là tên lừa đảo. Do đó, Đíchsơn kết luận rằng Ali và Nego đã quen biết nhau từ lâu. Chúng ngẫu nhiên gặp nhau ở bờ biển rồi cùng nhau bày mưu tính kế để hại những người còn sống sót của thuyền Hải Âu. Nhưng chúng làm thế nhằm mục đích gì? Nếu nghe được hai tên gian bàn định với nhau ở bờ suối, Đíchsơn sẽ biết âm mưu của chúng và một mối nguy hiểm lớn đang đe dọa bà Uynxton, các bạn da đen và cả chính Đíchsơn nữa.

Tình trạng thực nguy ngập, nhưng chàng thủy thủ bé nhỏ không sờn lòng. Là thuyền trưởng trên đại dương, Đíchsơn cũng là thuyền trưởng trên đất liền. Sau mấy tiếng đồng hồ suy tính về hiện tại và tương lai với những điều may, cái rủi – mà cái rủi nhiều hơn – Đíchsơn đứng phắt dậy không hề nản chí. Ánh mặt trời đã lờ mờ trên những ngọn cây rừng, Đíchsơn đến gần già Tôm và nói nhỏ:

- Già cũng thấy những dụng cụ của bọn buôn người rồi. Hẳn già cũng biết đây là Phi châu?

- Đúng thế. Tôi biết lắm.

- Vậy già phải giữ kín, đừng nói gì cho bà Uynxton và các bạn biết. Chỉ cần tôi và già biết để lo liệu thôi, già ạ.

- Vâng, cần phải thế.

- Chúng ta phải thận trọng hơn bao giờ hết. Ta đang ở trong một xứ lạ. Chỉ cần cho mọi người biết rằng chúng ta đã bị Ali phản để mọi người phải thận trọng hơn, mà đề phòng những toán người da đỏ hiếu chiến.

- Cậu có thể tin vào sự tận tâm và lòng can đảm của tôi.

- Cũng như tôi tin vào sự thiện chí và kinh nghiệm của già. Già sẽ giúp đỡ tôi.

- Tôi sẽ hết lòng, cậu cứ yên tâm.

Kế hoạch của Đíchsơn là phải rút ngay ra bờ biển càng sớm càng tốt, mặc dù Đíchsơn biết bờ biển đó thuộc Angola. Ý định này được già Tôm tán thành. Nhưng muốn trở ra bờ biển, lại phải theo lối cũ hay sao? Đíchsơn nghĩ nếu trở ra bằng lối cũ tất nhiên sẽ gặp Ali, thế nào hắn cũng đón đường để sinh sự. Theo Đíchsơn thì chỉ có cách tìm một con sông để ra biển, tuy chậm nhưng chắc chắn và không để lại một dấu vết gì. Việc cần nhất là phải biết gần đó có dòng nước nào khả dĩ đi về được không. Đíchsơn nhớ hôm cuối cùng đi với Ali, đoàn người có đi qua một con suối hai bờ nhuộm đỏ vì có oxít sắt. Tìm lại dòng suối đó không lâu và không khó khăn lắm. Đíchsơn sẽ theo con suối đó để tìm ra con sông mà thả xuôi bè. Nghe Đíchsơn bàn tính, già Tôm cũng cho là không còn cách nào hay hơn nữa. Trời bắt đầu sáng, mọi người lần lượt thức dậy, bà Uynxton nhìn chung quanh rồi hỏi Đíchsơn:

- Ông Ali đâu nhỉ? Ta không trông thấy ông ấy?

Đíchsơn đáp:

- Ông ấy không còn ở đây ạ.

- Thế ông ấy đi trước à?

- Thưa bà, hắn trốn mất rồi. Hắn là một thằng làm phản. Hắn đã thông đồng với Nego để đưa đoàn ta đến đây.

- Đíchsơn, con tin chắc Ali phản chúng ta?

- Thưa bà, đúng thế .

Rồi Đíchsơn nhìn già Tôm, nói luôn:

- Đêm qua con và già Tôm đã khám phá ra gian ý của Ali. Nếu nó không tẩu thoát nhanh bằng ngựa, con đã bắn chết nó rồi.

Bà Uynxton hỏi:

- Thế còn nông trại?...

- Chẳng có nông trại nào, xóm làng nào ở chung quanh đây cả. Chúng ta phải rút nhanh ra bờ biển.

- Bằng con đường cũ à?

- Thưa bà, không. Chúng ta sẽ theo một dòng sông để ra biển, như thế sẽ bớt cực nhọc và nguy hiểm. Tuy nhiên phải đi bộ chừng vài dặm.

- Ồ, ta còn khỏe. Ta sẽ đi được và ẵm con ta. Thế thì nên đi cho sớm.

- Vâng. Con cùng các bạn đã sửa soạn rồi.

Đoàn người chưa đi được năm mươi bước thì già Tôm nói một tiếng làm cho mọi người đứng cả lại.

- Con Đinhgô?

Ecquyn đáp:

- Ờ nhỉ? Không thấy Đinhgô đâu cả.

Nói xong, vốn to mồm, Ecquyn gọi lên mấy tiếng vang cả khu rừng nhưng không thấy tiếng sủa đáp lại. Đíchsơn im lặng, mất con chó thật đáng tiếc. Vì nó sẽ báo động giúp mọi người đề phòng những bất trắc xảy ra.

Già Tôm hỏi:

- Hay nó theo Ali?

Đíchsơn đáp:

- Nó không theo Ali đâu. Chắc nó đi tìm Nego vì nó biết Nego đã đi qua chỗ này.

Ecquyn nói:

- Nếu vậy, thằng chết tiệt ấy sẽ hại Đinhgô mất.

- Biết đâu nó lại không cắn cổ Nego trước – Pát nói.

- Có thể lắm. Nhưng ta không thể đợi Đinhgô được nữa. Nếu còn sống nó sẽ tìm ra ta vì nó thông minh lắm. Chúng ta tiếp tục đi đi – Đíchsơn trả lời.

Đoàn Đíchsơn đi một quãng thì đến suối nước đỏ. Họ cứ theo bờ suối đi mãi, mong gặp một dòng nước lớn hơn để đóng bè xuôi ra biển. Đến trưa, họ đã đi được ba dặm, không hề gặp trở ngại nào. Ali, Nego đều mất tung tích. Đinhgô vẫn chưa trở về.

Mọi người nghỉ chân trong một rừng tre để ăn trưa. Trong bữa ăn, mọi người đều ít nói. Bà Uynxton ẵm con trong lòng, chăm chú nhìn và không chịu ăn. Đíchsơn nói:

- Bà hãy ăn chút ít để lấy sức đi đường. Nếu bà ốm thì nguy to. Bà cố gắng ăn đi. Rồi chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Gặp sông con, chúng ta sẽ xuôi bè ra biển không sợ mệt nhọc nữa.

Bà Uynxton nhìn nét mặt quả cảm của Đíchsơn, bà tin tưởng và đỡ nản lòng. Những người da đen rất tận tụy, bà thấy mọi người đều hăng hái. Bà còn tưởng đang ở trên một vùng đất lạ; dù Ali có phản bội, hậu quả cũng không đáng sợ. Đíchsơn đoán được tâm tư của bà, nhưng đành im lặng để cho bà hy vọng.

Giữa lúc đó Giắc tỉnh dậy, em đã hết sốt, đôi mắt long lanh và em giơ hai cánh tay ôm cổ mẹ nói:

- Đã đến nông trại của ông Ali chưa mẹ?

Bà Uynxton đáp:

- Ồ, nông trại… gần đến rồi! Phải, chúng ta sắp đến.

Muốn chấm dứt chuyện buồn về nông trại, Đíchsơn hỏi bà Uynxton:

- Thưa bà, đi được rồi chứ?

- Ừ! Chúng ta đi đi!

Mọi người dọn dẹp đồ đạc rồi lại tiếp tục đi. Họ phải đi xuyên qua một cánh rừng rậm để theo sát dòng suối. Trong rừng có vài vết đường mòn, lâu ngày không có ai đặt chân tới nên cây cỏ mọc đầy. Những người da đen luôn tay bẻ lau, vạch cỏ. Thế mà ba tiếng đồng hồ mới đi được một dặm. Cũng may việc làm vất vả đó không kéo dài. Đi được một dặm thì họ gặp một lối đi dài hun hút do một đàn voi đã phá thành. Những vết chân voi to lớn, sâu hoắm còn in trên mặt đất chưa khô.

Con đường này đi chéo ra đến bờ suối một quãng rồi lại quặt vào rừng sâu. Vì thế, đoàn Đíchsơn phải bỏ con đường dễ đó, và một lần nữa, họ lại phải dùng rìu phá cây rừng mở lối để bám sát bờ suối. Từ chỗ này, dòng suối bớt dốc, sâu và rộng hơn, Đíchsơn hy vọng sắp ra tới sông con. Vì thế những người da đen hăng hái làm việc mặc dầu dây leo, gai góc mọc chằng chịt ngăn cản lối đi.

Hôm đó, vào khoảng ba giờ chiều, đoàn người ra khỏi rừng rậm, gặp ngay một dải đầm lầy, rêu phủ xanh rờn, thỉnh thoảng nhô lên những cây dương xỉ rất đẹp. Họ phải dò từng bước trên khoảng đất nhão tưởng như vô tận này. Khoảng năm giờ chiều, đi được hơn nửa dặm, mặt đất cứng nên dễ đi hơn. Tuy nhiên, bên dưới vẫn thấy bùng nhùng vì đẫm nước. Qua địa hình, Đíchsơn biết rằng dải đồng này thấp hơn các con sông ở quanh đây nên nước sông thấm ra và đọng cả vào chỗ trũng.

Lúc đó, bầu trời bỗng trở nên oi ả. Những luồng chớp xa xa bắt đầu vạch ngoằn ngoèo trên áng mây đen. Những tiếng sấm ran ran vọng lại. Một cơn giông khủng khiếp sắp đến. Dãi đồng trũng này sắp bị ngập. Chung quanh không có một chỗ đất cao nào để trú chân. Xa xa, về phương bắc có một dãy đồi thấp hình như là giới hạn của đầm lầy. Nơi đó có lẽ là nơi cứu tử độc nhất của đoàn người lạc bước. Đíchsơn động viên mọi người:

- Các bạn ơi, chúng ta hãy tiến lên! Tiến nhanh lên! Còn ba dặm nữa, chúng ta sẽ đến một nơi an toàn hơn ở chỗ đất trũng này.

Ecquyn nói:

- Xin tất cả hăng hái lên! Đi nhanh lên!

Đoàn người rảo bước được một dặm thì cơn giông kéo đến. Còn độ hai dặm nữa mới tới rặng đồi. Nhiều lần Đíchsơn và các bạn phải vừa đi vừa chạy để tránh sét đánh, vì ở cánh đồng này không có cây cao. Chỉ có đầu người là những điểm cao nhất để hứng điện trời trong lúc giông tố này. Trời mưa như trút, Đíchsơn chạy chậm lại và hỏi già Tôm.

- Làm thế nào bây giờ?

Già Tôm đáp:

- Cứ tiếp tục đi! Chúng ta không thể ở lại trong cánh đồng này vì nó sắp biến thành biển nước bây giờ.

Đíchsơn nói:

- Tôi vẫn biết thế, nhưng nếu ta tìm được một chỗ tạm trú bây giờ thì hơn, dù chỉ là một túp lều hay…

Đíchsơn ngừng lời. Một tia chớp sáng vừa lóe và soi khắp cánh đồng. Đíchsơn nói to:

- Tôi vừa nhìn thấy cái gì đằng kia, cách đây độ năm trăm thước!

Già Tôm gật đầu, đáp:

- Phải, tôi cũng trông thấy.

- Một đồn trại phải không?

- Phải. Có lẽ là một đồn trại… nhưng là đồn trại của dân địa phương.

Đíchsơn nói:

- Già cùng mọi người hãy tạm dừng ở đây, để tôi đến đó thăm dò xem sao.

Ba phút sau, Đíchsơn trở về, vừa chạy vừa mừng rỡ gọi to:

- Lại đây! Lại cả đây!

Già Tôm hỏi:

- Đồn đó bỏ trống hay sao?

- Không phải đồn, không phải trại. Đó là một cái tổ mối, chúng ta vào trú mau.

Mọi người vội vã theo Đíchsơn đến chỗ trú.

Lát sau họ đến trước một ụ đất đỏ cao hơn ba thước hình chóp mọc la liệt như bát úp. Mặc dù loài mối là đáng sợ, nhưng trong lúc khẩn cấp này, họ chui vào trong tổ để ở chung với chúng, nếu không đuổi hẳn được chúng ra ngoài. Họ chọn một tổ gần nhất, chân ụ có một lỗ hẹp, Ecquyn phải dùng dao khoét rộng cho người chui vào lọt, và cho cả anh nữa.

Trước cặp mắt ngạc nhiên của nhà côn trùng học Binđác, trong tổ không có một con mối nào. Có lẽ tổ mối này bị bỏ hoang. Khi cửa tổ đã được khoét rộng, Đíchsơn và mọi người chui vào.

Chương 3

BÀI HỌC VỀ GIỐNG MỐI

Trong khi đó, cơn giông nổi lên càng dữ dội. Cơn dông mà những người ở miền ôn đới không thể tưởng tượng được. May sao Đíchsơn cùng cả đoàn lại tìm được một chỗ núp trong lúc này.

Khi đã vào được trong tổ mối rồi, họ liền thắp đèn để kiếm chỗ ngồi. Trong tổ có những tầng bằng đất giống như những ngăn kéo bỏ ngỏ, ngắn, có hàng ngàn lỗ nhỏ. Đíchsơn liền cho phá tầng dưới để lấy đất đắp lên nền tổ cho cao vì nước bắt đầu thấm vào. Cửa tổ cũng lấp một nửa để cho không khí lọt vào. Thật may mắn mà tổ mối này bỏ hoang, nếu không thí khó mà ở chung với hàng ngàn con mối khổng lồ. Những đàn mối này mới đi hay chúng bỏ tổ đã lâu. Đó là một câu hỏi không phải là thừa.

Chính nhà thông thái Binđác ngay từ đầu đã thắc mắc về vấn đề này. Ông rất ngạc nhiên tại sao tổ này lại bỏ không và ông kết luận rằng đàn mối mới bỏ đi vì chúng có linh tính thời tiết sắp thay đổi. Đíchsơn chăm chú nghe nhà thông thái giải thích và nơm nớp lo sợ rằng những đống mối này sẽ cho ông biết đây là châu Phi. Nhưng Binđác không để ý đến điều đó, vì một khi gặp vấn đề thích thú, ông nói thao thao bất tuyệt. Ông nói:

- Loài mối gồm có nhiều giống: giống lưng đỏ, giống lưng vàng, giống sợ ánh sáng, giống hay cắn, giống phá hoại…

Đíchsơn hỏi:

- Thế giống đã xây tổ này thuộc giống gì?

Ông Binđác đáp:

- Là giống hiếu chiến. Giống này gồm có những con mối thợ và những con mối đặc biệt gọi là “Siraphu”. Những con này mình dài tới ba xăng ti mét, hai hàm răng dài như lưỡi kiếm và chắc khỏe, đầu to hơn thân, trông giống như con cá mập. Đúng, nó là cá mập của loài sâu. Nếu con Siraphu chọi với cá mập, tôi tín chắc là cá mập phải thua!

Đíchsơn hỏi:

- Giống mối này thường thấy ở đâu?

Binđác đáp:

- Thường ở châu Phi, nhất là ở các tỉnh trung bộ và nam bộ. Loại mối này cung cấp cho dân bản xứ một món ăn rất ngon lành. Những con mối nướng lên, các bạn ơi. Vừa béo vừa bùi, ngon tuyệt trần các bạn ạ.

Ecquyn hỏi:

- Ông đã ăn rồi chứ ạ?

Binđác đáp:

- Chưa, nhưng tôi cũng sắp được ăn.

- Ở đâu?

- Ngay tại đây.

Già Tôm nói luôn:

- Tại đây làm gì có, vì đây có phải là châu Phi đâu.

Binđác đáp:

- Ờ nhỉ. Thế mà từ trước tới giờ người ta nói giống Siraphu và gốc gác của chúng chỉ có ở châu Phi mà thôi. Ôi, con mắt của những ông khách du lịch còn kém lắm.

Binđác còn thuyết minh một hồi nữa, rồi có lẽ nhà thông thái buồn ngủ nên bò lên tầng cao nhất ngủ. Trong tổ im lặng dần. Bên ngoài sấm sét ầm ầm, gió mưa dữ dội. Cơn giông khủng khiếp không biết đến bao giờ.

Mọi người mỏi mệt có lẽ đều ngủ cả. Riêng Đíchsơn ngồi im lặng ưu tư. Chú nghĩ đến số phận những con người do chú dẫn dắt và quyết tâm cứu họ qua cơn hoạn nạn này.

Đíchsơn hồi tưởng lại khi chú còn làm thuyền trưởng. Có lần Nego tỏ ra hỗn xược, sao mình chỉ dọa giẫm hắn dưới hầm thuyền mà không bắn cho hắn một phát để kết liễu đời của tên phản bội thì đâu có xảy ra những chuyện cay đắng như thế này.

Và Đíchsơn tự an ủi:

- Nhưng cũng còn may là bà Uynxton và tất cả mọi người chưa biết sự nguy hiểm này.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3