Máu Lạnh - Phần IV - Chương 6
Fleming nói, “Cha có tấm ảnh nào chụp bức tranh đó không?” Cha có hẳn một phong bì đầy nhòe ảnh chụp; nhưng khi cha mang nó ra, có ý phát cho các vị quan tòa thì Logan Green liền giận dữ nhảy dựng lên, “Nếu Cha cho phép, như thế này là đi quá xa rồi đấy...” Cha cũng thấy là không thể đi xa hơn nữa.
Bác sĩ Jones thì đã được nhắc nhở, và theo các giao ước đề ra khi ông xuất hiện lần đầu tiên, Fleming đặt ra cho ông câu hỏi quan trọng: “Qua cuộc trò chuyện và chẩn đoán đối với Perry Smith, ông có ý kiến gì về việc liệu anh ta có biết đúng sai khi đang thực hiện hành vi tấn công người khác kia không?” Và một lần nữa tòa khiển trách nhân chứng, “Trả lời có hay không, ông có ý kiến hay không?”
“Không.”
Bản thân cũng sửng sốt, giữa những tiếng râm ran ngạc nhiên chung quanh, Fleming nói: “Ông có thể nói với tòa tại sao ông lại không có ý kiến chứ.”
Green phản đối: “Ông bác sĩ không có ý kiến, thế thôi!” Về mặt pháp lý mà nói thì đúng là như vậy.
Nhưng giá như bác sĩ Jones được phép diễn thuyết về lý do lưỡng lự của mình thì hẳn ông cũng sẽ chứng rằng: “Perry Smith có những dấu hiệu dứt khoát về bệnh tâm thần nghiêm trọng. Tuổi thơ của ông ấy, được kể lại với tôi và được kiểm chứng bằng những mẩu ghi nhận trong tù, mang dấu ấn nổi bật của sự thô bạo và sự thiếu quan tâm của cả bố lẫn mẹ. Ông ấy có vẻ lớn lên không phương hướng, không có tình yêu và không có sự hấp thu bất cứ một ý thức cố định nào về các giá trị luân lý... Ông ấy có định hướng, quá nhạy cảm với những cái đang diễn ra liên quan đến mình, và không có dấu hiệu gì là hoang mang bối rối. Ông ta ở trên mức thông minh trung bình, có một vốn thông tin tốt so với bối cảnh học vấn nghèo nàn của ông ta... Trong quá trình hình thành nhân cách của ông ta, có hai nét nổi bật đặc biệt mang tính bệnh hoạn. Nét thứ nhất là định hướng ‘hoang tưởng’ đối với thế giới. Ông ta đa nghi và mất lòng tin ở người khác, có xu hướng cảm thấy bị người khác phân biệt đối xử, không hiểu mình và đối xử bất công với mình. Ông ta cực nhạy bén với những lời người khác phê bình mình, không tha thứ được cho việc bị đem ra chế giễu. Ông ta dễ cảm thấy bị sỉ nhục lăng mạ trước những lời nói của người khác, thường diễn giải sai lệch những cuộc giao tiếp có ngụ ý tốt đẹp. Ông ta cảm thấy có nhu cầu to lớn về tình bạn và lòng thông cảm, nhưng lại do dự trong việc tâm sự với người khác và khi tâm sự thì lại nghĩ rằng sớm muộn gì cũng bị hiểu lầm hay thậm chí bị phản bội. Trong việc đánh giá mục đích và cảm xúc của người khác, ông ta có rất ít khả năng tách các phòng chiếu tâm thần của bản thân ra khỏi thực tế. Ông ta thường hay vơ đũa cả nắm coi ai cũng toàn là đạo đức giả, thù nghịch, và xứng đáng với bất cứ cái gì ông làm với họ. Na ná với nét thứ nhất là nét thứ hai, một cơn giận thường trực, kém được kiềm chế - dễ dàng bung ra bởi bất cứ cảm giác nào rằng mình đang bị lừa bịp, làm nhục hoặc coi khinh. Trong quá khứ, phần lớn các cơn giận này đều hướng vào các nhân vật quyền uy - bố, anh, thượng sĩ quân đội, viên chức coi tù - và đã nhiều lần dẫn tới hành vi hung hãn dữ dội. Cả ông ta lẫn nhưng ai quen biết đều hiểu những cơn giận mà ông ta nói là ‘dâng lên đùng đùng’ trong ông ta, đều hiểu ông ta rất khó lòng kiềm chế được chúng. Khi hướng vào bản thân thì những cơn giận này lại phóng thả ra ý nghĩ tự sát. Cái lực không thích hợp của cơn giận cùng sự bất lực trong việc kiểm soát hoặc chuyển dòng cơn giận sang chỗ khác đã cho thấy một nhược điểm chính yếu trong cấu trúc nhân cách... Cùng với các nét đó, ông ta còn cho thấy những dấu hiệu về một sự rối loạn trong quá trình tư duy. Ông ra rất kém trong khả năng sắp xếp tư duy của mình cho trật tự, ông ta hình như không có khả năng quan sát hoặc tóm lược ý nghĩ của mình, mà trở nên sa vào và đôi khi vướng mắc vào tiểu tiết, một vài ý nghĩ của ông ta có cho thấy một tính chất ‘ma thuật’, một sự lìa thoát hiện thực... Ông ta ít có quan hệ tình cảm thân thiết với người khác, đã thế, những tình cảm ít ỏi này lại không đủ sức chịu đựng những cơn khủng hoảng nho nhỏ. Ngoài một nhóm nhỏ bạn bè, ông ta ít có cảm tình với người khác; ông ta gắn rất ít giá trị đích thực cho đời sống con người. Sự thờ ơ cảm xúc và sự dịu dàng trong một số lĩnh vực cũng lại là một bằng chứng khác nữa về điều bất thường trong tâm lý ông ta. Để có được một chẩn đoán tâm thần chính xác, cần phải đánh giá toàn diện hơn nữa, nhưng cấu trúc nhân cách hiện thời của ông ra thì đã rất gần với cấu trúc của một phản ứng tâm thần phân liệt hoang tưởng rồi.”
Điều khá có ý nghĩa là một bậc kỳ cựu được giới tâm thần học pháp lý xa gần kính trọng, bác sĩ Joseph Satten ở bệnh viện Menninger tại Topeka, bang Kansas, đã tham khảo ý của bác sĩ Jones và tiến thành những đánh giá của ông này về Smith và Hickock. Sau đó, khi chú ý hơn đến vụ án, bác sĩ Satten gợi ý rằng tuy tội ác có thể đã không xảy ra nếu không kể tới những tương tác qua lại có tính xung đột giữa hai thủ phạm, song thực chất nó là hành vi của Perry Smith, ông cảm thấy Smith tiêu biểu cho típ sát nhân đã được ông miêu tả trong bài báo “Giết người không có động cơ rõ rệt - Một nghiên cứu về sự rối loạn nhân cách”.
Đăng trên Nhật báo tâm thần học Mỹ (tháng Bảy, 1960) và viết cùng với ba đồng nghiệp, Karl Menninger, Irwin Rosen và Martin Mayman, bài báo nói rõ ngay từ đầu mục đích của nó: “Nỗ lực để quy mức trách nhiệm phạm tội của những kẻ giết người, pháp luật đã cố chia họ (như chia mọi tội phạm khác) thành hai nhóm, ‘lành trí’ và ‘mất trí’. Kẻ sát nhân ‘lành trí’ được cho là hành động với động cơ hợp lý mà ta có thể hiểu được - tuy bị lên án - còn những kẻ mất trí thì được cho là bị thúc đẩy bởi những động cơ bất hợp lý, vô nghĩa. Khi động cơ hợp lý dễ được nhận thấy (chẳng hạn, giết người vì lợi ích cá nhân) hay khi các động cơ hợp lý lại có những ảo tưởng huyễn hoặc đi kèm theo chúng (chẳng hạn, một bệnh nhân hoang tưởng giết người mà hắn tưởng tượng là kẻ đang hành hạ hắn) thì các nhà khoa học ít gặp phải vấn đề. Nhưng khi kẻ giết người có vẻ lý trí, tỉnh táo và có kiểm soát song hành vi sát nhân lại có tính chất kỳ quái, bề ngoài nom như vô nghĩa, thì tình hình lại đặt ra một bài toán khó, nếu như các bất đồng và các báo cáo trái nghịch nhau trước tòa về cùng một kẻ hành hung đó là một chỉ dẫn. Như vậy luận đề của chúng tôi là tâm bệnh của những kẻ sát nhân ít ra cũng hình thành nên ít nhất là một hội chứng đặc thù mà chúng tôi sẽ miêu tả dưới đây. Nói chung, những cá nhân này đều mang sẵn những khiếm khuyết nghiêm trọng trong việc tự kiểm soát bản thân, nó làm cho tính hung bạo nguyên sơ có thể bộc lộ công khai ra, nó nảy sinh từ những chấn thương tinh thần từ trước đó mà bây giờ nằm trong những trải nghiệm đau đớn, vô thức.”
Như một phần của quá trình kháng án, các tác giả đã khám bốn người bị án tù vì những vụ giết người xem vẻ như không có động cơ. Bốn người tù đã được khám trước khi mở tòa và đều “không mắc bệnh tâm thần”, đều “lành trí”. Ba người bị kết án tử hình, một người ngồi tù dài hạn. Ở mỗi trường hợp đều đã có yêu cầu mở cuộc điều tra tâm thần học sâu hơn bởi vì không bằng lòng với những giải thích tâm thần học được đưa ra trước đó, một ai đó - hoặc luật sư, một người họ hàng hoặc một người bạn - đã đặt câu hỏi: “Làm sao một người lành trí như người này lại có thể phạm phải một hành vi điên rồ như cái hành vi hắn ta làm để rồi bị xử tội?” Sau khi mô tả bốn tội phạm và các tội ác của họ (một lính da đen băm vằm và chặt cụt chân tay một gái điếm, một nông dân bóp cổ chết một cậu bé mười bốn tuổi vì cậu ta cự tuyệt lời gạ gẫm tình dục của hắn, một hạ sĩ quan đánh một cậu thiếu niên khác đến chết bằng dùi cui vì tưởng rằng cậu giễu cợt mình, và một nhân viên bệnh viện dìm đầu một bé gái lên chín xuống nước cho chết ngạt), các tác giả đã xem xét các vùng tương đồng của họ. Các tác giả viết rằng những người này bản thân cũng hoang mang không hiểu tại sao mình giết các nạn nhân kia, những người tương đối xa lạ với họ, trong mỗi trường hợp kẻ sát nhân đều cho thấy là đã bị sa vào một cơn nhập đồng có tính chất tách biệt cái Tôi ra, giống như trong mơ, rồi sau đó tỉnh lại để “thình lình phát hiện” thấy bản thân mình đang hành hung nạn nhân. “Phát hiện về tiểu sử giống nhau nhất, và có lẽ có ý nghĩa nhất là một tiền sử lâu ngày, có khi hết cả đời, về sự kiềm chế lúc có lúc không đổi với các dục lực hung hãn gây gổ. Chẳng hạn, ba người trong số đó suốt đời thường bị dính vào những cuộc đánh nhau không phải là những xích mích thông thường mà là những cuộc đánh nhau nếu không được ngăn cản thì sẽ trở thành vụ giết người thật sự.”
Ở đây, người ta trích một số lời nhận xét khác nữa có nêu trong bài nghiên cứu: “Mặc dù tính chất hung bạo của cuộc đời họ, tất cả những người này đều có những hình ảnh về bản thân giống nhau, đó là thể chất kém cỏi, yếu đuối, không thích nghi được với xã hội. Các bản tiểu sử cho thấy một mức độ ức chế tính dục nghiêm trọng ở mỗi người. Với cả bốn người đó, đàn bà đứng tuổi là những kẻ uy hiếp đe dọa, và ở hai trường hợp thì có những dấu hiệu rõ rệt về sự đồi bại tình dục. Tất cả họ đều bị khổ tâm suốt thời kỳ mới lớn bởi bị coi là ‘gái’, nhỏ bé về tầm vóc và ốm yếu... Trong cả bốn trường hợp, đều có bằng chứng tiền sử về những trạng thái hư tổn ý thức, trạng thái hư tổn ý thức này thường có quan hệ với các cơn hành hung bạo phát. Hai trong những người này báo cáo họ có những cơn nhập đồng thoát ly nghiêm trọng với thực tại, và khi lên cơn như vậy họ có cách ứng xử kỳ quái và hung bạo, còn hai người kia thì báo cáo đã có những thời kỳ quên lú kém nghiêm trọng hơn và có lẽ kém được tổ chức hơn. Trong những lúc hành hung thật sự, họ thường cảm thấy bị tách ra hoặc biệt lập với bản thân, tựa như họ đang đứng ngoài xem một ai đó vậy... Cũng quan sát thấy trong tiền sử của cả bốn trường hợp rằng, khi các đối tượng này còn nhỏ, thường xuyên xảy ra cảnh hung bạo cực độ giữa bố mẹ họ... Một người nói mỗi khi anh ta mà ‘lảng vảng lại gần là bị quất roi’... Một người thì bị nhiều trận đòn rất ác chỉ cốt để triệt cái tật nói lắp và cả những cơn ‘rồ’ cũng như để uốn nắn cái hạnh kiểm được cho là ‘xấu xa’ của anh ta. Tiền sử liên quan đến bạo lực cực độ, dù là do tưởng tượng ra, quan sát trong thực tế, hoặc do đứa trẻ này đã thực sự nếm trải, đều phù hợp với giả thiết phân tâm học cho rằng việc đứa trẻ buộc phải tiếp xúc với những kích thích quá mạnh, trước khi nó có khả năng kiểm soát được chúng, có liên hệ mật thiết với những khuyết tật ban đầu trong quá trình hình thành bản ngã và với những nhiễu loạn nghiêm trọng trong việc kiểm soát dục lực của đứa trẻ sau này. Trong cả bốn trường hợp đều thấy bằng chứng về sự thiếu thốn tình cảm nghiêm trọng trong những năm đầu đời. Sự thiếu thốn này có thể bao gồm việc vắng mặt kéo dài hay nay vắng mai không của bố hoặc mẹ hoặc của cả bố và mẹ, một cuộc sống gia đình hỗn loạn trong đó bố mẹ là xa lạ, đứa trẻ được người khác nuôi vì bị một hoặc cả bố và mẹ cự tuyệt thẳng cánh... Cũng thấy có bằng chứng rối loạn trong tổ chức xúc cảm. Điển hình nhất là những người này cho thấy xu hướng thường không giận dữ hay rồ dại một cách tương hợp với hành vi hung bạo. Không thấy báo cáo có cảm giác thịnh nộ gắn liền với các vụ giết người này, họ cũng không trải qua cơn giận dữ nào - dù là mãnh liệt hay lộ liễu - mặc dầu họ đều có thể làm chuyện gây gổ nghiêm trọng và thô bạo... Quan hệ của họ với người khác có tính chất nông cạn, lạnh nhạt, mang lại cho họ nỗi cô đơn và biệt lập. Với họ, người khác chẳng mấy khi là có thật, theo cái nghĩa là có thể cảm thấy được một cách ấm áp và tích cực (hoặc thậm chí một cách bực tức nữa)... Ba người bị án tử hình đều có những xúc cảm hời hợt đối với số phận của chính bản thân mình và số phận của nạn nhân. Thiếu đến mức kinh ngạc ý thức nhận tội, sự suy sụp và hối hận... Những cá nhân như vậy đều có thể được coi là mang sẵn thiên hướng sát nhân, theo cái nghĩa là hoặc đang mang quá tải năng lượng gây hấn hoặc hệ bảo vệ cái Tôi trong người đó bất ổn định, định kỳ cho phép cái năng lượng kia bộc lộ ra dưới dạng trần trụi và cổ lỗ. Tiềm năng giết người có thể chuyển thành hành động thực, nhất là nếu như đã có sẵn một vài sự mất cân bằng, khi mà trong vô thức, kẻ giết người nhận thấy nạn-nhân-tiềm-tàng kia như là nhân vật chủ chốt trong một sự kiện tổng thể gây tổn thương cho hắn ta trong quá khứ. Hành vi - hay thậm chí chỉ sự có mặt của nhân vật đó không thôi cũng đủ góp thêm một sức ép vào cái tương quan lực lượng vốn đã không ổn định này, và dẫn đến một sự phóng nổ cực độ của bạo lực đột ngột, giống như khi kim hỏa làm tóe lửa khói thuốc súng mà gây nổ vậy... Giả thuyết về động cơ vô thức giải thích được tại sao kẻ người lại cảm nhận những nạn nhân tương đối xa lạ và vô hại như là những kẻ khiêu khích và do đó hóa thành mục tiêu thích hợp cho sự gây hấn. Nhưng tại sao lại giết? May sao, phần lớn con người lại không thường hay đáp ứng lại những cơn bạo phát sát nhân cho dù đang phải chịu sự khiêu khích đến cùng cực. Trái lại, những trường hợp miêu tả trên đây thì đều mang sẵn những khiếm khuyết lớn trong sự tiếp xúc với thực tế, cùng với sự yếu kém cực độ trong việc kiểm soát dục lực, ở những thời kỳ căng thẳng hay phá hoại cao độ. Vào những lúc đó, một chỗ quen biết tình cờ hoặc thậm chí cả một người xa lạ nữa cũng dễ dàng bị mất đi ý nghĩa ‘đích thực’ của mình và dễ dàng bị gán cho một căn cước vốn dĩ nằm sẵn bên trong cái cấu trúc chấn thương vô thức đó. Xung đột ‘cố hữu’ thế là được làm cho sống lại và óc gây hấn nhanh chóng leo thang lên tới những kích thước sát nhân... Khi những án mạng vô nghĩa như thế xảy ra, chúng được coi là kết quả cuối cùng của một thời kỳ căng thẳng và sự phá hoại ngày một tăng nơi kẻ sát nhân, thời kỳ này bắt đầu từ trước lúc tiếp xúc với nạn nhân và cứ tăng dần lên không ngừng cho tới khi, do phù hợp với những xung đột vô thức của kẻ sát nhân, vô tình nạn nhân đã giúp cho tiềm năng sát nhân của hắn chuyển sang thành hành động.”
Vì có nhiều điểm tương đồng giữa hoàn cảnh xuất thân và nhân cách của Perry Smith với những đề tài nghiên cứu của mình, bác sĩ Satten cảm thấy yên tâm khi giao cho hắn một vị trí trong hàng ngũ đối tượng nghiên cứu của ông. Hơn thế, đối với ông, bối cảnh của vụ án xem chừng là phù hợp chính xác với khái niệm “giết người không có động cơ rõ rệt” do ông đưa ra. Rõ ràng ba vụ án mạng mà Smith gây ra xét về logic là có động cơ - Nancy, Kenyon và bà mẹ sở dĩ bị giết là vì ông Clutrer đã bị giết. Nhưng quan điểm của bác sĩ Satten là chỉ vụ án mạng đầu tiên mới có vấn đề về mặt tâm lý, và lúc tấn công ông Clutter, Smith đang trải qua cơn trầm uất tâm thần, nằm sâu trong một vùng tối tâm thần phân liệt, vì lúc đó hắn không phải “đột nhiên phát hiện ra” mình đang hủy diệt một người hoàn toàn bằng xương bằng thịt, mà là đang hủy diệt “một nhân vật chủ chốt nằm trong một hợp hình gây tổn thương từ quá khứ”: Bố hắn? Các nữ tu sĩ viện trẻ mồ côi đã nhạo báng và đánh đập hắn? Viên thượng sĩ quân đội mà hắn căm thù? Viên coi tù đã ra lệnh cho hắn “phải ở ngoài Kansas”? Một người trong số họ, hoặc tất cả họ.
Trong lời thú tội, Smith nói, “Tôi vốn không định làm hại ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy là người lịch sự, rất tử tế. Nói năng từ tốn. Tôi đã nghĩ như thế chính trong lúc tôi cắt cổ ông ấy.” Trong khi trò chuyện với Donald Cullivan, Smith nói, “Họ (nhà Clutter) chưa từng xúc phạm đến tôi bao giờ. Không như những kẻ khác. Những kẻ đã xúc phạm suốt cả đời tôi. Có lẽ vì thế mà nhà Clutter lại là những người phải trả giá cho việc đó chăng.”
Thế là hóa ra bằng những lối độc lập khác nhau, cả hai nhà phân tích chuyên nghiệp và nghiệp dư đều cùng đi tới những kết luận không phải là không giống nhau.
Giới quý tộc của hạt Finney đã làm cụt vòi cuộc xét xử. Vợ một chủ trại chăn nuôi giàu có tuyên bố: “Các ông bà ấy hình như không tò mò gì về chuyện đó hết.” Tuy vậy, đến phiên tòa cuối cũng đã thấy khá đầy đủ các vị tai to mặt lớn địa phương ngồi cùng với dân thường. Sự có mặt của họ là một cử chỉ xã giao đối với Thẩm phán Tate và Logan Green, hai thành viên được mến mộ ở chính thứ bậc của họ. Cũng thế, một đoàn lớn những luật gia ngoài thị trấn, nhiều người đã đi những chặng đường rất xa đến, ngồi đầy các hàng ghế dài: đặc biệt, họ tới để nghe tại chỗ bài nói cuối cùng của Green trước tòa. Green, một ông già bảy mươi nhỏ bé, cứng rắn một cách khéo léo, có tên tuổi áp đảo trong đám người bằng vai phải lứa, những kẻ hằng hâm mộ tài đóng kịch của ông - một vốn liếng năng khiếu biểu diễn bao gồm một cảm quan nhạy bén chớp thời cơ như một diễn viên hộp đêm. Một luật sư giàu kinh nghiệm về tội phạm, vai trò thông thường của ông là ở bên bị, nhưng trong trường hợp này chính quyền bang đã giữ ông làm một phụ tá đặc biệt cho Duane West, vì cảm thấy rằng viên chưởng lý hạt hãy còn trẻ tuổi quá, chưa đủ dạn dầy để xét xử vụ án mà không có sự ủng hộ của người lịch lãm.
Nhưng giống như phần lớn các ngôi sao, màn của Green là màn cuối cùng của chương trình. Những ý kiến tỉnh táo công minh mà Thẩm phán Tate truyền đạt tới bồi thẩm đoàn, màn đó xong thì mới đến lượt ông, theo như lời tóm tắt của ông chưởng lý hạt: “Có một mối nghi ngờ nào ở trong đầu các vị về tội của các bị cáo hay không? Không! Dù ai bóp cò khẩu súng của Richard Eugene Hickock đi nữa thì cả hai cũng đều là thủ phạm cả. Chỉ có mỗi một cách để bảo đảm cho những loại người đó không bao giờ còn la cà ở các thị trấn và thành phố của vùng đất này nữa. Chúng tôi đề nghị hình phạt cao nhất - tử hình. Chúng tôi đưa ra đề nghị này không phải vì muốn trả thù mà với tất cả sự khiêm nhường kém mọn...”
Rồi tòa nghe lời bào chữa của các luật sư bên bị. Bài nói của Fleming, được một nhà báo tả là “đạn mềm”, rút cục lại là một bài thuyết giáo nhẹ nhàng có tính chất nhà thờ: “Con người không phải là con vật. Hắn có một thân xác, và hắn có một linh hồn sống đời đời. Tôi không tin là con người lại có quyền hủy hoại ngôi nhà đó, một ngôi đền có linh hồn trú ngụ ở trong...” Tuy kêu gọi bồi thẩm đoàn nhớ đến điều mà ông nghĩ là tinh thần Cơ đốc giáo, Harrison Smith lại lấy những cái xấu của án tử hình ra làm chủ đề chính: “Nó là di sản của con người thời mông muội. Pháp luật bảo chúng ta rằng lấy đi một mạng người là sai, thế rồi nó lại vẫn cứ làm và nêu gương nó lên. Điều đó cũng tội lỗi chẳng kém gì cái tội ác mà chính nó đang trừng trị. Bang không có quyền ban hành án đó. Nó không có hiệu quả. Án đó không răn đe được tội ác mà chỉ làm rẻ mạng người đi và làm nảy sinh nhiều án mạng mới hơn. Chúng tôi chỉ xin một điều là sự khoan hồng. Chắc chắn án chung thân là một sự khoan hồng nhỏ có thể cầu xin được...” Chẳng ai quan tâm lời ông; một vị bồi thẩm, hình như bị đầu độc bởi bầu không khí bị đè nặng bởi hàng bao nhiêu cái ngáp, hậu quả của chứng cảm cúm mùa xuân, ngồi đó nhắm mắt lại, miệng há toang hoác đến nỗi lũ ong có thể vo ve ra vào như chơi được.
Green đánh thức họ dậy. “Thưa quý ngài,” ông nói vo, không giấy, “các ngài vừa nghe hai lời bào chữa nồng nhiệt xin khoan hồng cho các bị cáo. Tôi thấy hai vị luật sư đáng ngưỡng mộ đấy, ông Fleming và ông Smith, hình như đã may mắn là không có mặt tại nhà Clutter cái đêm định mệnh đó - rất may mắn cho hai ông đã không có mặt tại đó để cầu xin khoan hồng cho gia đình bất hạnh ấy. Vì rằng nếu hai ông có mặt thì, à, là giả dụ thế, thì sáng hôm sau chúng ta sẽ phải đếm nhiều hơn chứ không chỉ bốn xác thôi.”
Khi còn trẻ ở tại quê nhà, bang Kentucky, Green được gọi là Đốm Hồng, một biệt hiệu cho những tàn nhang trên mặt ông; bây giờ, khi đang ngạo nghễ đứng trước bồi thẩm đoàn, cơn hăng đói với nhiệm vụ được giao phó đang sưởi nóng ran mặt ông lên và làm nổi rõ những vệt hồng. “Tôi không có ý nhảy vào cuộc tranh luận thần học. Nhưng tôi đã dè trước luật sư bên bị sẽ dùng Kinh Thánh làm luận cứ chống lại án tử hình. Các ngài đã nghe dẫn Kinh Thánh đó. Nhưng tôi, tôi cũng có thể đọc Kinh Thánh ra được chứ.” Ông mớ một bản Kinh Cựu ước ra. “Và đấy là một vài điều trong cuốn Sách Hay về đề tài này. Chương Xuất hành Hai mươi, khổ thơ Mười ba, chúng ta có một trong Mười điều răn. ‘Mi không được giết người.’ Ở đây là nói đến việc giết người phi pháp. Dĩ nhiên là thế, vì trong chương sau, khổ thơ Mười hai, ta lại đọc thấy hình phạt về sự bất tuân lời răn đó: ‘Kẻ nào giết một người, khiến người đó chết, kẻ đó chắc chắn bị làm cho chết.’ Bây giờ, thưa ông Fleming, ông có tin rằng tất cả những cái đó đã bị việc đức Ki-tô xuất thế làm cho thay đổi đi không. Không, phải như vậy, vì đức Ki-tô nói, ‘Đừng nghĩ ta đến để phá hủy pháp luật hay những nhà tiên tri, ta đến không phải để phá hủy mà ta đến để hoàn tất.’ Và cuối cùng...” Green lóng ngóng tìm từ, rồi hình như tình cờ mà gập quyển Kinh Thánh lại, làm cho các vị chức sắc khách mời hợp pháp mỉm cười và huých khẽ nhau, vì đó là thủ đoạn có tự lâu đời của tòa án - vị luật sư trong khi đọc Thánh thư giả vờ như mình để mất chỗ trích dẫn nhưng rồi lại nói, như Green lúc này đang nói, “Không sao cả. Tôi có thể dẫn thuộc lòng được mà. Sáng Thế Chín, khổ Sáu: ‘Kẻ nào làm đổ máu người thì máu nó sẽ phải đổ bởi người khác’.”