Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi - Chương 22
21.
SÁP NẾN
Có những người kể chuyện ở xứ Mơ-màng-ngủ cho rằng tất cả chúng ta đều có một giọng nói nội tâm thầm thì mách bảo những điều cần làm, và chúng ta chỉ việc lắng nghe. Elsa chưa bao giờ tin vào điều đó, vì nó không thích ý tưởng có ai đó lên tiếng trong đầu mình, vả lại bà ngoại luôn bảo rằng chỉ có những nhà tâm lý học và những tên sát nhân mới có “giọng nói trong đầu”. Bà ngoại không thích tâm lý học. Mặc dù bà đã thử với người phụ nữ mặc váy đen.
Tuy vậy, bất chấp tất cả, Elsa vẫn nghe thấy một giọng nói trong đầu mình, rất rõ ràng. Nó không thì thào, mà hét toáng lên: “Chạy đi!” Và Elsa vắt chân lên cổ chạy. Với bóng tối bám theo phía sau.
Tất nhiên, Elsa chưa biết điều đó lúc nó bước chân vào trong nhà thờ. Tiếng rì rầm khe khẽ của hàng trăm người lạ mặt vọng lên đến tận trần, tựa như âm thanh phát ra từ một cái đài gắn xe hơi bị hỏng. Đám người lớn to đầu chỉ trỏ con bé và thì thầm. Đôi mắt họ làm nó ngột ngạt.
Elsa không biết họ là ai, và điều này làm nó cảm thấy như bị phản bội. Nó không muốn chia sẻ bà ngoại với người khác. Nó không muốn nhớ rằng bà ngoại là người bạn duy nhất của nó nhưng bản thân bà ngoại lại có hàng trăm người bạn khác.
Elsa tập trung hết cỡ vào việc bước thẳng lưng qua đám đông, nó không muốn họ thấy nó đang cảm thấy như sắp gục ngã bất cứ lúc nào và không còn sức lực để buồn bực thêm nữa. Mặt sàn nhà thờ hút lấy đôi bàn chân của con bé, cỗ quan tài trên kia thiêu đốt mắt nó.
Năng lực mạnh nhất của cái chết không phải là đưa người ta ra đi, mà là làm cho những người ở lại không muốn sống nữa, Elsa nghĩ trong đầu, không nhớ đã nghe điều đó từ đâu. Có lẽ là từ xứ Mơ-màng-ngủ, mặc dù chuyện này ít có khả năng nếu căn cứ theo những gì bà ngoại nghĩ về cái chết. Cái chết là kẻ thù của bà. Chính vì thế mà bà không bao giờ muốn nói về nó. Và đó cũng là lí do khiến bà trở thành một bác sĩ phẫu thuật. Để phá rối cái chết nhiều nhất có thể.
Nhưng cũng có thể nó đến từ Miploris, Elsa tự nhủ. Bà ngoại không bao giờ muốn ghé thăm vương quốc này khi hai bà cháu tới xứ Mơ-màng-ngủ, nhưng thỉnh thoảng bà vẫn phải làm thế vì Elsa nằn nì. Và đôi khi Elsa tự mình tới đó trong lúc bà ngoại ngồi tại một tửu quán của Miamas để chơi poker với một quỷ lùn hoặc phàn nàn về rượu với một thiên thần tuyết.
Miploris là vương quốc đẹp nhất trong tất cả các vương quốc của xứ Mơ-màng-ngủ. Ở đó cây cối cất tiếng hát, cỏ ve vuốt lòng bàn chân bạn, và không khí luôn có mùi bánh mì mới nướng. Những ngôi nhà đẹp đến mức để cho an toàn, bạn nên ngồi vững trước khi ngắm nhìn chúng. Nhưng không ai sống trong những ngôi nhà đó, chúng chỉ được sử dụng để làm kho lưu trữ. Bởi Miploris là nơi mọi sinh vật cổ tích mang nỗi buồn đến gửi lại. Đời đời kiếp kiếp.
Con người luôn nói rằng, khi một chuyện khủng khiếp xảy ra, nỗi buồn, sự mất mát và nỗi đau đớn trong tim sẽ “vơi dần theo thời gian”, nhưng sự thật không phải như vậy. Nỗi buồn và sự mất mát không thay đổi, nhưng nếu tất cả chúng ta phải mang chúng trong suốt phần đời còn lại, có lẽ chúng ta sẽ không thể chịu nổi. Nỗi buồn sẽ làm chúng ta tê liệt. Thế nên cứ lâu lâu người ta lại cất chúng vào túi và tìm đến nơi nào đó để gửi lại.
Miploris là nơi đó: một vương quốc để cho những người kể chuyện từ bốn phương kéo về, lôi theo những đống hành lí chật căng nỗi buồn. Một nơi mà người ta có thể trút bỏ gánh nặng và quay lại với cuộc sống. Khi trở về, những bước chân của họ nhẹ nhõm hơn hẳn, vì Miploris được xây dựng sao cho bạn luôn có mặt trời trước mặt và gió thổi sau lưng, bất luận bạn rời khỏi nó theo hướng nào.
Các cư dân của Miploris tập hợp tất cả những chiếc vali, túi và bị chứa nỗi buồn lại, rồi cẩn thận ghi chú tất cả. Họ cần mẫn sắp xếp các nỗi buồn vào những khu vực khác nhau và cất chúng vào hệ thống nhà kho, nơi chúng được tích trữ. Miploris rất ngăn nắp, họ có một hệ thống nhiều quy định và những khu vực cực kỳ rạch ròi dành cho mọi nỗi buồn. “Cái đám quan liêu chết tiệt” là từ mà bà ngoại dùng để gọi người Miploris, do tất cả chỗ biểu mẫu mà những người trút bỏ nỗi buồn ngày nay phải điền vào. Nhưng ta không thể chấp nhận sự bừa bãi khi đụng đến các nỗi buồn, người Miploris luôn nói như vậy.
Miploris từng là vương quốc nhỏ bé nhất của xứ Mơ-màng-ngủ, nhưng sau Cuộc-chiến-tranh-bất-tận, nó đã trở thành vương quốc rộng lớn nhất. Đó cũng là nguyên nhân khiến bà ngoại không đi tới Miploris, bởi lẽ rất nhiều nhà kho có ghi tên bà trên tấm biển trước cửa. Và ở Miploris, mọi người nói bằng giọng nội tâm, Elsa sực nhớ ra. Người Miploris tin rằng giọng nói nội tâm là của những người quá cố hiện về giúp đỡ người thân.
Bàn tay dịu dàng của bố đặt trên vai Elsa lôi nó trở về thực tại. Con bé nghe thấy bố thì thầm với mẹ: “Em thu xếp mọi thứ khéo lắm, Ulrika”. Nó thoáng nhìn thấy mẹ mỉm cười, hất đầu về phía tờ chương trình lễ nằm trên các băng ghế của nhà thờ rồi đáp lại: “Cảm ơn anh vì tờ chương trình. Kiểu chữ rất đẹp.”
Elsa ngồi xuống cuối băng ghế gỗ đầu tiên, mắt nhìn xuống sàn cho đến khi tiếng rì rầm lắng xuống. Nhà thờ đông người đến nỗi một số khách tham dự phải đứng dọc theo hai bên tường. Nhiều người trong số họ mặc những bộ quần áo rất kỳ cục, như thể vừa chơi cò quay quần áo với một người không thể đọc được các hướng dẫn giặt ủi trên trang phục.
Elsa sẽ cho “cò quay quần áo” vào hộp chữ, nó nghĩ thế. Nó cố gắng tập trung vào điều đó. Nhưng nó nghe thấy những ngôn ngữ mà mình không thể hiểu được, và nghe thấy tên mình được phát âm theo nhiều cách kỳ lạ. Chuyện đó lôi nó trở về thực tại. Elsa trông thấy những người xa lạ chỉ trỏ mình, với các mức độ kín đáo khác nhau. Con bé nhận ra họ đều biết nó là ai, chuyện này khiến nó giận đến nỗi khi liếc thấy một khuôn mặt quen thuộc ở cạnh một bức tường, lúc đầu nó gặp khá nhiều vất vả trong việc định vị ông ta. Giống như khi bạn nhìn thấy một nhân vật nổi tiếng trong một quán cà phê, bộ não của bạn mách nhỏ: “Này, đó là một người bạn quen, chào người ta đi”, và bạn bất giác buột miệng: “Ô, chào anh!” trước khi bộ não nói thêm: “Mà khoan đã, đó chỉ là một người bạn từng thấy trên truyền hình thôi.” Bởi vì bộ não của bạn rất thích biến bạn thành một kẻ ngốc nghếch.
Khuôn mặt ông ta khuất sau một cái vai trong chốc lát, nhưng khi xuất hiện trở lại, đôi mắt ông ta chiếu thẳng vào Elsa. Đó chính là người kế toán viên đã đến chung cư ngày hôm qua. Nhưng lúc này ông ta đang ăn mặc như một cha xứ. Ông ta nháy mắt với con bé.
Một cha xứ khác bắt đầu nói về bà ngoại, rồi về Chúa, nhưng Elsa không buồn lắng nghe. Nó tự hỏi liệu đây có phải là điều mà bà ngoại mong muốn hay không. Nó không nghĩ bà ngoại thích nhà thờ nhiều lắm. Hai bà cháu gần như không bao giờ nói chuyện về Chúa, vì bà ngoại gắn Chúa với cái chết.
Và chuyện này thật giả tạo. Như thể mọi thứ sẽ ổn vì họ đang cử hành tang lễ. Mọi thứ sẽ không ổn với Elsa, con bé thừa biết điều đó. Nó toát mồ hôi lạnh. Một số người lạ mặt trong những bộ trang phục kỳ dị bước đến chỗ chiếc micro và phát biểu. Vài người trong số họ nói bằng tiếng ngoại quốc và được một phụ nữ nhỏ người phiên dịch vào một micro khác. Nhưng không ai dùng chữ “chết”. Mọi người chỉ nói là bà ngoại “ra đi”, hoặc họ đã “mất bà”. Như thể bà là một chiếc vớ bị lạc mất trong máy sấy quần áo. Vài người trong số họ bật khóc, nhưng Elsa không nghĩ họ có quyền, vì bà ngoại không phải là bà của họ, và họ không có quyền làm cho Elsa cảm thấy như thể bà ngoại có những vương quốc, những đất nước khác, những chỗ mà nó chưa từng được đưa tới.
Thế nên, khi một phụ nữ mập mạp có mái tóc giống như vừa từ trong lò nướng bánh chui ra bắt đầu đọc thơ, Elsa cảm thấy thế là đủ và lách qua hàng ghế để ra ngoài. Con bé nghe thấy mẹ thì thào gì đó sau lưng, nhưng nó cứ tiếp tục lê bước trên mặt sàn đá bóng loáng và ra khỏi nhà thờ, trước khi những người khác có thời gian để đuổi theo.
Không khí mùa đông ập vào Elsa, cho cảm giác giống như nó vừa bị nắm tóc lôi ra khỏi một bồn tắm nước nóng. Những con vân thú đang bay là là trông thật đáng ngại. Elsa bước đi chậm rãi và hít thở làn không khí tháng Mười hai, với những hơi thở sâu đến nỗi làm mắt nó tối sầm lại. Nó nghĩ đến Storm. Storm luôn là một trong những siêu anh hùng ưa thích của Elsa, vì cô có khả năng thay đổi thời tiết. Ngay cả bà ngoại cũng từng thừa nhận đó là một siêu năng lực rất hay ho.
Elsa thầm mong Storm sẽ xuất hiện và thổi bay toàn bộ cái nhà thờ chết tiệt này. Toàn bộ cái nghĩa trang chết tiệt này. Toàn bộ mọi thứ.
Những khuôn mặt mà Elsa thấy trong nhà thờ quay vòng vòng trong đầu nó. Có thực là nó đã trông thấy người kế toán viên hay không? Có phải ông Alf đứng trong đó không? Nó nghĩ là có. Nó còn trông thấy một khuôn mặt quen thuộc khác, người nữ cảnh sát có đôi mắt xanh lục. Elsa rảo bước ra xa khỏi nhà thờ, vì nó không muốn bất kỳ ai trong số họ đuổi theo và hỏi han xem nó có ổn hay không. Nó không ổn. Tất cả chuyện này không ổn. Nó không muốn nghe tiếng rì rầm của họ, không muốn nhận rằng họ đang nói về nó. Kể về nó. Sau lưng nó. Bà ngoại không bao giờ nói sau lưng nó.
Elsa đi được khoảng năm mươi mét giữa những hàng bia mộ thì bắt gặp một mùi khói thuốc. Thoạt đầu có một thứ gì đó rất đỗi quen thuộc trong đó, một thứ có tính xoa dịu. Một thứ mà Elsa chỉ muốn vùi mũi vào, giống như chiếc gối mới giặt của một buổi sáng Chủ nhật. Nhưng còn có một thứ gì khác.
Và giọng nói bên trong Elsa vang lên.
Con bé biết nơi người đàn ông đó đứng giữa những tấm bia mộ trước cả khi quay người lại. Hắn ta đứng cách nó có vài mét. Hắn thong thả cầm điếu thuốc lá bằng những đầu ngón tay. Chỗ này quá xa nhà thờ nên sẽ không có ai nghe thấy tiếng hét của Elsa, và bằng những cử chỉ bình thản lạnh lùng, hắn đã chặn đường quay lại của nó.
Elsa liếc qua vai mình về phía cổng ra của nhà thờ. Hai chục mét. Khi nó quay lại, người đàn ông đã tiến một bước dài về phía nó.
Và giọng nói trong đầu Elsa vang lên. Giọng của bà ngoại. Giọng nói không thủ thỉ, mà hét lên.
Chạy đi.
Elsa cảm thấy bàn tay ram ráp của người đàn ông túm lấy cánh tay mình, nhưng nó vùng ra. Nó chạy cho đến khi những cơn gió quất vào mắt mình như những cái móng tay vào cào lớp kính chắn gió đọng sương. Elsa không biết mình đã chạy bao lâu. Vài đời, nhưng không phải cổ tích, mà là đời thực. Khi ký ức về đôi mắt và điếu thuốc lá của người đàn ông đọng lại trong đầu nó, khi từng hơi thở tựa như cú đấm trong buồng phổi nó, Elsa mới nhận ra hắn ta đi khập khiễng. Nhờ vậy mà nó chạy thoát, chỉ chần chờ một giây thôi là hắn đã tóm được váy nó, nhưng Elsa chạy rất giỏi. Quá giỏi là đằng khác. Nó chạy cho đến khi không còn dám chắc mắt mình chảy nước do gió lạnh hay do nỗi đau. Nó chạy cho đến khi nhận ra mình đã gần tới trường.
Elsa giảm tốc độ. Nó nhìn quanh. Ngập ngừng. Rồi nó lao sang phải, vào trong công viên tăm tối ở bên kia đường, lớp vải váy tung bay quanh nó. Ngay cả những cái cây trông cũng giống như kẻ thù. Mặt trời dường như không đủ sức để chiếu sáng xuống dưới này. Con bé nghe thấy những giọng nói rời rạc, tiếng cơn gió gào thét qua đám cành cây, tiếng rầm rì của dòng xe cộ lưu thông phía xa, rất xa. Mệt đứt hơi và tức giận, nó loạng choạng hướng về phía sâu trong công viên. Nó nghe thấy nhiều giọng nói. Một trong số đó gọi với theo nó: “Này! Cô bé!”
Elsa dừng lại, mệt rũ. Nó buông người xuống một băng ghế, và nghe thấy giọng nói đã gọi “cô bé” đang tiến đến gần. Nó hiểu điều này đồng nghĩa với nguy hiểm. Công viên dường như đang trườn vào bên dưới một tấm mền. Elsa nghe thấy một giọng nói khác, líu ríu và vấp váp như thể xỏ nhầm giày. Cả hai giọng nói dường như tăng tốc khi tiến đến chỗ nó. Nhận ra nguy hiểm, Elsa bật dậy và bỏ chạy. Hai giọng nói bám theo. Đột nhiên nó nhận ra trong tuyệt vọng rằng ánh sáng mùa đông làm cho mọi thứ trong công viên trở nên giống nhau, và nó không biết lối ra. Trời ơi, một đứa bé bảy tuổi xem tivi nhiều như nó sao lại có thể ngu ngốc đến thế? Đây là điều khiến cho người ta xuất hiện trên các vỏ hộp sữa, hoặc những phương tiện truyền thông có trời mới biết được sử dụng để loan báo về những đứa trẻ mất tích.
Nhưng đã quá muộn. Elsa chạy giữa hai hàng cây rậm rạp, với cảm giác như tim mình đang vọt lên tận cổ. Nó không biết lí do nào đã khiến mình lao vào công viên này. Không một người bình thường nào tự nguyện dẫn xác vào đây, vì đám nghiện hút sẽ tóm cổ họ, như lời đồn đại của mọi người ở trường. Có lẽ đó chính là lí do, Elsa nghĩ bụng. Có lẽ nó muốn ai đó tóm lấy mình và kết liễu đời mình.
Năng lực mạnh nhất của cái chết không phải là đưa người ta ra đi, mà là làm cho những người ở lại không muốn sống nữa.
Elsa không bao giờ nghe thấy tiếng cành cây gãy trong bụi rậm. Không bao giờ nghe thấy tiếng lớp băng kêu răng rắc. Nhưng trong tích tắc, những giọng nói líu ríu phía sau lưng nó bỗng biến mất. Màng nhĩ của Elsa ù đặc cho đến khi nó chỉ muốn hét lên. Và rồi mọi thứ rơi vào im lặng. Thật chậm rãi, nó được nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Đôi mắt nó nhắm lại. Chúng chỉ mở ra khi nó đã được mang ra khỏi công viên.
Tim Sói đang cúi nhìn nó. Nằm trong vòng tay ông ta, Elsa nhìn đáp lại. Nhận thức của nó dường như trôi đi đâu mất. Nếu không phải vì một phần trong con bé nhận ra trên đời này sẽ không có đủ túi giấy để Tim Sói thở vào nếu nó nhỏ dãi vào ông ta trong lúc ngủ, chắc nó đã ngủ ngay tại chỗ. Thế nên Elsa cố gắng giữ cho mình tỉnh táo, và xét cho cùng, ngủ luôn bây giờ cũng hơi bất lịch sư, nhất là khi ông ta vừa mới cứu mạng nó. Một lần nữa.
- Không chạy một mình. Không bao giờ chạy một mình. - Tim Sói cằn nhằn.
Elsa vẫn còn chưa dám chắc liệu mình có muốn được cứu hay không, mặc dù nó thấy vui khi gặp ông ta. Vui hơn nó tưởng, thật sự là thế. Nó cứ nghĩ mình sẽ giận ông ta nhiều hơn.
- Nơi nguy hiểm. - Tim Sói gầm gừ, hất hàm về phía công viên, và bắt đầu đặt con bé xuống đất.
- Tôi biết rồi. - Elsa lẩm bẩm.
- Không bao giờ nữa! - Ông ta ra lệnh, và Elsa có thể nghe thấy sự lo sợ trong đó.
Con bé vòng tay quanh cổ Tim Sói và thì thầm nói lời cảm ơn bằng mật ngữ trước khi ông ta có thể đứng thẳng người lại. Rồi nó nhận ra việc đó làm ông ta không thoải mái như thế nào và lập tức buông ra.
- Tôi đã rửa tay rất kỹ, sáng nay tôi đã tắm cực lâu! - Nó thì thào.
Tim Sói không đáp, nhưng Elsa có thể đọc được trong mắt ông ta rằng một khi đã về đến nhà, ông ta sẽ trút hàng đống gel sát khuẩn lên người.
Elsa nhìn quanh. Tim Sói xoa hai tay vào nhau và lắc đầu.
- Đi rồi. - Ông ta nói với giọng dịu dàng.
Elsa gật đầu.
- Làm sao ông biết tôi ở trong đó?
Ánh mắt Tim Sói hướng xuống lớp nhựa đường.
- Canh chừng. Bà ngoại của cháu bảo... canh chừng cháu.
Elsa gật đầu.
- Ngay cả khi tôi không biết ông đang ở gần mình?
Cái mũ trùm đầu của Tim Sói di chuyển lên xuống.
Elsa cảm thấy như đôi chân mình sắp khuỵu xuống.
- Tại sao ông biến mất? - Elsa thì thầm với giọng buộc tội. - Tại sao ông bỏ lại tôi với cái kẻ trị liệu kinh khủng đó?
Khuôn mặt Tim Sói biến vào trong chiếc mũ trùm.
- Cô ta muốn nói chuyện. Luôn luôn nói chuyện. Về chiến tranh. Luôn luôn. Tôi... không muốn.
- Biết đâu ông sẽ nhẹ nhõm hơn nếu nói ra?
Tim Sói im lặng xoa tay. Ông ta quan sát con đường như thể chờ đợi trông thấy một thứ gì đó.
Elsa vòng tay ôm quanh người mình và nhận ra nó đã bỏ cả áo khoác lẫn chiếc khăn quàng Gryffindor ở nhà thờ.
Ai lại có thể làm điều đó với một chiếc khăn quàng Gryffindor cơ chứ?
Con bé cũng nhìn tới nhìn lui con đường, tìm kiếm một thứ mà nó chẳng biết là gì. Rồi nó cảm thấy có gì đó lướt qua vai mình, và khi quay lại nó nhận ra Tim Sói đã lấy áo choàng của ông ta quấn quanh người nó. Chiếc áo dài quét đất và có mùi thuốc tẩy. Đây là lần đầu tiên con bé nhìn thấy Tim Sói không có mũ trùm đầu. Lạ lùng thay, trông ông ta càng to lớn. Mái tóc dài và bộ râu đen của ông ta cuộn bay trong gió.
- Ông đã nói “Miamas” có nghĩa là “Tôi yêu” trong tiếng mẹ đẻ của ông, đúng không? - Elsa hỏi, cố không nhìn thẳng vào vết sẹo của Tim Sói, vì nó có thể thấy ông ta càng chà xát hai tay nhiều hơn mỗi khi nó làm thế.
Tim Sói gật đầu trong lúc vẫn quan sát con đường.
- Thế “Miploris” có nghĩa là gì? - Elsa hỏi.
Khi Tim Sói không trả lời, Elsa đoán là ông ta không hiểu câu hỏi và giải thích thêm:
- Một trong sáu vương quốc ở xứ Mơ-màng-ngủ có tên là Miploris. Đó là nơi mọi nỗi buồn được lưu trữ. Bà ngoại không bao giờ muốn...
Tim Sói ngắt lời con bé, một cách nhẹ nhàng.
- Tôi than khóc.
Elsa gật đầu.
- Còn Mirevas?
- Tôi mơ.
- Còn Miaudacas?
- Tôi dám.
- Còn Mimovas?
- Nhảy. Tôi nhảy.
Elsa để cho những từ ngữ đó chạm vào sâu thẳm trong lòng mình trước khi hỏi về vương quốc cuối cùng. Con bé nghĩ tới những điều bà ngoại luôn nói về Tim Sói, rằng ông ta là chiến binh vô địch đã đánh bại bọn bóng tối, và chỉ có ông ta mới làm được điều đó, bởi vì ông ta có trái tim của một chiến binh và tâm hồn của một người kể chuyện. Bởi vì Tim Sói sinh ra tại Miamas, nhưng lớn lên tại Mibatalos.
- Mibatalos có nghĩa là gì? - Con bé hỏi.
Ông ta nhìn thẳng vào Elsa khi nó hỏi câu đó. Với đôi mắt đen mở to, chất chứa tất cả những thứ được lưu giữ tại Miploris.
- Mibatalos... Tôi chiến đấu. Mibatalos... mất rồi. Không còn Mibatalos nữa.
- Tôi biết. Bóng tối đã phá hủy nó trong Cuộc-chiến-tranh-bất-tận, và tất cả các cư dân ở đó đều đã chết ngoại trừ ông, vì ông là người Mibatalos cuối cùng và...
Elsa không thể nói hết câu vì Tim Sói chà xát hai bàn tay mạnh đến nỗi nó phải ngưng lại.
Mái tóc lòa xòa che mặt Tim Sói. Ông ta lui lại một bước.
- Mibatalos không tồn tại. Tôi không chiến đấu. Không bao giờ nữa.
Và Elsa hiểu, theo cách mà người ta luôn hiểu khi đọc được trong đôi mắt của những người nói ra những lời lẽ như thế, rằng ông ta đã không ẩn mình trong khu rừng sâu tại xứ Mơ-màng-ngủ vì sợ bóng tối, mà bởi vì ông ta sợ bản thân mình. Sợ thứ mà người ta đã biến ông ta trở thành tại Mibatalos.
Đôi mắt Tim Sói hướng ra phía sau Elsa, và con bé nghe thấy giọng của ông Alf. Khi nó quay lại, chiếc Taxi đã đậu lại bên vệ đường, máy vẫn nổ. Đôi giày của ông Alf lê bước trên tuyết. Người nữ cảnh sát đứng lại bên cạnh Taxi, đôi mắt nhanh chóng quét qua công viên. Khi Alf bế Elsa lên trong tấm áo choàng to như cái túi ngủ, ông nói với giọng điềm tĩnh:
- Chúng ta về nhà thôi, cháu không thể ở ngoài này cho đến khi lạnh cóng được!
Nhưng trong giọng nói của ông, Elsa nghe thấy sự lo sợ, nỗi sợ của một người biết thứ gì đã đuổi theo con bé ở nghĩa trang nhà thờ, và qua ánh mắt cảnh giác của người cảnh sát, nó nhận ra cô ta cũng biết. Họ biết nhiều hơn những gì họ để lộ ra.
Elsa không ngoái nhìn khi ông Alf đưa nó ra Taxi.
Nó biết Tim Sói đã đi rồi. Và khi nó ùa vào vòng tay mẹ ở nhà thờ, nó cũng nhận ra mẹ biết nhiều hơn những gì mẹ cho thấy. Mẹ luôn biết nhiều hơn.
Elsa nghĩ đến câu chuyện về anh em Tim sư tử. Về con rồng Katla mà không người nào có thể chiến thắng được. Cũng như về mãng xà Karm, kẻ duy nhất có thể tiêu diệt Katla. Bởi lẽ trong những câu chuyện cổ tích, thứ duy nhất có thể đánh bại một con rồng khủng khiếp là một sinh vật còn khủng khiếp hơn.
Một quái vật.
22.
O’BOY
Elsa đã từng bị truy đuổi hàng trăm lần trước đó, nhưng chưa bao giờ giống như tại nghĩa trang nhà thờ. Và nỗi sợ mà nó đang cảm thấy lúc này cũng khác. Bởi nó đã kịp nhìn thấy đôi mắt của hắn ngay trước khi bỏ chạy. Chúng rất quyết đoán, rất lạnh lùng, như thể hắn đã sẵn sàng để kết liễu nó. Như thế là quá nhiều đối với một đứa trẻ gần tám tuổi như nó.
Elsa từng cố gắng không hoảng sợ hồi bà ngoại còn sống. Hay ít ra là cố gắng không tỏ ra hoảng sợ. Vì bà ngoại ghét bọn hoảng sợ. Ở xứ Mơ-màng-ngủ, hoảng sợ là những sinh vật nhỏ, hung hăng, có bộ lông xù xì trông rất giống với một túm xơ vải màu xanh trong máy sấy quần áo. Nếu bạn cho chúng một cơ hội dù là nhỏ nhất, chúng sẽ nhảy lên, gặm vào da bạn và cố cào mắt bạn. Hoảng sợ cũng giống như thuốc lá vậy, bà ngoại từng nói như thế. Cái khó không phải là ngừng lại, mà là không bắt đầu.
Chính con Vội Vã đã mang bọn hoảng sợ đến xứ Mơ-màng-ngủ, trong một câu chuyện cổ tích khác của bà ngoại, cách nay nhiều đời cổ tích hơn những con số mà bất kỳ ai có thể đếm được. Lâu đến nỗi thời đó chỉ có năm vương quốc, thay vì sáu.
Vội Vã là một quái vật tiền sử, nó luôn muốn mọi thứ diễn ra ngay tắp lự. Mỗi khi một đứa trẻ nói “lát nữa”, hoặc “để sau” hoặc "con sẽ...”, Vội Vã sẽ gầm lên giận dữ: “Khô-ô-ông! NÓ PHẢI ĐƯỢC LÀM NGAY LẬP TỨC!” Vội Vã ghét bọn trẻ con vì chúng không tin vào lời nói dối của nó, theo đó thời gian có tính tuyến tính. Bọn trẻ biết thời gian chỉ là một sự cảm nhận, nên “ngay lập tức” chẳng có nghĩa lý gì đối với chúng, cũng như với bà ngoại. Dượng George từng nói rằng bà ngoại không phải là một người lạc quan về thời gian, mà là một người vô thần về thời gian, và tôn giáo duy nhất mà bà tin vào là Phật Giáo Mật Tông.
Vội Vã đã đưa bọn hoảng sợ đến xứ Mơ-màng-ngủ để bắt trẻ con, bởi khi nó tóm được một đứa trẻ, nó sẽ nuốt chửng tương lai của nạn nhân, và bỏ mặc đứa bé nằm đó, đối diện với cả một cuộc đời chỉ có ăn, ngủ rồi dọn dẹp ngay lập tức. Đứa trẻ sẽ không bao giờ có thể tạm gác lại những thứ nhàm chán để làm những chuyện vui vẻ trước. Tất cả những gì còn lại với nó là hiện tại. Một số mệnh tồi tệ hơn cái chết rất nhiều, bà ngoại luôn nói như thế, thế nên câu chuyện về con Vội Vã bắt đầu với chi tiết là nó rất ghét truyện cổ tích. Bởi không gì sánh bằng truyện cổ tích trong việc làm cho một đứa trẻ tạm gác lại những việc khác. Do vậy, một đêm nọ, con Vội Vã đã trườn lên núi cổ tích, ngọn núi cao nhất của xứ Mơ-màng-ngủ, và gây ra một vụ trượt đất kinh hoàng, phá hủy toàn bộ đỉnh núi. Sau đó, nó nằm đợi trong một cái hang tối. Núi Cổ tích là nơi bầy tiểu tiên phải leo lên để thả các câu chuyện cổ tích sang thế giới thực, nếu các câu chuyện không thể rời ngọn núi, toàn bộ vương quốc Miamas sẽ bị chết ngạt. Bởi lẽ không có câu chuyện nào có thể sống được khi không có những đứa trẻ lắng nghe chúng.
Khi bình minh ló dạng, tất cả những chiến binh quả cảm nhất của Mibatalos cố gắng trèo lên núi để đánh bại con Vội Vã, nhưng không ai thành công. Bởi vì con quái vật đã đẻ ra những con hoảng sợ trong hang. Lũ hoảng sợ cần phải được xử lý một cách cẩn thận, do các mối đe dọa sẽ chỉ làm chúng to lớn thêm ra. Bởi thế, mỗi khi một ông bố bà mẹ ở đâu đó đe dọa một đứa trẻ, hành động đó có tác dụng như một chất kính thích tăng trưởng. Nếu một đứa trẻ ở đâu đó nói: “Lát nữa ạ,” và một người bố hoặc mẹ gào lên: “Không, ngay lập tức! Nếu không...” thì bùm một tiếng, một con hoảng sợ khác nở ra ở một trong những hang sâu của Vội Vã.
Khi các chiến binh đến từ Mibatalos trèo lên núi, con Vội Vã thả bầy hoảng sợ ra, và chúng tức thì biến thành những cơn ác mộng tồi tệ nhất của bọn họ. Bởi lẽ, mọi sinh vật đều có một nỗi sợ ghê gớm, các chiến binh của Mibatalos cũng vậy. Khí quyển của xứ Mơ-màng-ngủ dần dần mỏng đi. Những người kể chuyện càng lúc càng cảm thấy khó thở hơn.
Dĩ nhiên Elsa luôn ngắt lời bà ngoại ở đây để nói với bà rằng chi tiết lũ hoảng sợ biến thành điều mà người ta sợ hãi nhất rõ ràng được chôm chỉa từ Harry Potter, vì đó chính là cách ông Kẹ dọa nạt người ta. Bà ngoại chỉ khinh khỉnh đáp: “Biết đâu chính cái cậu Harry ngớ ngẩn đó mới là người ăn cắp ý tưởng của bà thì sao?” Và Elsa sẽ vặc lại: “Harry Potter không ăn cắp!” Sau đó, hai bà cháu sẽ tranh cãi một hồi lâu về chuyện đó, để rồi cuối cùng bà ngoại bỏ cuộc và lẩm bẩm: “Được thôi! Vậy thì quên toàn bộ chuyện đó đi! Lũ hoảng sợ không biến hình, chúng chỉ cắn cổ và cào vào mắt người ta, như vậy cháu HÀI LÒNG chưa?” Elsa chấp nhận và hai bà cháu tiếp tục câu chuyện.
Lúc ấy, hai hiệp sĩ mặc giáp vàng xuất hiện. Mọi người cố can ngăn không để họ cưỡi ngựa lên núi, nhưng dĩ nhiên là họ không nghe. Các hiệp sĩ rất là cứng đầu, mà như thế lại hay. Nhưng khi họ lên núi và toàn bộ lũ hoảng sợ ùa ra khỏi hang, hai hiệp sĩ không đánh lại. Họ không la hét, chửi rủa như những chiến binh khác. Thay vào đó, họ làm điều duy nhất mà người ta có thể làm để đối phó với lũ hoảng sợ: họ cười vào chúng. Cười lớn và thách thức. Thế là lũ hoảng sợ lần lượt hóa đá, từng con, từng con một.
Bà ngoại rất thích kết thúc các câu chuyện cổ tích với màn hóa đá, vì dứt điểm luôn là khâu mà bà kém nhất. Nhưng Elsa không bao giờ phàn nàn. Con Vội Vã dĩ nhiên đã bị tống giam vô hạn định, điều đó làm nó cực kỳ giận dữ. Và hội đồng pháp lý của xứ Mơ-màng-ngủ đã quyết định thành lập một nhóm nhỏ gồm đại diện của từng vương quốc, từ các chiến binh của Mibatalos, thợ bắt mộng của Mirevas, người thủ sầu từ Miploris, nhạc công của Mimovas cho đến những người kể chuyện của Miamas. Nhóm người này nhận nhiệm vụ canh gác núi Cổ Tích. Những tảng đá do lũ hoảng sợ hóa thành được sử dụng để xây lại một đỉnh núi cao hơn bao giờ hết, và ở chân núi, vương quốc thứ sáu được dựng lên: Miaudacas. Trên các cánh đồng của Miaudacas, quả cảm được gieo trồng để không ai phải e ngại lũ hoảng sợ nữa.
Ờ thì, đó là điều mà họ vẫn làm, như bà ngoại từng kể với Elsa, họ đã thu hoạch hết số quả cảm và chế thành một loại thức uống đặc biệt mà nếu uống vào, người ta sẽ trở nên vô cùng can đảm. Elsa bèn tra cứu trên Google và chỉ ra rằng phép ẩn dụ mà bà ngoại sử dụng không phù hợp để nói với trẻ con. Bà ngoại đành rên rỉ chấp nhận: “Thôi được rồi, quả cảm cứ thế mà hiện diện thôi, họ không uống nó, cháu hài lòng chưa?” Đó là toàn bộ câu chuyện về hai hiệp sĩ mặc giáp vàng đánh bại lũ hoảng sợ. Bà ngoại kể nó mỗi khi Elsa e sợ bất kỳ cái gì, và mặc dù con bé là một người nghe khó tính, câu chuyện luôn phát huy hiệu quả của nó. Sau đó Elsa không còn hoảng sợ nữa.
Thứ duy nhất mà câu chuyện không tác động được là nỗi sợ chết của bà ngoại. Và giờ thì nó cũng không có hiệu quả với Elsa. Vì ngay cả các câu chuyện cổ tích cũng không đánh bại được bóng tối.
- Con có sợ không? Mẹ hỏi Elsa.
- Có ạ. - Elsa thừa nhận.
Mẹ không bảo Elsa đừng sợ, cũng không cố làm cho nó tin rằng nó không nên sợ. Elsa yêu mẹ vì điều đó.
Mẹ và Elsa đã ngả hết lưng ghế của chiếc Renault ra phía sau. Con linh sói choán hết toàn bộ không gian giữa hai mẹ con. Mẹ lơ đãng gãi bộ lông của con thú. Mẹ thậm chí không nổi giận khi Elsa thú nhận mình đã giấu linh sói ở trong buồng kho. Và mẹ cũng không sợ khi Elsa đưa con thú ra. Mẹ chỉ gãi gãi sau tai nó như thể nó là một con mèo con.
Elsa vươn tay ra chạm vào bụng mẹ và cảm thấy Một nửa đều đặn đạp chân bên trong. Em cũng không sợ. Vì Một nửa giống mẹ và dượng George, trong khi Elsa giống bố nửa phần, mà bố thì sợ đủ thứ. Thế nên Elsa sợ khoảng năm mươi phần trăm các thứ.
Nhưng sợ nhất vẫn là bóng tối.
- Mẹ có biết hắn ta là ai không? Kẻ đã đuổi theo con ấy? - Con bé hỏi.
Linh sói ngả đầu vào Elsa. Mẹ dịu dàng vuốt má con bé.
- Có. Bọn mẹ biết.
- Bọn mẹ là những ai?
Mẹ hít một hơi thật sâu.
- Ông Lennart, bà Maud, ông Alf. Cả mẹ nữa.
Elsa tưởng mẹ sẽ kể thêm vài cái tên nữa, nhưng mẹ dừng lại ở đó.
- Ông Lennart và bà Maud á? - Con bé vọt miệng. Mẹ gật đầu.
- Mẹ e rằng họ là người biết anh ta rõ nhất.
- Thế tại sao mẹ không bao giờ kể cho con nghe về hắn ta? - Elsa hỏi.
- Mẹ không muốn làm con hoảng sợ.
- Nhưng con vẫn sợ đấy thôi?
Mẹ thở dài, tay gãi gãi lớp lông của linh sói. Con thú liếm mặt Elsa. Nó vẫn có mùi bột bánh bông lan. Thật khó mà giận dữ khi ai đó thơm mùi bột bánh bông lan liếm láp mặt bạn.
- Đó là một bóng tối. - Elsa thì thào.
- Mẹ biết.
- Thật ạ?
- Bà ngoại của con cũng đã từng cố gắng kể chuyện cho mẹ nghe, cưng à. Về xứ Mơ-màng-ngủ và bọn bóng tối.
- Về cả Miamas nữa? - Elsa hỏi.
Mẹ lắc đầu.
- Không. Mẹ biết hai bà cháu chia sẻ nhiều thứ mà bà không bao giờ chia sẻ với mẹ. Với lại, chuyện đã lâu lắm rồi. Hồi đó mẹ cỡ tuổi con bây giờ. Xứ Mơ-màng-ngủ còn rất nhỏ. Các vương quốc cũng chưa có tên.
Elsa sốt ruột cắt ngang:
- Con biết tại sao! Chúng được đặt tên sau khi bà ngoại gặp Tim Sói, bà dùng ngôn ngữ mẹ đẻ của ông ta để đặt tên cho các thứ. Bà cũng chế ra mật ngữ từ ngôn ngữ đó, để ông ta dạy bà, và để bà có thể trò chuyện với ông ta. Nhưng tại sao bà ngoại không đưa mẹ theo cùng? Tại sao bà ngoại không cho mẹ thấy phần còn lại của xứ Mơ-màng-ngủ?
Mẹ cắn môi.
- Bà muốn lắm chứ, cưng à. Nhưng mẹ không muốn đi.
- Tại sao?
- Vì mẹ đã lớn. Mẹ là một thiếu nữ nóng nảy, và mẹ không muốn nghe kể chuyện cổ tích qua điện thoại nữa. Mẹ muốn được có mẹ ở nhà. Mẹ muốn có mẹ bằng xương bằng thịt kia.
Elsa gần như chưa bao giờ nghe mẹ gọi bà ngoại là mẹ .
- Mẹ cũng không phải là một đứa trẻ dễ bảo, cưng à. Mẹ cãi bà nhiều lắm. Mẹ khước từ mọi thứ. Bà ngoại của con gọi mẹ là “cô gái luôn nói không”.
Đôi mắt Elsa mở to. Mẹ thở dài và mỉm cười cùng một lúc, như thể hai cảm xúc đó đang cố nuốt chửng nhau.
- Ừ, mẹ là nhiều thứ khác nhau trong những câu chuyện của bà ngoại con. Vừa là cô gái vừa là nữ hoàng, mẹ nghĩ thế. Rốt cuộc, mẹ không biết được đâu là ranh giới giữa hư cấu và hiện thực nữa. Đôi khi mẹ còn nghĩ là bà ngoại của con cũng tự hỏi mình câu ấy.
Elsa im lặng nằm nhìn lên trần xe, với hơi thở nhẹ nhàng của linh sói bên tai. Nó nghĩ đến Tim Sói và thiên thần biển, bao nhiêu năm sống trong chung cư này mà không ai thực sự hiểu họ. Những người hàng xóm ở gần nhau đến nỗi, nếu những cái lỗ được khoan trên các vách tường, trần và sàn của các căn hộ, tất cả có thể vươn tay ra chạm vào nhau. Thế nhưng rốt cuộc họ vẫn gần như không biết gì về nhau. Mặc dù đã bao nhiêu năm tháng trôi qua.
- Mẹ tìm được chìa khóa xe chưa ạ? - Elsa hỏi.
Mẹ lắc đầu.
- Mẹ nghĩ bà ngoại của con giấu chúng. Có lẽ là để chọc tức bà Britt-Marie. Hẳn là vì thế nên nó mới chiếm chỗ đậu xe của bà ấy...
- Thế bà Britt-Marie có xe hơi riêng không ạ? -
Elsa hỏi mẹ, vì từ chỗ mình nằm nó có thể thấy chiếc BMW to quá khổ của ông Kent.
- Không. Nhưng bà ấy từng có một chiếc xe nhiều năm về trước. Một chiếc màu trắng. Và đây vẫn là chỗ đậu xe của bà. Mẹ nghĩ đây là vấn đề nguyên tắc. Bà Britt-Marie luôn coi trọng các nguyên tắc. - Mẹ đáp với một nụ cười mỉm.
Elsa không hiểu lắm về ý nghĩa câu nói của mẹ. Con bé cũng không biết liệu nó có quan trọng gì hay không.
- Vậy làm thế nào Renault đậu ở đây được, nếu không ai có chìa khóa của nó? - Elsa buột miệng nói ra suy nghĩ của mình, dù nó biết mẹ không có câu trả lời, bởi vì bản thân mẹ cũng không biết.
Con bé bèn hỏi mẹ về bóng tối. Mẹ lại đưa tay vuốt má nó và uể oải nâng người dậy trên ghế, một tay đặt trên Một nửa.
- Mẹ nghĩ chuyện này phải để bà Maud và ông Lennart giải đáp cho con, cưng à.
Elsa muốn phản đối, nhưng mẹ đã bước ra khỏi xe, nên nó không còn lựa chọn nào khác ngoài đi theo. Đó là siêu năng lực của mẹ mà. Mẹ cầm chiếc áo choàng của Tim Sói và bảo là sẽ giặt nó để ông ta có áo khi quay về nhà. Elsa thích cách nghĩ ấy. Khi Tim Sói quay về nhà.
Hai mẹ con phủ mền lên con linh sói ở ghế sau, và mẹ điềm tĩnh cảnh báo con thú phải nằm yên mỗi khi nghe có tiếng người lại gần. Nó đồng ý. Elsa hứa sẽ tìm một nơi trú ẩn tốt hơn cho linh sói, mặc dù con thú dường như không hiểu được lợi ích của chuyện đó. Nhưng nó tỏ ra rất hài lòng trước viễn cảnh Elsa đi lấy thêm bánh.
Ông Alf đang đứng canh chừng ở chân cầu thang dẫn lên tầng trệt.
- Tôi đã pha cà phê. - Ông lẩm bẩm.
Mẹ vui vẻ đón lấy một cốc. Ông đưa cho Elsa cốc còn lại.
- Cháu đã nói với ông là cháu không uống cà phê rồi mà. - Elsa nói với giọng uể oải.
- Đây không phải là cà phê, đây là món sôcôla nóng O’boy chết tiệt. - Ông Alf bực bội đáp.
Elsa ngạc nhiên nhìn vào cái cốc.
- Ông lấy cái này từ đâu thế? - Nó hỏi.
Mẹ không bao giờ cho Elsa uống O’boy ở nhà, vì nó có quá nhiều đường.
- Từ nhà. - Ông Alf lẩm bẩm.
- Nhà ông có O’boy á? - Elsa hỏi lại với giọng nghi hoặc.
- Khỉ gió, ta có thể đi ra cửa hàng mua được mà?
Elsa nhoẻn cười với ông. Nó đang nghĩ đến việc gọi ông Alf là Hiệp sĩ lăng mạ, vì nó đã đọc bài viết về lăng mạ trên Wikipedia và cảm thấy có quá ít hiệp sĩ loại này. Rồi nó nhấp một ngụm và suýt nữa thì phun thẳng vào chiếc áo da của ông ta.
- Ông đã cho bao nhiêu muỗng O’boy vào đây vậy?
- Ta không biết. Mười bốn hay mười lăm gì đó thì phải.
- Lẽ ra ông chỉ nên cho ba muỗng thôi!
Ông Alf bực bội ra mặt. Hay ít ra Elsa cũng nghĩ vậy. Nó đã từng bỏ chữ “bực bội” vào cái hộp chữ của bố, và hình dung khi bực bội người ta trông sẽ giống như ông lúc này.
- Nhưng nó nên có chút mùi vị gì đó, chết tiệt.
Elsa dùng muỗng để múc nốt chỗ O’boy còn lại trong cốc.
- Vậy là ông cũng biết ai đã truy lùng cháu ở nghĩa trang nhà thờ, đúng không? - Con bé hỏi với một nửa lượng sôcôla trong cốc dính ở mép và mũi.
- Hắn không lùng tìm cháu.
- Ơ!? Rõ ràng là có mà? - Elsa phản bác và ho sặc sụa, làm vài giọt O’boy bắn lên chiếc áo da của ông Alf.
Nhưng ông chỉ từ tốn lắc đầu.
- Không. Cháu không phải là người hắn tìm.