Bản Kháng Cáo Cuối Cùng - Chương 08

8

Mười giờ sáng, Toni đang ngồi bên bàn trong bếp nhà Doris. Mùi thơm nức mũi bay ra từ lò nướng. Doris đang nướng bánh.

“Còn bao lâu nữa, chị Doris?”

“Hai phút thôi. Bình tĩnh nào, Toni. Ăn tạm mấy cái bánh kia rồi đợi chị một tí.”

Toni nhón một cái bánh trong lọ và vừa nhai vừa ngẫm nghĩ. “Có lẽ em biết lí do chị không giảm được cân rồi, Doris. Trong mấy cái bánh này chắc phải có đến cả pound [17] chocolate ấy.”

“Mười hai ounce thôi chứ mấy. Với lại sáu ao-xơ vụn hạt mắc-ca nữa. Harry thích thứ đấy hơn óc chó. Cộng thêm khoảng chừng nửa pao bơ.”

“Dừng, dừng! Thể nào mà chị không giảm được cân. Có lẽ chị nên thử ăn đồ em nấu xem sao. Đến cháo ăn liền mà em nấu còn chẳng ra hồn nữa.”

Doris thở dài. “Nghe này, Toni. Ai cũng nấu ăn được hết. Em thông minh và em cứ làm theo đúng hướng dẫn là ổn hết. Chỉ là em không muốn thôi.”

“Có phải em không muốn đâu! Em đã thử công thức bánh-quy-làm-kiểu-gì-cũng-ngon của chị, thế mà sản phẩm em làm phải cứng ngang mấy cái chặn giấy đấy!”

Lò nướng kêu tinh-toong và Doris ném cho Toni một đôi găng tay nhà bếp. “Lấy ra hộ chị nhé?”

“Vâng.” Toni đứng lên và lấy khay bánh cuộn vị quế khỏi lò. “Em đặt ở đâu đây?”

Doris chỉ cái giá để lạnh trên quầy bếp. “Em thấy cái đĩa đó chứ? Em bỏ sáu cái lên đó, rồi phủ giấy bạc lên. Giấy ở ngăn kéo thứ ba bên phải bồn rửa ấy.”

Toni làm y theo lời Doris. “Giờ thì gì nữa?”

“Em mang chúng sang nhà Mike, rồi bảo mình vừa nướng xong và muốn mời cậu ấy thưởng thức.”

“Nhưng anh ấy sẽ nghĩ là em nướng mất!”

Doris cười. “Chị đang muốn thế mà. Nhưng nhớ này, Toni, em không hề nói dối. Em có lấy bánh ra khỏi lò cơ mà. Cậu ấy sẽ mời em uống cà phê, và em đồng ý. Rồi sau khi nói chuyện xã giao xong, em hãy về đây kể cho chị nghe xem cậu ấy nói gì nhé. Đấy là bước một.”

Toni nhíu mày. “Thế còn bước hai?”

“Chị sẽ nói sau. Giờ thì đi trước khi bánh nguội nào.”

“Chị có chắc là con đường tới trái tim người đàn ông là đi qua cái dạ dày không?”

“Chị chắc.”

Toni nuốt nước bọt và cầm đĩa bánh cuộn lên. “Được, em nghe chị. Nhưng em nói trước nhé, Doris... nếu vụ này đổ bể, em sẽ cho Harry biết chị chi bao nhiêu tiền mua quà sinh nhật anh ấy đấy.”

Michael rên rỉ khi bước ra khỏi dòng nước chảy từ vòi hoa sen. Anh vặn nước nóng trong mức chịu được, nhưng vẫn chẳng ăn thua. Cơ bắp trên người anh đau ê ẩm. Đây là lần tắm thứ hai của anh trong buổi sáng ngày hôm nay rồi. Lần đầu tiên là sau khi bò khỏi giường lúc tám giờ, cà nhắc bước vào nhà tắm để cố sửa sang cho ra hồn trước khi gặp Toni và Doris để chạy buổi sáng.

Hôm qua phải cố theo kịp hai quý cô kia đã khiến anh mệt bở hơi tai, nhưng sáng hôm nay thì anh đau phát điên lên được. Chắc cơ thể này yếu hơn anh tưởng nhiều. Nhưng đau đớn chẳng là gì khi so sánh với mất tự trọng. Doris đã nhận thấy vẻ nhăn nhó của anh và đề nghị họ thôi không đi thang bộ mà chuyển sang thang máy.

Anh dừng lại hắt hơi hai lần trong lúc mặc đồ. Không hiểu thế nào mà anh lại bị cảm. Mà kể cũng chẳng lạ. Giờ ngẫm lại, anh đã sống trong môi trường vô trùng suốt mười năm cơ mà; anh không hề tiếp xúc với đám vi trùng, virus bên ngoài cánh cửa khóa im ỉm của Oakdale. Chắc anh phải làm quen với toàn bộ đám vi trùng trong thành phố trước khi hệ miễn dịch làm việc tốt trở lại.

Suy nghĩ đó chẳng vui vẻ gì và Michael nhíu mày vào bếp làm chút đồ ăn sáng. Anh đang đọc hướng dẫn trên hộp cháo ngũ cốc trộn kem ăn liền mà nghe chẳng có vẻ gì là ăn liền được cả thì chuông cửa kêu.

Anh nên ra mở cửa không nhỉ? Michael lưỡng lự, tay đặt trên nắm cửa. Không thể là nhân viên tiếp thị được. Cửa chính của chung cư bị khóa và đám tiếp thị không được vào. Và chắn chắn đấy không phải Stan. Khi nói chuyện điện thoại tối qua, Stan lại nhấn mạnh thêm rằng hai người sẽ không gặp mặt cho tới khi mọi chuyện lắng xuống. Vậy ngoài kia chỉ có thể là Doris hoặc Toni thôi. Họ là những người quen duy nhất của anh trong chung cư này.

“Đợi một chút,” Michael rút chốt và định mở cửa, nhưng rồi sững lại khi nhớ ra mình còn biết một người nữa. Đại úy Harry Evans. Nếu có người đem ảnh mới đến, một tấm được chụp sau ngày anh trải qua các ca phẫu thuật thì sao?

“Ai đó?” Michael thấy mình thật ngu ngốc khi hét qua cửa, nhưng anh có thể làm gì khác đây? Thật ra anh có thể cứ thể mở toang cửa ra. Anh vốn không có đường thoát cơ mà. Nếu chồng Doris tới bắt anh, vậy anh chẳng còn lựa chọn nào ngoài lẳng lặng đi cùng.

“Là em, Toni! Nếu anh bận thì em quay lại sau vậy.”

Michael mở cửa và tươi cười với cô. Giờ chắc Toni nghĩ anh bị điên rồi. “Xin lỗi nhé, Toni, vào đi. Anh... ờ... anh muốn biết chắc xem ai gọi cửa đó mà.”

Toni mỉm cười, nhưng có vẻ căng thẳng khi đưa anh cái đĩa bọc trong giấy bạc. “Sao anh không nhìn qua mắt thần?”

Michael thấy mình như thằng ngố khi đến giờ mới để ý tới thứ của nợ kia. Cửa ở Oakdale không có cái đó, chỉ có chấn song lắp cùng lưới để y tá có thể theo dõi bệnh nhân mà thôi. Anh đã quên mất trên đời có thứ được gọi là mắt thần.

“Nói thật nhé, anh quên mất là có nó đấy. Cửa nhà anh ở hồi trước không có cái đó. Vào đi, Toni. Anh không cắn đâu mà sợ.”

Toni bước vào và vui vẻ ngồi xuống tay ghế bành. “Đây là bánh quế em vừa lấy từ lò nướng ra. Em nghĩ chúng có thể giúp anh tạm quên đi chứng đau cơ. Anh chưa ăn sáng, nhỉ?”

“Chưa.” Michael lột giấy bạc và hít một hơi sâu. Chúng thơm quá. Toni ngồi đó chờ đợi và anh đột nhiên nhớ ra phép lịch sự.

“Sao em không ăn cùng nhỉ? Để anh pha cà phê, nhưng anh chỉ có cà phê gói thôi nhé.”

“Loại tách caffein à?”

“Không, anh chỉ có loại thường thôi.”

“Vâng ạ,.” Toni thở dài. “Em thích cà phê có caffein.”

Michael biết mình đang để lộ vẻ ngạc nhiên. “Nhưng Toni này, anh tưởng em giữ dáng ghê lắm nên mới chăm chỉ đi bộ và tập luyện thể thao chứ.”

“À vâng,” Toni gật đầu. “Nhưng em không định kiêng khem quá đáng. Em đi bộ vì em ngồi làm việc cả ngày và đấy là bài tập duy nhất em thực hiện được. Còn lại thì em chắc chắn không thuộc típ người chăm chắn chỉ dùng đồ ăn thực dưỡng, giàu chất xơ và không tinh bột đâu. Em rất thích những món có kem, bơ và đường.”

“Thế em không để ý khẩu phần ăn sao? Rồi chuyện phải ăn gì, loại gì nữa?”

“Trời ơi, không! Em thích gì thì ăn nấy, lúc nào hứng thì ăn. Còn nếu quần áo mà chật quá, em sẽ ăn ít đi trong độ hai tuần là được. Em biết người ta bảo ta có thể sống lâu thêm mười năm nếu chịu khó chú ý đến chế độ ăn, nhưng họ không nói đó là mười năm cuối đời. Em không chắc mình muốn sống lay lắt làm khổ con khổ cháu.”

“Anh hiểu ý em rồi.” Michael cố không cười và gật đầu. “Có lẽ những đồ ăn tự nhiên không tốt cho em. Mà gì thì gì, người ta vẫn chết vì các lí do tự nhiên cơ mà.”

Toni chớp mắt rồi cười lớn, một tiếng cười giòn tan, làm cả cơ thể cô rung lên, khiến Michael thấy mình vừa nói một câu quá được. Cô ấy bắt đầu thoải mái khi ở gần anh, và như thế thật tốt.

“Cho em dùng điện thoại của anh một chút nhé, Mike? Tối qua em vừa làm xong báo cáo, và giờ muốn báo cho khách hàng biết ấy mà.”

“Được. Ở ngay cạnh ghế bành, gần cuốn sách kia kìa. Để anh đi pha cà phê.”

Vẻ ngạc nhiên thoáng qua gương mặt Michael khi anh nhìn thấy cuốn danh bạ. Nó được mở, đặt ngay trên bàn uống nước. Lạ thật. Anh có gọi cho ai đâu. Anh vừa nhíu mày vừa vào bếp. Có gì đó liên quan tới cơn ác mộng bỗng khác lạ đêm qua. Chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn trống không nên anh tìm tên một bồi thẩm trong danh bạ. Anh có làm vậy thật không nhỉ? Rời giường và mở danh bạ ấy? Chắc là có rồi.

Còn một chuyện khác nữa. Trời mưa và anh quên mang áo khoác. Anh đã thật sự ra ngoài giữa lúc mưa gió đó à? Anh không chắc.

Michael thở dài và rót nước vào hai cốc. Chắc chẳng sao đâu. Đó cũng chỉ là một giấc mơ thôi mà. Nhưng anh vẫn nhíu mày khi đặt hai cốc vào lò vi sóng rồi nhìn chúng di chuyển vòng vòng trên khay. Đợi Toni về, anh sẽ kiểm tra quần áo trong tủ xem có đồ ướt không. Cảm giác mưa lạnh tạt vào mặt rất thật. Anh rất hi vọng là mình không mộng du thêm lần nữa.

***

Lenny đóng cửa văn phòng chật hẹp và rót cho mình một cốc cà phê. Mười giờ. Đã đến lúc ăn bữa phụ buổi sáng.

Mấy thằng cha ngoài kia có thể phục vụ khách hàng ngon lành trong lúc y đọc báo sáng.

Lại có vấn đề với dân Ả-rập. Và Israel nữa. Tệ là chúng ta không có tổng thống nào rắn mặt dám thẳng tay với chúng. Nếu JFK [18] còn sống, ông ấy chắc dám. Lenny chỉ nhớ có duy nhất ông ấy là tổng thống không ngán một ai.

Lenny chớp mắt mấy cái khi nghĩ tới Kennedy. Ấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng y khóc. Bao năm đã qua mà y vẫn nhớ rõ mồn một mình đã ở đâu và đang làm gì khi nghe được tin đó.

Hồi ấy y mới năm tuổi, đang ngồi trên xe tải của bố. Bố y lúc đó làm nghề lái xe, chở hàng hóa từ Miami tới Chicago. Sếp bảo bố y đi thẳng một lèo, vậy nên họ đi trên đường suốt đêm với tiếng đài radio bầu bạn. Họ vừa đi đến một đoạn vắng trên đường cao tốc ngay ngoài Atlanta thì nghe được tin tổng thống qua đời. Bố Lenny đã dừng xe bên vệ đường và khóc nức nở như một đứa trẻ và Lenny cũng khóc. Y không rõ có chuyện gì, nhưng y không thích thấy bố khóc. Bố y là người cứng rắn, luôn biết cách tránh khỏi rắc rối, vậy mà sáng đó ông ấy còn chẳng thèm lo sợ lũ cớm Georgia có thể dừng lại hỏi xem có chuyện gì và khám xe.

Lenny thở dài khi lật sang mục thể thao và xem tỉ số. Y nhẩm tính xem mình thắng thua bao nhiêu rồi nhún vai. Y huề vốn và thấy vậy còn hơn là thua. Y không cá độ nhiều lắm, chưa bao giờ vượt quá mức hầu bao cho phép. Y chỉ cá cược để xem trận đấu cho đã hơn thôi. Đó cũng giống như ra trường đua và cược tiền vào một con ngựa chỉ vì ta thích màu áo người điều khiển con ngựa đó. Lần này ta thắng, lúc khác lại thua, nhưng rồi cuối cùng cũng huề vốn cả thôi.

Tiếp đến là trang truyện tranh, nhưng hôm nay không được hài hước lắm. Lenny đọc tất cả nhưng chẳng thấy có gì làm y bật cười khoái trá. Truyện tranh hồi xưa hay hơn nhiều. Y đảm bảo luôn. Kiểu đúng đường hướng chính trị đã làm hỏng hết khiếu hài hước của con người ta rồi.

Y lật sang mục cáo phó và đọc kĩ. Sau đó y thở dài nhẹ nhõm. Không có tên người quen của y trong này. Vậy là tốt. Và hầu hết người quá cố, trừ thằng oắt điều khiển xe môtô chắc trong lúc phê thuốc hay gì đó, đều lớn tuổi hơn y. Điều đó làm Lenny thấy thoải mái.

Liếc qua mục dự báo thời tiết nữa là y sẽ bỏ báo sang bên. Dự báo thời tiết trên báo chí thường trật lất. Lenny còn chẳng hiểu vì sao mình lại rỗi hơi đi đọc nữa. Lenny vứt tờ báo lên bàn và định đứng dậy làm việc thì một bài báo ở mục Tin địa phương lọt vào tầm mắt y. Một người phụ nữ bị sát hại hồi đêm qua tại Westwood. Đó là nơi Margo sống. Thật tệ khi đó không phải là cô ta.

Lenny há hốc miệng khi đọc đến tên nạn nhân. Là Margo! Chữ to chình ình kia kìa, không thể nhầm được. Margo Jantzen sống ở đường Morningside Drive. Và đêm qua y vừa tính tới chuyện giết cô ả. Và giờ y mừng húm vì đã không kể với ai ngoài Eddie!

Mất một lúc Lenny mới thấm chuyện và bắt đầu toát mồ hôi. Y đã vẽ ra toàn bộ kế hoạch, còn Eddie bảo có quen biết một kẻ hợp với công việc đó. Và khi Lenny đưa vé, Eddie đã hứa sẽ giúp y một chuyện. Họ đang ngồi nói chuyện thì Eddie bật dậy đi gọi điện thoại, nhưng không muốn dùng máy của Lenny. Chẳng cần mất nhiều công suy nghĩ cũng hiểu ra. Cái thằng cha ngu ngốc đó đã tiễn Margo đi chầu ông bà ông vải rồi!

Michael mở cửa căn hộ và đi vào. Tim anh đập thình thịch dù anh khá chắc sẽ chẳng ai thấy anh vừa chạy ù ra ngoài lấy tờ báo từ quầy cung cấp báo trước chung cư.

Trên trang nhất có ghi số điện thoại phòng ai đó muốn đặt báo. Michael nhấn số và thu xếp để người ta giao báo tới căn hộ của Mike Kruger mỗi sáng. Dù Stan đã bảo Michael cứ việc hỏi nếu cần gì, nhưng anh chẳng thấy có gì không tốt nếu tự mình làm chút việc. Sau đó anh cúp máy và nhìn tờ báo hôm nay, hơi hơi sợ nên không muốn mở ra xem tin tức đăng trên đó.

Sau khi Toni ra về, anh tìm thấy một cái quần bò và áo sơ mi ướt trong tủ. Rõ ràng anh lại mộng du và đi ra ngoài mưa hồi đêm qua, đúng như anh lo sợ. Giờ anh muốn tìm hiểu xem mình đã đi đâu và làm gì.

Tay Michael run run lật trang báo. Tin tức thế giới cứ để đó đọc sau cũng được, mục thể thao và kinh tế cũng thế. Nếu anh thực sự làm điều anh đang sợ, vậy nó sẽ nằm trong mục Tin địa phương.

Có tin về một người phụ nữ bị sát hại tại Westwood, và Michael rùng mình. Khi đọc đến tên nạn nhân, mặt anh trắng bệch.

Cuốn danh bạ vẫn mở trên bàn uống nước, và Michael buộc mình phải xem đến nó. Cái tên Margo Jantzen cùng địa chỉ ở ngay giữa trang.

Anh có cảm giác như ác mộng lại bắt đầu, chỉ có điều lần này là ngoài đời thật. Michael ngồi phịch xuống ghế và hai tay ôm đầu. Bác sĩ tâm thần đã bảo rằng ác mộng của anh sinh ra từ lòng căm phẫn bồi thẩm đoàn đã kết án anh. Nghe thật nực cười, nhưng anh vẫn hứa với bác sĩ sẽ suy ngẫm xem sao.

Trong buổi điều trị tiếp theo, Michael đã bảo bác sĩ tâm thần kia rằng ông ta sai rồi. Anh không hề ghét bồi thẩm đoàn. Đúng là họ đã sai, nhưng con người không ai có thể nắm tay đến tối gối đầu đến sáng và ta không thể trách vì họ vô tình mắc lỗi. Dù gì thì cũng có quá nhiều bằng chứng chống lại anh mà.

Bác sĩ tâm thần đã ừ hữ mấy câu kiểu như, “Hiểu rồi,” hoặc “Ờ,” và Michael tiếp tục phân trần. Đúng là anh đã quát tháo Carole và bảo với nhân viên pha chế quán Barney’s Beanery rằng cô sẽ phải hối tiếc vì dám bỏ anh.

Tất nhiên anh không có ý sẽ về nhà giết vợ, nhưng làm sao bồi thẩm đoàn biết được chuyện đấy chứ? Còn khẩu súng, khẩu súng đầy dấu vân tay của Michael trong ổ đạn, nằm trong thùng rác ngoài chung cư anh sống. Không phải chính bác sĩ cũng đồng ý là những bằng chứng đó rất chắc chắn là gì? Và tệ hơn nữa là anh không hề có chứng cứ ngoại phạm. Anh đến giờ vẫn chưa nhớ ra mình đã đi đâu sau khi rời quán. Anh chỉ biết mình không giết Carole, nhưng nhìn qua thì ai cũng nghĩ thế? Anh bị kết tội không phải lỗi của bồi thẩm đoàn. Họ cũng có lí khi đi đến kết luận đó cho dù thật ra nó sai đi chăng nữa.

Bác sĩ tâm thần mỉm cười và gật đầu. Họ luôn làm vậy mỗi khi định đánh tan sĩ khí của ta. Và sau đó ông ta hỏi một câu. Vậy giấc mơ đó là gì nếu không phải bằng chứng rõ ràng cho thấy sự thù địch của Michael với bồi thẩm đoàn?

Michael thở dài và xụi lơ. Tranh cãi chẳng ích gì. Nhưng anh vẫn không tin. Anh không hề tin, cho tới giờ phút này.

“Không thể tin nổi!” Doris rót cho Toni thêm cốc cà phê nữa. “Em ăn hết ba cái bánh quế trong vòng chưa đầy năm phút. Em không để dành cái nào cho Mike à?”

Toni lắc đầu. “Mike có ăn mà. Em căng thẳng quá thôi.”

“Em căng thẳng quá nên cứ thế xơi tì tì hả? Chuyện nghiêm trọng rồi đây, Toni. Chị nghĩ em yêu rồi đấy.”

“Thật sao?” Toni nhướng mày. “Em chẳng biết gì về tình yêu, nhưng em có thích anh ấy, Doris à. Anh ấy vui tính lắm. Em đã kể cho chị nghe anh ấy nói sao về thực phẩm tự nhiên chưa?”

Doris gật đầu. “Em cũng bảo với chị anh chàng thích màu xanh dương, thích các bộ phim cũ, thích vở nhạc kịch West Side Story và thích đọc Shakespeare. Chị nghe cứ như em đang đọc các gạch đầu dòng trong sổ lưu bút. Cậu ấy có nói gì về mình không? Hay mời em đi chơi chẳng hạn?”

“Không. Nhưng anh ấy có vẻ vui khi thấy em. Và anh ấy mời em vào nhà ngay.”

“Ờ, thế là cậu ấy cũng thích em.” Doris thở dài. “Em có mặc cái váy hai dây màu vàng đáng yêu của em không?”

Toni đặt cái bánh xuống. “Em xin lỗi, Doris. Em biết em quên làm gì đó mà.”

“Em mặc thế này à?” Doris chỉ vào bộ quần áo Toni đang mặc trên người, quần bò và áo phông, rồi làu bàu khi Toni gật đầu. “Thể nào. Chị nghĩ giờ đúng là lúc nên tiến hành bước hai, nếu em còn nhớ số điện thoại của anh chàng.”

“Em nhớ chứ. Em dùng điện thoại của anh ấy và ghi nhớ số rồi. Thế bước hai là gì?”

“Ăn tối tại nhà em. Giăm bông ướp mật ong, khoai lang và món rau chân vịt rán phồng. Sau đó tráng miệng bằng bánh trứng đường vị chanh. Anh chàng không cưỡng nổi đâu.”

“Nghe tuyệt lắm, Doris.” Toni thở dài. “Nhưng Doris à, chị biết em không nấu được mà.”

“Em không phải nấu. Chị sẽ nấu rồi mang sang cho. Em chỉ cần trang điểm cho xinh đẹp và ngồi nghe cậu ấy khen ngợi thôi.”

“Nhưng vậy là lừa người ta đó, Doris. Và em chưa từng lừa dối ai!”

“Cũng không hẳn là lừa dối nếu em sang đây phụ chị một tay. Giờ đi gọi điện mời cậu ấy qua ăn tối đi. Và về nhà cầm tạp dề sang đây. Chúng ta còn phải nấu nướng đấy.”

Mãi một hồi lâu Michael mới nhúc nhích. Điện thoại đã đổ chuông hai lần, mỗi lần mười tiếng, nhưng anh không có đủ can đảm để nghe điện. Giờ nó lại đổ chuông và anh đã dồn hết dũng khí để nhấc máy. Có lẽ là Stan gọi đến bảo anh trở về Oakdale vì anh ấy đã đọc được tin kia và thấy rằng Michael nên bị nhốt lại thì tốt hơn.

“Mikey? Stan đây. Anh rất mừng vì tóm được chú.”

Michael quá căng thẳng nên suýt bật cười. Sao Stan lại không tóm được anh chứ? Anh phải ở đây, đằng sau cánh cửa khóa trái cơ mà.

“Chú vừa ở đâu vậy, Mike? Anh đã gọi hai cuộc mà chú không nghe. Chú ngủ à?”

“Không.” Michael nghĩ nhanh. “Nhưng em tắm lâu, Stan ạ. Chắc đúng lúc đó anh gọi. Dây điện thoại không kéo được vào tới nhà tắm.”

“Ừ, thôi bỏ đi, Mikey. Thường anh sẽ không gọi giữa ban ngày ban mặt, nhưng anh muốn thông báo trước khi chú thấy tin tức trên ti vi. Một bồi thẩm trong phiên xử của chú năm nào vừa bị giết tối qua. Tên cô ta là Margo Jantzen.

Nhưng cảnh sát không nghi ngờ chú, vậy nên cứ thư giãn đi. Không việc gì phải hoảng.”

“Họ... họ không nghi ngờ em?”

“Không. Có hai chuyện xảy ra, Mike ạ. Toàn chuyện tốt cho chú cả đấy. Có hai y tá Oakdale thề đã thấy chú tại sân bay Oakland hồi tối qua.”

“Thế à?”

“Ừ. Tất nhiên cả anh và chú đều biết họ lầm to, nhưng chỉ có chúng ta biết với nhau thôi.”

“Em có người giả dạng à?”

“Rõ rồi. Đại lí bán vé nhớ đã bán cho chú tấm vé một chiều đi New York và cảnh sát California đã ngừng tìm kiếm. Đó không phải tin tốt sao?”

Michael nuốt nước bọt. “Vâng, vâng, tin rất tốt ấy chứ. Vậy em được gặp anh rồi chứ?”

“Chưa, Mike ạ. Họ vẫn nghĩ chú sẽ liên lạc với anh, vậy nên chúng ta cứ ém lại một thời gian cho chắc đã.”

“Anh nói gì thì em nghe nấy, Stan. Anh bảo có hai tin tốt cơ mà?”

“Ờ, Michael. Người quen của anh ở đồn cảnh sát bảo có một tình tiết quan trọng trong vụ án mạng của Jantzen. Cô ấy là bồi thẩm, nhớ không?

“Có, em nhớ.”

“Ờ, họ tìm thấy bằng chứng cho thấy cô ấy tống tiền sếp cũ. Họ đang tập trung điều tra theo hướng ấy, để loại trừ những khả năng khác. Họ còn chưa biết cô ấy là bồi thẩm trong phiên xử chú cơ.”

“Thật tuyệt, Stan. Cảm ơn anh đã báo cho em nhé.”

“Sao thế, Mikey? Chú có vẻ lo lắng thì phải. Chú ổn đấy chứ?”

“Vâng, em ổn, Stan ạ. Chỉ là...” Michael dừng một chút. Anh có nên kể cho Stan nghe về vụ mộng du không?

“Thôi nào, Mikey. Kể đi. Gì thì anh cũng lo liệu được hết.”

Michael hít thật sâu. “Em nghĩ hình như em bị mộng du, Stan ạ.”

“Thế thôi à?” Stan tặc lưỡi. “Nghe này, Mike. Đừng lo. Ngay sau khi chúng ta chuyển vào ở cùng dì Alice, chú mộng du suốt. Dì lo chú sẽ làm mình bị thương, nhưng chẳng bao giờ xảy ra chuyện ấy. Và chuyện đó ngừng sau hai tháng, khi chú đã quen với nơi ở mới.”

Michael cố nhớ lại vài tháng đầu tiên ở nhà dì Alice, nhưng kí ức quá mờ nhạt. “Hình như em không nhớ, Stan ạ.”

“Tất nhiên chú không nhớ rồi. Chú chưa đầy ba tuổi mà. Mà thôi, đừng lấy chuyện đó làm phiền. Chỉ là phản ứng với môi trường mới ấy mà. Cứ làm một li brandy hoặc gì đó trước khi đi ngủ và chú sẽ ngủ ngon như cún luôn ấy mà.”

“Anh không nghĩ chứng bệnh đó nguy hiểm à?”

“Chắc chắn là không. Nếu hai tuần nữa mà chú vẫn còn mộng du, chúng ta sẽ tính tiếp. Được chưa?”

“Được, Stan.”

“Anh cúp máy đây, Mikey. Anh đang cầm một ca táp đầy giấy tờ nhằm đệ đơn kháng cáo cho chú. Anh sẽ nói chuyện với chú lúc chín giờ tối nay nhé?”

“Vâng.”

Michael vừa cúp máy thì điện thoại lại đổ chuông. Stan gọi lại bảo rằng anh ấy đã đổi ý rồi chăng? Rằng anh ấy thấy mộng du dù sao cũng nguy hiểm, và Michael nên trở lại Oakdale ư? Anh run run nhấc ống nghe.

“A lô, là em, Toni đây. Em gọi mời anh sang nhà ăn tối.”

Michael rất ngạc nhiên khi người ở đầu dây bên kia không phải Stan và đầu óc anh đơ ra. Cuối cùng, anh cũng bật được ra câu trả lời. “Cảm ơn nhé, Toni. Anh muốn lắm, nhưng...” Đầu óc anh nghĩ rất lung, cố tìm ra lời cáo lỗi. “Công việc của anh đang có chút trục trặc.”

“Ý anh là bản thảo của anh hả?”

“Ừ,” Michael đáp, nhớ ra đã bảo với Toni và Doris rằng mình là nhà văn. “Là về nhân vật chính của anh. Anh đang thấy bị sao sao ấy.”

“Thế chán quá, Mike à.” Giọng Toni rất cảm thông. “Có lẽ anh cần thư giãn và rời xa nó một lát. Mà dù gì thì anh cũng phải ăn tối và ở chỗ em cũng tốt mà.”

Michael nhoẻn miệng cười. Đúng là anh cần thư giãn và tránh xa nó, nhưng Toni không biết nó là nỗi căng thẳng của anh về chứng mộng du. Nhưng nói chuyện với Toni có vẻ làm anh thấy khá hơn. Và quả thật anh cũng cần ăn tối. “Em nói đúng, Toni. Anh sẽ sang nếu em thấy anh không thất thố quá.”

“Thất thố à? Đừng ngốc thế. Chúng ta sẽ ăn giăm bông, khoai lang, và bánh phồng rau chân vịt. Cùng cà phê và bánh trứng đường vị chanh để tráng miệng. Chúng ta sẽ ăn lúc sáu giờ, nếu anh thấy được.”

Michael tứa nước miếng khi chấp nhận lời mời của cô và cúp máy. Nếu bánh quế chỉ ra được gì thì đó là Toni nấu ăn cực giỏi, và anh đã không ăn đồ nhà nấu suốt hơn mười năm nay rồi.

Chỉ nghĩ về bữa ăn Toni lên thực đơn đã làm bụng anh cồn cào. Michael tìm được một hộp bánh quy trong tủ và ăn tạm ít bánh phô mai Brie và bánh quy. Ăn xong, anh thấy khá hơn hẳn. Stan không hề lo chút nào về chứng mộng du của anh. Và Stan thường đúng. Anh sẽ gạt nó sang một bên để thử nhìn sự thể theo hướng tích cực.

Michael ngồi xuống ghế và ngẫm nghĩ lại một lượt. Cuốn danh bạ mở ở trang có tên Margo Jantzen. Anh ra ngoài trong lúc trời mưa tối qua. Sự việc đúng là như thế, nhưng không thể khẳng định anh đã giết người được. Anh chưa từng gây chuyện tày đình gì khi mộng du hồi bé và anh đã kiểm tra cẩn thận đống quần áo ướt và chẳng thấy có vết máu nào. Có thể, hoặc rất có khả năng anh đã đi bộ qua vài dãy nhà trong mưa và rồi quay lại và lên giường ngủ tiếp.

Liếc nhìn đồng hồ, Michael đứng dậy. Anh phải nhanh lên. Đã năm rưỡi và Toni hẹn anh sang lúc sáu giờ. Anh thấy nhẹ cả người, anh ngâm nga điệp khúc một bài hát cũ của Beatles trong lúc mặc quần vải màu nâu, áo len màu rượu chát và đi một đôi giày da nâu. Nhìn cũng ra dáng phết, dù anh không biết mốt dạo này thế nào. Anh định bụng sẽ kiểm tra mục quảng cáo trên báo xem dạo này cánh đàn ông ăn mặc ra sao.

Michael định ra cửa thì nhớ lại những bữa tiệc tối từng tham dự cùng Carole. Mọi người đều mang quà cho chủ nhà. Cũng không cần quá cầu kì. Ta chỉ cần đem theo một túi kẹo, một bó hoa hay một chai rượu là được. Gì cũng được, miễn là không đến tay không. Anh không thể ra ngoài mua kẹo hay hoa, nhưng chắc trong nhà có rượu. Anh chỉ cần tìm ra chúng thôi.

Có mấy chai vang trắng trong tủ lạnh, nhưng Toni lại chuẩn bị giăm bông. Hình như nếu ăn thịt thì phải uống vang đỏ thì phải. Stan đã mua vang trắng, vậy chắc anh ấy cũng mua luôn vang đỏ. Nhưng anh ấy để ở đâu mới được chứ?

Sau năm phút tìm kiếm, Michael đã định bỏ cuộc thì nhớ ra lời khuyên của Stan rằng hãy uống brandy trước khi đi ngủ. Nếu anh có brandy, vậy phải có tủ rượu. Nó nằm sau cánh cửa kính màu anh thấy trong phòng khách chăng?

Michael vội vàng vào phòng khách, mở cửa tủ, và mỉm cười khi thấy vodka, gin, brandy, Scotch và mọi loại rượu anh có thể nghĩ ra. Và có mười hai chai gì đó có tên Lafite Rothschild [19]. Anh cầm một chai rồi tiền ra cửa. Anh mù tịt về rượu. Anh luôn uống bia vì anh chỉ đủ tiền mua thứ đó. Anh phải tin vào gu thưởng thức rượu của Stan để làm vừa lòng Toni thôi.

* * *

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3