Bản Kháng Cáo Cuối Cùng - Chương 16
16
Michael trở lưng và mỉm cười trong niềm thỏa mãn thuần khiết. Nắng sớm mai rọi vào giường ngủ và bị chia thành những mảnh vàng vì lớp rèm thưa che cửa sổ. Anh thấy thật tuyệt sau một đêm ngủ ngon mà lâu lắm rồi anh mới có.
Anh duỗi người và rời giường, rồi đi chân trần ra cửa sổ. Đây là một ngày hoàn mỹ hơn bao giờ hết. Cỏ trên sân xanh bóng như tấm thảm dày màu xanh lục bảo đẹp đẽ trải dài bên dưới anh, và trên kia là bầu trời trong xanh không một vẩn mây. Một buổi sáng đẹp như trong bưu thiếp. Anh ước mình có máy ảnh để chộp lại khoảnh khắc này và gửi cho những con người bất hạnh không được sống tại Nam California.
Michael mặc áo choàng ngủ và vào bếp pha cà phê. Trong lúc đun nước, anh liếc nhìn đồng hồ trên lò vi sóng. Bảy giờ hai mươi. Anh dậy sớm. Anh thường lò dò ra khỏi giường vừa kịp lúc chạy bộ tầm chín giờ với Toni.
Toni. Michael dừng bước khi nhớ lại chuyện tối qua. Sao anh thấy sung sướng thế này! Anh nhớ mình đã thỏa mãn thế nào khi họ ngủ trong vòng tay nhau. Nhưng sao anh lại ở đây, trong căn hộ của mình nhỉ? Anh không hề nhớ đã tỉnh dậy và về nhà.
Michael vội vàng chạy về phòng ngủ và kiểm tra cái ghế nơi anh thường ném quần áo. Có quần dài, áo sơ mi anh mặc hồi tối qua. Ít nhất anh không trần như nhộng mộng du đi qua hành lang về nhà!
Cô có thấy kì quặc khi tỉnh giấc và thấy anh đã đi không? Tất nhiên là có rồi. Anh nên nhanh nghĩ ra lời giải thích. Rồi anh nhớ đã nghe thấy điện thoại kêu. Có đúng không nhỉ? Nó đã thật sự đổ chuông chăng? Không, không thể. Nhưng anh có thể bảo cô rằng mình chạy ù về nhà lấy đồ ăn sáng.
Michael mở tủ lạnh và tìm thấy gì đó chứng minh cho lời tuyên bố của mình. Sáu chiếc bánh Đan Mạch cũng được đấy. Trong lúc đợi bánh Đan Mạch rã đông trong lò vi sóng, anh chạy vội về phòng ngủ và đóng bộ hệt như hồi tối qua. Rồi anh tất tả ra bếp lấy bánh và lao ào qua hành lang để gõ cửa nhà Toni. Giờ không còn thời gian suy nghĩ anh đã làm gì hồi tối qua trong lúc vừa mơ ngủ vừa mặc đồ và rời căn hộ của Toni. Anh sẽ cố nhớ lại sau, khi nào ở một mình.
“Mike!” Toni mở cửa và mỉm cười khi thấy bánh Đan Mạch. “Em đang tự hỏi xem anh đi đâu.”
“Em vừa dậy à?” Michael cố nói giọng thật bình thường. Nếu cô thấy anh biến mất giữa đêm, anh sẽ phải nghĩ ra lời giải thích khác.
Toni gật đầu. “Em vừa pha cà phê, nhưng chưa được đâu. Mấy cái bánh nhìn ngon quá. Em đói chết mất. Anh về lúc nào thế?”
“Anh chẳng biết nữa. Anh không nhìn đồng hồ. Nhưng anh đi rất khẽ.”
“Anh không cần phải khẽ khàng vì em đâu. Ban kèn đồng có đi vào phòng em và chơi Quốc ca em cũng còn ngủ được cơ mà. Em chẳng bao giờ tỉnh giấc trước bảy rưỡi.”
“Vậy em ngủ say như cún con ấy nhỉ.”
“Cún con say sữa mới đúng.”
“Thế làm sao em dậy kịp cho lớp học máy tính lớp bảy giờ mà em đã kể với anh?”
“À, Doris tới lôi em rời giường bằng được. Mà anh chắc muốn nghe tất cả không? Em nghĩ cà phê được rồi đấy.”
“Anh muốn nghe chứ.”
“Được rồi. Harry hồi đó trực tuần tra khu nghĩa địa tầm từ mười một giờ tới bảy giờ. Doris bảo em đặt điện thoại ngay cạnh giường và Harry sẽ gọi em dậy vào sáu giờ mỗi sáng.”
“Điện thoại kêu thì em dậy mà chuông đồng hồ thì em không nghe?”
Toni gật đầu cái rụp. “À, vâng. Không hiểu sao em không lờ chuông điện thoại đi được. Chắc lòng hiếu kì của em mạnh quá, nên em phải dậy nghe xem ai gọi.”
“Và em nhấc máy?”
“Đúng. Và để em không gật gù rồi lăn ra ngủ tiếp, Harry bắt em hát bài Star Spangled Banner tới khi tỉnh thì thôi.”
“Thế mà được à?”
Toni gật đầu. “Như bùa phép ấy anh ạ. Khi tới câu ‘and the rocket’s red glare’ là em tỉnh hẳn. Em thường không hát được nốt cao mà. Thôi vào bếp đi, Mike. Chắc cà phê được rồi, và chúng ta có thể bắt đầu đánh chén bánh Đan Mạch.”
“Sau khi ăn, có lẽ chúng ta lại lên giường đi. Anh nghĩ anh nên tận dụng lúc em đã tỉnh táo.”
“Ý kiến hay.” Toni hơi đỏ mặt. “Khi em tỉnh giấc sáng nay, em định hỏi anh xem anh có muốn tắm chung không. Em từng đọc ở đâu đó và nghe có vẻ rất... à, thôi cứ để bánh ở đó đi. Em cũng chưa đói lắm. Trừ khi anh đói.”
Bụng Michael sôi òng ọc, nhưng anh vẫn lắc đầu. Có một vài chuyện còn quan trọng hơn đồ ăn.
Lenny mang cà phê vào văn phòng và cầm điện thoại cố gọi cho Eddie thêm lần nữa. Y đi làm sớm sau một đêm mất ngủ. Có vẻ Margo chết còn gây nhiều rắc rối hơn hồi sống. Tụi cớm vắt y ra bã bằng đủ thứ câu hỏi, nhưng y nghĩ mình đã khiến chúng tin rằng y chẳng biết gì về vụ án mạng. Y thẳng thắn thừa nhận rằng có bị cô ả tống tiền, và có lẽ sẽ bị IRS [27] cảnh cáo nhẹ và phạt vì những giấy tờ cô ta giữ, nhưng không chỉ có vậy. Ủy ban nho nhỏ rối loạn đã xóa bỏ những giấy tờ có thể khiến y bị kết án, và những thứ cô ta giữ chỉ liên quan một chút tới nguồn thu nhập hoàn toàn hợp pháp mà y không báo cáo chính phủ. Nếu y mà biết cô ta chỉ giữ có thế, y đã đá bay cô ta ngay từ đầu rồi.
Mười tiếng chuông và Eddie vẫn không nghe máy. Lenny cúp máy và uống một ngụm cà phê to tướng. Cái gã lùn mã tử đó đâu rồi? Mỗi ngày y gọi điện tới nhà Eddie hơn chục lần, nhưng không hiểu hắn đi đâu mất. Lenny phải bảo hắn gọi điện bảo gã sát thủ kia dừng tay đi. Hai bồi thẩm đã bị giết và nếu Eddie tiễn cả hội bồi thẩm đó về chầu ông bà ông vải, cảnh sát rồi cũng sẽ đánh hơi ra thôi.
Có cách nào né tránh vụ này không nhỉ? Lenny thở dài thườn thượt. Y có thể bảo rằng họ chỉ nói đùa, và y không hề mong Eddie lại đi làm một chuyện điên rồ như vậy, nhưng nghe chẳng thuyết phục tẹo nào. Chuyện này có thể khiến mọi thứ nghiêm trọng. Nếu Eddie mở mồm nói với sai người, y sẽ đi bóc lịch vì phạm một trọng tội. Hoặc hai trọng tội. Hoặc bao nhiêu đó nếu gã dở hơi nhỏ thó kia không về nhà sớm.
Lenny mở báo và nhìn trang nhất. Và y thấy một gương mặt trắng ởn. Quỷ thần thiên địa ơi! Kẻ thứ ba rồi!
Báo đăng bức hình Lester Robinson và vợ trước nhà tang lễ. Margo đã phải lòng Lester khi họ cùng làm bồi thẩm, và cô ả sụt sùi khóc lóc mãi khi nhận được thiệp mời cưới của người kia vào tám năm trước.
Lenny rên rỉ khi đọc về vụ sát hại Lester. Hung thủ cũng khá thông minh; hắn cắt xác anh chàng nghệ sĩ kia trông như thể tác phẩm của một kẻ điên, nhưng cảnh sát sẽ nắm vấn đề rất nhanh. Trước tiên, họ sẽ truy nã Michael Hart. Gã đó là nghi phạm đáng ngờ nhất. Nhưng nếu các sĩ quan cảnh sát không tìm được gã thì sao? Hoặc giả như Hart có bằng chứng ngoại phạm? Hoặc nếu gã sát thủ của Eddie giết kẻ tiếp theo sau khi Hart đã bị bắt? Thế thì chuyện sẽ rối tinh và y không thể làm gì để sửa chữa được.
“Mike à? Stan đây. Chú biết tin gì chưa?”
Michael lưu tệp tin và ngả người ra ghế. “Chưa, Stan. Lại một bồi thẩm nữa chết à?”
“Sao chú biết? Chú vừa bảo chưa xem thời sự cơ mà.”
“Thì đó, em chưa xem. Nhưng đấy là lí do duy nhất anh gọi cho em giữa thanh thiên bạch nhật. Anh nói thật đấy hả, Stan?”
“Thật. Nhớ Lester Robinson làm dịch vụ tang lễ không?”
“Chắc rồi.” Michael thở dài. “Anh ta ngồi ghế sau. Tóc vàng mỏng, mặt tròn, lúc nào cũng đổ mồ hôi đấy.”
“Phi thường đấy, Mikey. Trí nhớ của chú tốt thật. Anh chẳng nhớ hắn ta lắm.”
“Em là diễn viên mà, Stan. Bọn em được học cách tìm kiếm loại hình nhân vật mà. Thế anh ta chết thế nào?”
“Không đẹp lắm, Mike. Tốt nhất anh không đi sâu vào chi tiết để khỏi làm chú buồn. Chú chỉ cần biết hắn ta được tìm thấy chết trong nhà tang lễ của mình vào sáng nay.”
“Đau tim à?”
“Không, Mikey. Bị giết.”
Michael bắt đầu thấy hoảng thật. Anh biết tối qua mình lại mơ thấy giấc mơ đó. Anh còn nhớ mang máng. Và chắc chắn anh đã mộng du. Có một khoảng trống lớn giữa lúc anh ngủ tại nhà Toni tới lúc anh mở mắt sáng nay và thấy mình nằm trên giường mình. Anh còn mơ gì đó về chiếc taxi đưa anh đi trong đêm. Đó chỉ là tưởng tượng, hay nó thực sự xảy ra nhỉ?
“Mikey? Chú còn giữ máy chứ?”
“À... còn, Stan. Em chỉ bàng hoàng quá thôi. Cảnh sát đã tìm ra hung thủ chưa?”
“Họ đã bắt một nghi phạm để thẩm tra, và người quen của anh bên phân khu cảnh sát đó nói chắc chắn đấy là thủ phạm rồi. Gã đó đúng là đồ điên. Vẫn phương pháp gây án như cũ, dù trước đây hắn chưa từng giết người.”
“Chuyện đó xảy ra thế nào?”
“Rõ ràng là Robinson đã bắt quả tang có kẻ đột nhập vào nhà mình, để...” - Stan dừng lại và hắng giọng - “ờ, phần đó không liên quan lắm. Anh chỉ muốn trấn an chú rằng họ không thể nào lại liên kết chú với vụ này được đâu. Anh mong mình không làm chú quá phiền muộn, Mikey ạ.”
“Không có đâu anh.”
Michael thấy nhẹ cả người. Nếu cảnh sát đã bắt được hung thủ, vậy chẳng có lí gì anh phải nghi ngờ mình đã làm gì đó trong lúc ngủ, trừ việc đi trên hành lang để trở về nhà. “Cảm ơn đã báo tin cho em nhé, Stan. Tối nay anh sẽ gọi lại chứ?”
“Tất nhiên rồi, Mikey. Chú không phải lo lắng về chuyện đó đâu.”
Michael nhoẻn miệng cười. Anh chẳng lo gì hết. Anh còn hi vọng không phải nghe điện thoại mỗi tối để được ở suốt bên Toni cơ.
“Anh có chắc là có thể làm gì đó cho em không, Stan?”
“Mọi việc chú muốn, Mikey. Chú cứ hỏi là được.”
“Em đang nghĩ tới nhà của dì Alice, ngôi nhà mà dì ở hồi chúng ta mới đến sống cùng dì ấy, và em tự hỏi là còn bức hình nào không?”
“Hình à?” Stan có vẻ ngạc nhiên. “Anh không có. Sao chú lại cần nó?”
Michael suy nghĩ thật nhanh. Anh không thể nào lại bô bô nói rằng mình đang viết tự truyện và cần nó để lấy cảm hứng tả cảnh. Stan hẳn sẽ đòi đọc bằng được bản thảo đã hoàn thành, và chắc sẽ không hài lòng chút nào với nhân vật lấy nguyên mẫu từ anh ấy.
“Chỉ là em cứ nghĩ tới nó suốt thôi. Em biết chúng ta ngủ riêng phòng, nhưng em không thể mường tượng ra điều gì ngoài hai cái phòng ngủ. Phòng của dì Alice ở dưới nhà. Em nhớ vậy. Phòng em cũng thế. Nhưng phòng anh ở đâu?”
“Chú có chắc rằng đào xới kí ức sẽ tốt cho chú không đấy, Mikey? Chú phải cẩn thận giữ tinh thần ổn định chứ.”
“Đừng lo. Từ hồi anh đưa em ra khỏi Oakdale tới giờ em vẫn ổn. Chỉ là tối qua em tự dưng nhớ lại ngôi nhà đó, và em muốn có một bức hình rõ ràng thôi.”
“À, thế thì lại khác.” Stan nhẹ nhõm hẳn. “Để kiểm tra khả năng nhớ thực tế của mình, hả?”
“Vâng.”
“Vậy anh giúp được. Anh chưa từng quên bố cục nhà đó. Dì Alice đã sửa phòng ăn làm phòng ngủ cho chú. Vì thế mà chúng ta luôn ăn trong bếp, kể cả khi có khách đến chơi. Anh ngủ trên gác.”
“Sao dì không cho em ngủ trên gác cùng anh? Phòng cũng rộng mà, nhỉ?”
“Thênh thang ấy chứ - bằng chiều dài ngôi nhà. Nó là gác xép thì đúng hơn là phòng ngủ. Nhưng chú phải nhớ là mình bị mộng du đấy nhé, Mikey. Dì Alice sợ chú ngã cầu thang. Và còn một lí do khác nữa.”
“Là gì vậy?”
“Trên đó hơi đáng sợ với một đứa nhóc. Toàn xà dầm rồi các khoảng trống dành cho ống khói. Dì sợ chú gặp ác mộng, và dì sẽ phải lên gác mỗi tối. Anh lớn hơn, và chắc dì nghĩ anh không sợ mấy cái đó.”
“Vậy nên dì hi sinh phòng ăn cho em?”
“Trong hai năm. Sau đó chúng ta chuyển vào một căn hộ chung cư. Dì Alice và anh có phòng ở phía sau, còn chú chiếm phòng ngủ lớn.”
“Em nhớ nơi đó. Anh có biết sao dì lại cho em phòng lớn không, Stan?”
“Dễ đoán thôi. Chú có cả một bộ sưu tập đầy những con thú nhồi bông mà không thể nào để vừa các phòng nhỏ hơn. Dì Alice thường cứ mỗi tuần lại mua cho chú một con. Anh từng đếm rồi, và có đến hơn ba trăm con đấy.”
Michael gật đầu. Anh còn nhớ đám đồ chơi ấy. “Hồi đó dì Alice chắc cũng dư dả.”
“Cũng không hẳn. Nhưng chú còn bé, và dì bảo trẻ em phải lớn lên và có đồ chơi bầu bạn. Chú còn nhớ con sư tử nhồi bông được tặng vào dịp Giáng Sinh không? Nó cao bét cũng phải năm foot. Dì đã chụp ảnh chú cùng con sư tử đó, và nó còn to hơn chú.”
Michael nhíu mày khi bắt đầu nhớ lại những món quà đẹp đẽ dì Alice từng tặng mình. “Thế Giáng Sinh năm đó anh được gì, Stan?”
“À, anh chẳng nhớ. Chắc một cuốn sách. Dì Alice luôn tặng anh sách. Dì bảo dì muốn anh trở thành một học sinh giỏi. Và nếu anh không đứng đầu lớp, dì sẽ không vui lòng.”
“Nhưng anh luôn học xuất sắc mà, Stan. Em còn nhớ học bạ của anh. Dì Alice chắc tự hào về anh lắm.”
“Dì chưa từng nói thế. Chưa lần nào cả.” Có chút chua chát trong giọng Stan khiến Michael nhăn mặt. “Nếu anh học tốt, dì bảo đấy là vì dì bắt anh chăm chỉ. Còn nếu có bài kiểm tra nào điểm anh thấp đi một chút, anh sẽ bị ăn mắng. Anh mà không đạt điểm đúng khả năng thì đó hoàn toàn là lỗi của anh.”
Michael thở dài. “Vậy chắc dì buồn vì em lắm. Em chưa từng được tuyên dương trước toàn trường.”
“Không đâu, Mike. Nếu chú bị điểm kém, đấy là lỗi của giáo viên, không phải của chú. Với dì Alice thì chú chẳng làm gì sai hết.”
“Em ngạc nhiên là anh không ghét em đấy, Stan. Nghe có vẻ anh có lí do để không thích em mà.”
“Đừng ngốc vậy, Mike. Chú là em trai anh. Mà anh cũng đoán được lí do của dì Alice từ lâu rồi. Chú giống mẹ, mà dì Alice quý chị mình. Điều đó có thể giúp dì ấy được gặp lại chị mình. Anh thì giống bố. Dì Alice luôn trách bố vì vụ tai nạn đó, chú biết mà. Nếu bố đến thăm thì dì vẫn tiếp, nhưng dì chẳng mặn mà gì với bố.”
Michael im lặng. Hồi trước anh chẳng hiểu gì về chuyện này. Tất nhiên anh biết dì thiên vị mình, nhưng có vẻ Stan bị thiệt thật. Nếu anh mà rơi vào vị trí của Stan, anh không nghĩ mình có thể vị tha như thế.
“Thôi, anh cúp máy đây, Mike. Chuyện kháng cáo của chú vẫn thuận lợi, nhưng còn nhiều việc phải làm lắm. Hôm nay Joyce nghỉ trưa thêm một tiếng, nhưng ngay khi cô ấy về, anh sẽ bảo cô ấy in hồ sơ vừa nhập vào máy hôm qua. Sau đó, anh có thể bắt đầu xử lí những chỗ còn vướng mắc.”
“Hồ sơ trong máy anh hả?”
“Ừ.”
“Anh dùng dòng máy gì, Stan?”
“IBM. Anh toàn mua đồ của hãng này. Người ta cài đặt máy rồi hướng dẫn các thư kí sử dụng.”
“Anh dùng hệ điều hành gì?”
Một quãng im lặng, rồi khi Stan trả lời, giọng anh ấy dè dặt. “Anh không chắc, Mikey. Hình như D gì đó thì phải. Họ bảo anh rồi, nhưng nó là một thuật ngữ máy tính, và anh không để ý mấy.”
“Máy anh có phần mềm Microsoft Word không?”
“Nghe quen quen. Sao thế?”
“Nếu anh cần hồ sơ đó ngay, em nghĩ mình có thể chỉ anh cách in. Có bút chứ?”
“Có, đợi tí nhé.” Michael nghe tiếng anh trai mở ca táp. “Rồi, Mike. Nói đi.”
“Anh cần mở tệp tin ra. Anh biết cách không?”
Stan thở dài. “Giờ anh biết rồi. Một luật sư tập sự vừa dạy anh hôm kia.”
Giọng Stan nghe buồn buồn, và Michael quyết định không nói ra câu công việc đó dễ ẹc. Anh trai anh rõ ràng đang ngượng vì bị buộc phải nhờ người khác giúp.
“Đầu tiên anh khởi động máy in, nếu nó chưa được bật. Chắc là có công tắc bật-tắt ở đâu đó. Rồi anh làm thế nào để bật tệp tin lên. Khi thấy nó trên màn hình rồi, anh ấn nút Escape, cái nút có chữ ESC ấy. Chỉ tầm một giây là anh sẽ thấy bảng chọn ở dưới cùng với đủ các thứ mà anh không phải lo đến đâu. Cứ ấn nút P để in và rồi ấn Enter. Thế là in được tệp tin thôi.”
“OK. Anh ghi xong rồi. Mà sao chú biết thế?”
“Dễ mà. Họ gửi cho em sách hướng dẫn đi kèm cái máy tính anh mua cho em. Nó ở ngay trước mặt em, và em đọc cho anh thôi.”
“Hèn gì!” Stan có vẻ an tâm. “Mà này, chú có chắc máy anh cũng dùng như thế không?”
“Em chẳng chắc gì cả, nhưng thử cũng có chết ai.”
“Cảm ơn nhé, Mikey. Anh sẽ làm xem. Cái máy tính anh gửi không làm chú bực mình chứ?”
“Không, không chút nào.”
“Vậy chú thấy nó dễ dùng hả?”
Có chút sắc bén trong giọng Stan, và Michael dè chừng hẳn. “Đâu có, Stan. Chắc chắn là không dễ dùng rồi, nhưng anh nhớ chứ, em chỉ nghịch thôi. Nếu gặp cái gì khó thì em bỏ qua và chuyển sang cái khác đơn giản hơn.”
“Ờ, nghe thế còn có lí.” Stan thở dài thườn thượt. “Chắc máy tính chỉ gây bực mình khi chú dùng nó vào việc nghiêm túc thôi. Được rồi, Mikey. Anh sẽ trở về cơ quan và thử làm theo hướng dẫn chú vừa đọc. Và anh sẽ gọi lại cho chú lúc chín giờ. Được chứ?”
“Được ạ.”
Michael cúp máy và mỉm cười. Không có cuốn sách hướng dẫn nào ở trước mặt anh cả, nhưng dại gì mà nói? Stan sẽ thấy tốt nếu có thể in được hồ sơ đó. Anh ấy sẽ cho rằng đấy là do mình thông minh hơn người. Nhưng nếu mà hỏng, anh ấy sẽ trách hướng dẫn vớ va vớ vẩn của Michael.
Khi quay lại công việc viết lách, Michael nhận ra Stan rất giống dì Alice. Dì bảo nhờ dì mà Stan làm bài kiểm tra ngon nghẻ. Nhưng nếu anh mà không được điểm tuyệt đối, đó là do Stan không học đủ chăm. Giờ Stan đối xử với Michael hệt như dì Alice từng đối xử với anh ấy.
* * *