Hannibal - Chương 09
CHƯƠNG 9
Trang trại Muskrat có một vẻ đẹp ma quái - đó là biệt thự của gia đình Verger gần sông Susquehanna ở Bắc Maryland. Đế chế thịt hộp Verger mua lại trang trại này vào những năm 1930 khi họ từ Chicago dời về phía Đông để được gần Washington hơn, và họ dư sức mua nó. Sự nhạy bén trong kinh doanh và chính trị đã giúp nhà Verger nuốt chửng những hợp đồng thịt của quân đội Mỹ từ thời Nội chiến.
Vụ xì căng đan “thịt đông lạnh” trong cuộc chiến Tây Ban Nha - Hoa Kỳ chẳng ảnh hưởng gì đến nhà Verger. Khi Upton Sinclair và đám nhà báo điều tra những nhà xưởng đóng hộp có điều kiện nguy hiểm, họ phát hiện nhiều công nhân của Verger đã bị nghiền thành mỡ một cách vô tình; mỡ này được đóng hộp và bán với tên gọi Mỡ Lá Durham, nhãn hiệu yêu thích của những nhà làm bánh. Lời buộc tội không ích gì với nhà Verger. Vụ việc chẳng làm gia đình này mất bất cứ một hợp đồng với chính phủ nào.
Nhà Verger tránh mọi bê bối có thể xảy ra bằng cách chi tiền cho giới chính trị. Lần thiệt thòi duy nhất của họ là Luật Thanh tra Thịt vào năm 1906.
Hiện nay nhà Verger giết mổ tám mươi sáu ngàn con bò một ngày, và khoảng ba mươi sáu ngàn con lợn, con số này thay đổi chút ít tùy theo mùa.
Bãi cỏ mới cắt của trang trại Muskrat với hương hoa tử đinh hương khuấy lên trong gió không giống mùi của một bãi chăn thả chút nào. Thú vật chỉ có vỏn vẹn những chú ngựa lùn cho đám trẻ tham quan và mấy đàn ngỗng trông ngồ ngộ đang gặm cỏ, đầu cắm xuống cỏ, cái mông lúc lắc. Không có con chó nào. Ngôi nhà, chuồng gia súc và sân vườn nằm gần trung tâm một khu rừng quốc gia rộng sáu dặm vuông, và sẽ tồn tại ở đó lâu dài dưới chính sách miễn thuế đặc biệt của Sở Nội vụ.
Giống như mọi khu đất riêng của những kẻ giàu sụ, trang trại Muskrat rất khó tìm khi ta tới lần đầu tiên. Clarice Starling đi mãi trên một dốc ra trên xa lộ. Quay lại theo đường phụ trợ*, cô gặp lối vào để giao hàng trước nhất - đó là một cánh cổng lớn có xích khóa giữa hàng rào cao bao quanh khu rừng. Sau cánh cổng, một con đường cho xe cứu hỏa mất hút sau lùm cây. Không có trạm điện thoại nào. Đi tiếp hai dặm, cô tìm thấy chòi gác thụt vào khoảng một trăm thước dọc theo một lối đi tuyệt đẹp. Người gác mặc đồng phục ghi tên cô vào bảng danh sách.
Cô đi thêm hai dặm đường được chăm sóc kỹ càng để đến trang trại.
Starling thắng chiếc Mustang kêu ì ì của cô lại cho một bầy ngỗng băng qua đường. Cô trông thấy một đám con nít cưỡi những chú ngựa lùn Shetland ục ịch rời khỏi chuồng ngựa xinh xắn cách nhà một phần tư dặm. Tòa nhà chính trước mặt cô là một lâu đài do Stanford White thiết kế được dựng khéo léo giữa những quả đồi thoai thoải. Nơi đây trông thật vững chắc và màu mỡ, đúng là lãnh thổ của những giấc mơ ngọt ngào. Nó làm Starling dâng trào cảm xúc.
Gia đình Verger đủ hiểu biết để duy trì căn nhà y như cũ ngoại trừ một chỗ thêm thắt duy nhất mà Starling chưa nhìn thấy. Một chái nhà hiện đại lòi ra ở mặt phía Đông giống như một cái chân thừa được gắn vào trong một thí nghiệm y khoa kỳ quặc.
Starling đậu xe bên dưới cổng chính. Khi động cơ tắt rồi, cô nghe được cả tiếng thở của chính mình. Qua gương, cô nhìn thấy một người đang cưỡi ngựa tiến đến. Giờ thì tiếng vó ngựa đã lóc cóc bên vệ đường kế bên xe trong khi Starling bước ra.
Một người vai rộng, tóc vàng cắt ngắn nhảy xuống yên ngựa rồi đưa dây cương cho một gã bồi mà không hề liếc nhìn hắn. “Dẫn nó về đi.” Người cưỡi ngựa nói bằng giọng trầm thô ráp. “Tôi là Margot Verger.” Lại gần nhìn hóa ra đó là một phụ nữ. Ả dang rộng tay ra ngang vai. Rõ ràng Margot Verger là một người chịu khó tập thể hình. Bên dưới cái cổ gân guốc là một bờ vai khổng lồ và hai cánh tay kéo căng cả cái áo thun chơi quần vợt ả mặc. Mắt ả ánh lên khô khốc và có vẻ khó chịu như là bị thiếu nước mắt. Ả mang đôi ủng đi ngựa không có đinh thúc với quần túm ống bằng vải chéo.
“Cô đi gì tới đây vậy?” ả hỏi. “Mustang cổ hả?”
“Kiểu của năm tám tám.”
“Loại năm lít à? Cái loại xe thấp tè mà bánh to đùng chứ gì.” “Vâng. Nó là một chiếc Roush Mustang.”
“Cô thích nó chứ?”
“Rất thích.”
“Nó thì làm được gì?”
“Tôi không rõ. Vừa đủ, tôi nghĩ vậy.”
“Cô sợ nó à?”
“Tôi trân trọng nó. Phải nói là tôi sử dụng nó một cách trân trọng,” Starling đáp.
“Cô có biết về nó à? Hay chỉ mua đại vậy thôi?”
“Tôi biết đủ để mua được nó ở một cuộc đấu giá khi tôi thấy nó. Tôi học hỏi thêm sau đó.”
“Cô nghĩ liệu nó có đánh bại được chiếc Porsche của tôi không?”
“Tùy xem là xe Porsche nào. Cô Verger, tôi cần nói chuyện với anh trai cô.”
“Năm phút nữa họ mới tắm xong cho anh ấy. Lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu.” Chiếc quần túm vải chéo kêu sột soạt khi cọ vào cặp đùi to cơ của Margot Verger lúc ả bước lên cầu thang. Mái tóc vàng óng màu bắp của ả có đường chân tóc cao bất thường khiến Starling phải thắc mắc không biết có phải ả đã uống steroid* và phải bó nhỏ cái âm vật lại không.
Đối với Starling, một người đã sống cả thời thơ ấu trong trại mồ côi Lutheran thì căn nhà này trông như một bảo tàng với không gian rộng lớn và những thanh xà sơn màu; trên tường treo chân dung của những người quá cố có vẻ đều là nhân vật quan trọng. Đồ sứ Trung Hoa để ngay đầu cầu thang và những tấm thảm Ma rốc dài trải khắp các sảnh.
Có một sự chuyển biến đột ngột trong phong cách của chái nhà mới xây trong dinh thự nhà Verger. Qua lớp cửa đôi kính mờ là một cấu trúc hiện đại không phù hợp với tòa sảnh hình vòm.
Margot Verger dừng lại ngoài cửa. Ả liếc Starling, ánh mắt lóe lên vẻ khó chịu.
“Vài người gặp khó khăn khi nói chuyện với Mason” ả nói. “Nếu cô thấy phiền hay không chịu nổi, tôi có thể cho cô biết thêm sau về bất cứ điều gì cô quên không hỏi anh ấy.”
Có một cái cảm giác thông thường mà chúng ta đều nhận thấy nhưng chưa đặt tên - sự mong đợi niềm vui sướng khi ta có thể coi khinh ai đó. Starling thấy điều ấy trên mặt Margot Verger. “Cảm ơn,” cô chỉ nói vậy.
Starling ngạc nhiên khi thấy phòng đầu tiên của chái nhà là một căn phòng đồ chơi rộng rãi, được trang bị hiện đại. Hai đứa trẻ người Mỹ gốc Phi đang chơi giữa đống thú nhồi bông quá cỡ, một đứa đang lái chiếc xe đạp ba bánh có bánh trước to đùng còn đứa kia đang đẩy một chiếc xe tải trên sàn nhà. Có đủ các loại xe ba bánh và xe tải để đầy trong góc và ngay chính giữa là một phòng tập thể hình to có sàn lót rất dày.
Trong góc phòng đồ chơi, một người đàn ông dáng cao cao mặc đồng phục y tá ngồi trên chiếc ghế yêu thích đọc tờ Vogue. Rất nhiều máy quay gắn trên tường, cái cao cái vừa tầm mắt. Có một máy đặt ở góc cao trên phòng quay Starling và Margot Verger với ống kính xoay để lấy nét.
Starling đã qua cái thời nhói lòng trước sự xuất hiện của một đứa trẻ da màu, tuy nhiên cô nhận thấy rõ ràng sự có mặt của những đứa trẻ này. Thật dễ chịu khi ngắm nhìn chúng chơi đùa vui vẻ trong lúc Margot Verger và cô đi ngang căn phòng.
“Mason thích ngắm nhìn lũ trẻ,” Margot Verger nói. “Tụi nó sợ phải nhìn thấy anh ấy, trừ những đứa quá bé nên anh ấy phải làm vậy. Chút nữa chúng sẽ cưỡi ngựa. Ban ngày chúng được gửi ở đây bằng tiền phúc lợi nhi đồng của Baltimore.”
Muốn vào phòng của Mason Verger phải đi qua nhà tắm. Nó như là một spa chiếm hết chiều rộng của chái nhà. Trông nó chẳng khác nào một trụ sở với tất cả những đồ bằng thép, crôm, thảm công nghiệp, với những phòng tắm vòi sen cửa rộng, những bồn thép không gỉ có thiết bị nâng ở trên, những cuộn ống nước màu cam, những phòng tắm hơi và những tủ kính lớn chứa thuốc bôi từ Farmacia* của Santa Maria Novella ở Florence. Trong phòng tắm vẫn còn hơi nước do có ai đó mới sử dụng. Mùi nhựa thơm và lộc đề vẫn còn vương vất trong không khí.
Starling thấy ánh sáng dưới cửa phòng Mason Verger. Ánh sáng tắt đi khi em gái hắn động vào tay nắm cửa.
Dãy ghế ngồi ở góc phòng của Mason Verger được chiếu sáng gay gắt từ phía trên. Một tiêu bản tranh “The Ancient of Days” (Đấng Thượng cổ) được lưu hành của William Blake treo phía trên trường kỷ - Chúa đang đo đạc bằng chiếc compa của người. Bức tranh được che mành đen để tưởng niệm người chủ gia đình Verger mới qua đời gần đây. Phần còn lại của căn phòng tối đen.
Từ bóng tối vọng lên tiếng máy chạy đều đều, có tiếng thở ra theo mỗi nhịp đập.
“Chào buổi chiều, đặc vụ Starling.” Một giọng nói vang vang bởi máy khuếch âm, phụ âm b trong chữ buổi bị mất hút.
“Chào ông Verger,” Starling nói vào bóng tối, ánh đèn nóng rát trên đỉnh đầu cô. Buổi chiều hẳn là đang ở đâu đó. Buổi chiều chưa vào tới nơi đây.
“Ngồi đi.”
Phải làm thôi. Bây giờ là tốt nhất. Bây giờ là hợp lý nhất.
“Ông Verger, cuộc thảo luận này của chúng ta là một lời cung khai và tôi cần phải thu âm lại. Ông thấy được không?”
“Sao lại không?” Tiếng nói vang ra giữa những nhịp thở của máy. “Margot, giờ cô có thể để yên cho chúng tôi được rồi.”
Không nhìn Starling lấy một cái, Margot Verger rời khỏi phòng với cái quần cưỡi ngựa kêu rin rít.
“Ông Verger, nếu ông không phiền, tôi muốn gắn cái micrô lên áo hay gối của ông. Hay là tôi gọi y tá gắn cho ông vậy nếu ông muốn.”
“Cô muốn thế nào cứ bảo tôi,” hắn nói, không có âm m và âm b. Hắn chờ lực từ nhịp thở kế tiếp của máy thở. “Cô có thể tự làm, đặc vụ Starling. Tôi ở ngay đây.”
Starling không tìm thấy công tắc bật đèn ngay. Cô nghĩ mình sẽ nhìn rõ hơn nếu không có ánh sáng làm mắt chói lòa và cô bước vào bóng tối, một tay với về phía trước, về hướng mùi lộc đề và nhựa thơm.
Khi hắn bật đèn lên, cô đã ở gần giường hơn cô tưởng.
Mặt Starling không biến sắc. Bàn tay cầm micrô giật lại khoảng ba phân.
Ý nghĩ đầu tiên của cô tách rời cảm giác ở ngực và bụng; cô nhận ra rằng sự dị thường trong tiếng nói của hắn là do mất hết cả hai môi. Ý nghĩ thứ hai là cô nhận biết được hắn không bị mù. Con mắt duy nhất của hắn nhìn cô qua một cái kính đơn có gắn ống giữ ẩm vì nó không có mi mắt. Còn lại thì bác sĩ phẫu thuật nhiều năm về trước đã làm mọi thứ có thể để vá da bao lại xương.
Mason Verger không có mũi và môi, không có phần mềm nào trên mặt cả, chỉ toàn là răng như một con thú dưới đại dương sâu thẳm. Với những ai đã quen nhìn thấy mặt nạ, độ sốc khi trông thấy hắn sẽ giảm đi phần nào. Sự kinh hoàng chỉ ùa đến khi ta nhận ra đây là gương mặt người có tâm trí. Bạn cảm thấy thắt lại vì chuyển động của gương mặt, cách phát âm của bộ hàm, cái quay mắt nhìn bạn, nhìn vào gương mặt bình thường của bạn.
Tóc của Mason Verger khá đẹp và, oái oăm thay, lại là thứ khó nhìn thấy nhất. Mái tóc có cả màu đen lẫn xám được tết thành bím dài vừa đủ chạm đất nếu không đặt lên gối. Hôm nay, bím tóc của hắn xoắn thành cuộn lớn trên ngực bên trên cái máy thở hình con rùa. Một mái tóc con người trên thân xác bị hủy hoại, bím tóc sáng lên như vảy cá xếp chồng lên nhau.
Dưới tấm mền, cơ thể tê liệt của Mason Verger teo lại nhỏ xíu trên chiếc giường xếp.
Trước mặt hắn là thiết bị điều khiển trông như chiếc khèn hay một chiếc harmonica bằng nhựa trong. Hắn cong cái lưỡi hình ống cuộn lấy một đầu ống thở và thở mạnh ra theo nhịp của máy hô hấp. Cái giường kêu lên khi hắn quay nhẹ sang nhìn Starling và nhấc đầu lên.
“Tôi cảm ơn Chúa vì những gì đã qua,” Verger nói. “Đó là sự cứu rỗi dành cho tôi. Cô có tin Chúa không cô Starling? Cô có đức tin không?”
“Tôi được nuôi dạy trong môi trường tín ngưỡng, ông Verger ạ. Tôi có bất kỳ thứ gì ông có,” Starling nói. “Bây giờ nếu như ông không phiền, tôi sẽ kẹp cái này vào gối. Đặt nó ở đấy sẽ không vướng víu gì, đúng không?” Giọng cô đầy vẻ sôi nổi và tận tình, không giống cô chút nào.
Cô đặt tay dưới đầu hắn và thấy rằng sự đụng chạm đó không giúp đỡ gì hơn cho mình cũng như cho nhịp đập trong những mạch máu cấy lên xương mặt hắn để bơm máu vào. Chúng dãn nở như những con giun đang nuốt thức ăn.
Một cách khoan thai, cô thả dây ra và quay về cái bàn có máy ghi âm cùng với micrô của cô.
“Đây là đặc vụ Clarice M. Starling, số thẻ FBI 5143690, lấy lời khai của Mason R. Verger, số an sinh xã hội 475989823, tại nhà của ông ấy vào ngày đóng dấu bên trên, đã tuyên thệ và xác thực. Ông Verger hiểu rằng ông đã được Viện Chưởng lý Mỹ quận Ba mươi sáu và chính quyền địa phương đặc miễn truy tố theo bản điều khoản liên kết đính kèm, đã tuyên thệ và xác thực. Bây giờ, ông Verger…”
“Tôi muốn kể cho cô về chuyện cắm trại,” hắn ngắt lời ở hơi thở kế tiếp. “Thực ra, đó là một trải nghiệm tuổi thơ tuyệt vời mà tôi được trở về.”
“Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau, ông Verger, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta…”
“Ồ, chúng ta có thể nói chuyện đó ngay bây giờ, cô Starling. Cô biết đấy, mọi chuyện đều liên quan đến nhau. Tôi đã gặp Chúa như thế nào và tôi sẽ không kể cho cô chuyện gì quan trọng hơn thế.” Hắn ngừng lại để máy thở ra. “Đó là một cuộc cắm trại của nhà thờ mà cha tôi đã tài trợ tiền. Ông ấy trả tất cả, cho cả đám một trăm hai mươi lăm người tham gia cắm trại trên hồ Michigan. Vài đứa trong số đó rất bất hạnh và chúng có thể làm bất kỳ việc gì chỉ vì một thanh kẹo. Có lẽ tôi đã lợi dụng điều đó, có lẽ tôi đã cộc cằn với chúng khi chúng không ăn sô cô la hay làm những gì tôi muốn. Tôi không giấu giếm điều gì vì mọi chuyện giờ đều ổn thỏa rồi.”
“Ông Verger, hãy xem qua một số tài liệu có cùng…”
Hắn không thèm nghe cô nói. Hắn chỉ chờ cái máy cung cấp hơi thở. “Cô Starling, tôi có lệnh miễn truy tố, và mọi chuyện bây giờ ổn cả rồi. Tôi được đặc cách miễn xá của Giêsu. Tôi được miễn xá từ Viện Chưởng lý của Mỹ. Tôi được miễn xá từ Viện Chưởng lý ở Owing Mills, lạy Chúa. Tôi được tự do, cô Starling ơi và mọi thứ bây giờ ổn cả. Tôi đã đúng mực với Ngài và bây giờ mọi thứ ổn cả. Ngài là Chúa hồi sinh và ở trại chúng tôi gọi ngài là Đức Riz. Không ai có thể đánh bại Đức Riz. Cô biết đấy, chúng tôi đã tạo nên người đương thời, chính là Đức Riz. Tôi đã phụng sự Ngài ở châu Phi, lạy Chúa. Tôi đã phụng sự Ngài ở Chigaco, tán dương tên tuổi Ngài và giờ đây tôi đang phụng sự Ngài rồi Ngài sẽ nâng tôi dậy khỏi cái giường này và Ngài sẽ trừng phạt những kẻ thù của tôi, bắt chúng quỳ trước tôi và tôi sẽ nghe tiếng than khóc từ những người đàn bà của chúng, và mọi thứ giờ đây đều ổn cả.” Bị sặc nước bọt, hắn liền ngừng lại. Những gân máu trên trán hắn sẫm lại và giần giật.
Starling đứng dậy kêu y tá nhưng trước khi đến được cửa thì tiếng hắn cất lên ngăn cô lại.
“Tôi ổn rồi, mọi việc giờ ổn rồi.”
Có lẽ đưa ra câu hỏi trực tiếp sẽ tốt hơn là cố gắng dẫn dắt hắn. “Ông Verger, trước khi tòa trao ông cho bác sĩ Lecter chữa trị thì ông có biết hắn không? Ông có biết hắn trong quan hệ xã giao không?”
“Không.”
“Cả hai người đều trong ban điều hành dàn nhạc giao hưởng Baltimore.”
“À không, vị trí tôi có được là do chúng tôi đóng góp tiền. Tôi đưa luật sư của mình đi dự cùng mỗi khi có bỏ phiếu.”
“Ông chưa phát biểu lần nào trong phiên xét xử sơ thẩm bác sĩ Lecter.” Cô bắt đầu biết cách hỏi từ từ để hắn có thể thở kịp mà trả lời.
“Họ bảo rằng có đủ chứng cứ để buộc tội hắn sáu đến chín lần. Nhưng hắn đã lấy cớ là điên loạn để chối bỏ tất cả.”
“Tòa thấy hắn bị điên. Bác sĩ Lecter không có van xin gì.”
“Cô thấy sự phân biệt đó có gì quan trọng không?” Mason hỏi.
Với câu hỏi đó, lần đầu tiên cô cảm ra được tâm tư của hắn, thấu rõ và sâu sắc, khác biệt với những từ ngữ hắn tuôn ra trước cô.
Con lươn bự giờ đã làm quen với ánh sáng, ngóc đầu lên từ bờ đá trong hồ cá và bắt đầu cuộn vòng liên tục như một dải ruy băng lay động màu nâu điểm những điểm sáng màu kem bất thường tuyệt đẹp.
Qua khóe mắt, Starling thấy rõ con lươn đang bò.
“Nó là giống Muraena Kidako,” Mason nói. “Có một con bắt được ở Tokyo còn to hơn con này. Đây là con lớn thứ hai. Tên thường gọi của nó là Lươn Sát Thủ, cô có muốn biết tại sao không?”
“Không,” Starling đáp và lật một trang trong cuốn sổ của cô. “Vậy là thể theo liệu pháp tâm lý của tòa án, ông Verger, ông đã mời bác sĩ Lecter đến nhà.”
“Tôi không xấu hổ gì nữa. Tôi sẽ kể cô nghe mọi chuyện. Mọi chuyện giờ ổn rồi. Tôi sẽ được miễn tội vu khống quấy rối nếu phục vụ công ích năm trăm giờ đồng hồ, làm việc tại trạm giữ chó đi lạc và để cho cho bác sĩ Lecter trị liệu. Tôi đã nghĩ là nếu cứ để vị bác sĩ làm việc gì đó, tôi sẽ được nghỉ xả hơi và không có vi phạm cam kết nếu tôi luôn luôn có mặt hoặc giả như tôi bị kẹt cuộc hẹn nào đó một chút.”
“Chuyện này xảy ra khi ông còn căn nhà ở Owings Mills.”
“Đúng vậy. Tôi đã kể cho bác sĩ Lecter mọi chuyện, về châu Phi, Idi và tất cả. Tôi còn nói sẽ cho hắn xem vài đồ vật của tôi.”
“Ông cho hắn xem…?”
“Đồ trang bị cá nhân. Đồ chơi. Trong góc đằng kia là một cái máy chém xách tay nhỏ tôi dùng để chơi trò tổng thống Idi Amin*. Cô cứ quẳng nó vào phía sau xe jeep rồi đi đến bất cứ đâu, những làng quê xa xôi nhất. Lắp nó chỉ cần mười lăm phút. Mất khoảng mười phút để dùng tời tời nó lên, nếu là phụ nữ hay trẻ em thì lâu hơn một chút. Tôi không xấu hổ gì về chuyện đó vì tôi đã rửa tội rồi.”
“Vậy là bác sĩ Lecter đã đến nhà ông.”
“Vâng. Cô biết đấy, tôi mặc một bộ đồ da ra mở cửa. Quan sát coi có phản ứng gì không nhưng không thấy gì cả. Tôi cứ lo là hắn sợ tôi nhưng xem ra không phải vậy. Sợ tôi ư - bây giờ thấy thật buồn cười. Tôi mời hắn lên lầu. Tôi chỉ cho hắn xem mấy con chó tôi đã mang từ trại về nuôi, hai con rất thân với nhau nên tôi nhốt chung vào một cũi với rất nhiều nước nhưng không có thức ăn. Tôi tò mò muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Tôi chỉ cho hắn thấy cái thòng lọng của tôi, cô biết đấy, thủ dâm làm ngạt. Như là cô tự treo cổ mình nhưng không phải thế và cảm thấy thật tuyệt trong khi… Cô vẫn đang nghe tôi nói đấy chứ?”
“Tôi vẫn nghe đây.”
“Ừm, xem chừng hắn không hiểu được. Hắn hỏi tôi nó hoạt động thế nào và tôi nói rằng nếu không biết điều đó thì hắn đúng là một bác sĩ tâm thần kỳ quặc. Và hắn nói, tôi không bao giờ quên được nụ cười mỉm của hắn, hắn nói ‘Chỉ tôi xem’ Thế là tôi nghĩ rằng, Cắn câu rồi con ạ!”
“Và ông đã chỉ cho hắn.”
“Tôi không xấu hổ về việc đó. Chúng ta trưởng thành từ những lỗi lầm. Tôi đã được rửa tội.”
“Cứ tiếp tục đi ông Verger.”
“Thế là tôi kéo thòng lọng lại trước cái gương lớn, tròng cổ vào và buông tay rồi tôi lấy tay kia thủ dâm và theo dõi phản ứng của hắn. Nhưng tôi không thấy gì cả. Thông thường tôi có thể đọc được suy nghĩ của người khác. Hắn ngồi trên ghế ở góc phòng. Hai chân bắt tréo còn hai tay đan vào nhau đặt trên đầu gối. Sau đó hắn đứng lên, thò tay vào túi, lịch lãm như James Mason* và móc hộp quẹt ra. Hắn nói ‘Ông muốn xài thuốc ngửi amyl popper* không?’ Tôi nghĩ Oa! - hắn cho tôi bây giờ thì sẽ phải cho tôi mãi để giữ giấy phép hành nghề. Đúng là bọn buôn thuốc. Nếu cô đọc bản báo cáo, cô sẽ thấy nó không chỉ có amyl nitrite.”
“Angel Dust* và một số loại ma túy tổng hợp và axít,” Starling nói.
“Phải nói là chu choa! Hắn tiến đến cái gương tôi đang soi, đá vỡ chân gương để lấy một mảnh vỡ. Tôi đang bay bổng. Hắn đến gần đưa tôi một mảnh gương. Hắn nhìn tôi và bảo tôi dùng nó lột da mặt mình. Hắn thả chó ra. Tôi cho chúng ăn khuôn mặt của mình. Mất một lúc lâu, đấy là người ta nói thế. Tôi thì chả nhớ nữa. Bác sĩ Lecter lấy cái thòng lọng bẻ cổ tôi. Ở trại, người ta phải bom bao tử của mấy con chó ra để lấy lại cái mũi của tôi. Nhưng cấy ghép lại thì không được.”
Startling phải mất một lúc lâu hơn cần thiết mới sắp xếp lại được đống giấy tờ trên bàn.
“Ông Verger, gia đình ông đã treo giải thưởng sau khi bác sĩ Lecter trốn khỏi trại giam ở Memphis.”
“Đúng, một triệu đô la. Một triệu. Chúng tôi đăng quảng cáo trên toàn cầu.”
“Và ông cũng treo giải cho bất kỳ thông tin liên quan nào, không chỉ là bắt giữ và xử phạt thông thường. Ông dự định chia sẻ những thông tin đó với chúng tôi. Có phải ông luôn làm thế không?”
“Không hẳn thế. Nhưng chưa bao giờ có gì hay để chia sẻ cả.”
“Làm sao ông biết được? Có phải tự ông đã theo dấu một vài đầu mối không?”
“Chỉ vừa tới mức để biết rằng tất cả đều vô dụng. Và tại sao chúng tôi… các người không bao giờ nói gì cho chúng tôi. Chúng tôi nhận được một tin chả ra gì từ Crete và một từ Uruguay mà không tài nào xác nhận được. Cô Starling, tôi muốn cô hiểu rằng đây không phải là trả thù. Tôi đã tha thứ cho bác sĩ Lecter cũng giống như Chúa cứu thế đã tha thứ cho bọn lính La Mã.”
“Ông Verger, ông đã nói với cơ quan của tôi là ông đang có một số thứ.”
“Cô hãy nhìn vào ngăn kéo bàn trong cùng.”
Starling lấy đôi găng trắng bằng sợi bông trong túi xách ra rồi xỏ vào. Trong ngăn kéo có một bao thư lớn màu kem, cứng và nặng. Lấy ra một tấm hình X-quang, cô giơ lên ngọn đèn chói sáng trên đầu. Tấm hình X-quang của một bàn tay trái bị thương. Cô đếm các ngón tay. Bốn ngón và một ngón cái.
“Hãy nhìn xương bàn tay. Cô có biết tôi đang nói gì không?”
“Biết.”
“Đếm mấy cái đốt đi.”
Có năm đốt. “Tính cả ngón cái thì người này có sáu ngón ở bàn tay trái. Giống như bác sĩ Lecter.”
“Giống như bác sĩ Lecter.”
Phần góc của tấm phim X-quang có đề số và xuất xứ đã bị xén bỏ.
“Cái này ở đâu ra vậy ông Verger?”
“Rio de Janeiro. Để biết rõ hơn, tôi phải trả tiền. Rất nhiều tiền. Cô có thể nói cho tôi biết liệu đây có phải của bác sĩ Lecter không? Tôi cần phải biết có nên trả tiền không.”
“Tôi sẽ cố, ông Verger. Chúng tôi sẽ cố hết sức. Ngài có cái bao bì của tờ phim X-quang không?”
“Margot cất trong túi nhựa. Nó sẽ đưa cho cô. Cô Starling, nếu cô không phiền, giờ tôi hơi mệt và tôi cần được chăm sóc.”
“Cơ quan tôi sẽ trả lời ông, ông Verger.”
Starling ra khỏi phòng không lâu thì Mason Verger thổi cái ống trong cùng và nói “Cordell à?” Người trợ lý từ phòng đồ chơi bước vào đọc cho hắn một tập hồ sơ đề chữ “SỞ PHÚC LỢI NHI ĐỒNG, THÀNH PHỐ BALTIMORE”.
“Phải Franklin không? Gọi Franklin vào đây,” Mason nói và tắt đèn.
Cậu bé đứng một mình dưới ánh đèn chói ở dãy ghế ngồi, liếc vào bóng tối đáng sợ.
Một giọng nói vang lên, “Con là Franklin à?”
“Franklin,” cậu bé đáp.
“Con ở đâu hả Franklin?”
“Ở với mẹ, Shirley và Stringbean.”
“Stringbean luôn ở đó à?”
“Anh ấy đi đi về về.”
“Con nói ‘Anh ấy đi đi về về’ sao?”
“Vâng.”
“Bà mẹ không phải là mẹ ruột của con đúng không Franklin?”
“Bà ấy là mẹ nuôi.”
“Bà ta không phải là người mẹ nuôi đầu tiên phải không?”
“Vâng ạ.”
“Con thích ở nhà đó không, Franklin?”
Cậu bé tươi tắn hẳn lên. “Chúng con có mèo Kitty. Mẹ nướng bánh nhân trong lò.”
“Con đã ở nhà mẹ con bao lâu rồi?”
“Con không biết.”
“Con đã đón lễ sinh nhật nào ở đó chưa?”
“Có một lần. Shirley đã pha nước ngọt Kool-Aid.”
“Con thích nước ngọt Kool-Aid à?”
“Mùi dâu.”
“Con có thương mẹ và Shirley không?”
“Có ạ, à và cả mèo Kitty nữa.”
“Con có muốn ở đó không? Con có thấy an toàn khi đi ngủ không?”
“À, con ngủ với Shirley. Shirley là một chị gái lớn rồi.”
“Franklin, con không thể ở đó với mẹ, vói Shirley và mèo Kitty nữa. Con phải ra đi.”
“Ai nói vậy ạ?”
“Chính phủ. Mẹ con đã bị mất việc và mất luôn quyền nuôi dưỡng. Cảnh sát tìm thấy ma túy ở nhà con. Sau tuần này, con sẽ không được gặp mẹ con nữa. Sau tuần này, con cũng sẽ không được gặp cả Shirley và mèo Kitty.”
“Không đâu,” Franklin nói.
“Hoặc có thể họ không cần con nữa Franklin ạ. Có phải con đã làm gì sai không? Có phải con bị thương ở đâu đó hay có gì bẩn thỉu không? Có phải vì da con đen quá nên họ không yêu thương con nữa?”
Franklin kéo áo lên và nhìn vào bụng mình. Cậu lắc đầu. Rồi òa khóc.
“Con có biết điều gì sẽ xảy đến với mèo Kitty không? Tên của mèo Kitty là gì?”
“Nó được gọi là mèo Kitty. Đó là tên của nó.”
“Con có biết chuyện gì sẽ xảy đến với nó không? Cảnh sát sẽ bắt nó đến trại súc vật và bác sĩ sẽ tiêm cho nó một mũi. Con đã bị tiêm ở nhà trẻ bao giờ chưa? Y tá có tiêm cho con không? Bằng một cái kim sáng loáng ấy? Bọn họ sẽ tiêm mèo Kitty. Nó sẽ rất sợ khi thấy cây kim. Bọn họ sẽ đâm vào. Mèo Kitty sẽ đau và chết.”
Franklin nắm lấy vạt áo kéo lên bên mặt. Cậu bé ngậm ngón tay cái, cậu đã không làm vậy cả năm sau khi mẹ cậu bảo thế.
“Lại đây,” giọng nói trong bóng tối gọi. “Lại đây rồi chú sẽ chỉ con làm thế nào để mèo Kitty không bị tiêm. Franklin, con có muốn mèo Kitty bị tiêm không? Không chứ gì. Thế thì lại đây Franklin.”
Nước mắt ròng ròng, Franklin bước chậm chạp vào bóng tối, miệng vẫn còn ngậm ngón tay cái. Khi cậu bé chỉ còn cách giường chừng hai mét, Mason liền thổi vào cây kèn harmonica của hắn và đèn sáng lên.
Nhờ sự can đảm vốn có, hoặc cũng có thể do ước nguyện cứu lấy mèo Kitty hay nhận thức tội nghiệp rằng không còn nơi nào để chạy đi, Franklin không hề rùng mình. Cậu bé không bỏ chạy. Cậu cứ đứng yên nhìn vào mặt Mason.
Nếu như Mason còn lông mày thì chắc hẳn chúng phải cau lại vì diễn biến đầy thất vọng này.
“Con có thể cứu mèo Kitty khỏi bị tiêm nếu con cho nó uống thuốc chuột,” Mason nói. Âm ch bị mất đi nhưng Franklin vẫn hiểu được.
Franklin rút ngón cái khỏi miệng.
“Ông là một bãi phân hôi thối,” Franklin nói. “Và ông cũng xấu xí nữa.” Cậu bé quay đầu bước ra khỏi phòng, qua cái sảnh có những cuộn ống nước màu cam về phòng đồ chơi.
Mason dõi theo cậu trên băng ghi hình.
Người y tá trông thấy cậu, ngắm cậu thật kỹ trong lúc giả vờ đọc tờ Vogue.
Franklin không màng đến đồ chơi nữa. Cậu tiến đến ngồi bên dưới con hươu cao cổ, quay mặt vào tường. Đó là tất cả những gì cậu có thể làm để không phải ngậm ngón tay cái.
Cordell theo dõi cậu bé thật kỹ để xem cậu có khóc không. Khi thấy vai đứa trẻ rung lên, người y tá đến bên cậu lau nước mắt cho cậu bằng vải tiệt trùng. Anh đặt những mẫu vải thấm ướt vào chiếc ly martini của Mason đang để lạnh trong tủ lạnh của phòng đồ chơi kế bên nước cam và Coca Cola.