Kẻ Khôn Đi Lối Khác - Chương 09

Chương chín

Những quy tắc

Hai ngày sau, tôi ngồi trên trường kỷ ở sảnh khách sạn, liên tục đảo mắt, lúc thì nhìn đồng hồ, lúc thì nhìn cửa ra vào. Nếu cuộc gặp của chúng tôi kéo dài 20 phút, cộng cả 30 phút về trường, tôi sẽ có hai tiếng để “nhồi sọ” trước giờ thi. Và nếu cuộc gặp kéo dài một tiếng, tôi vẫn có thể…

Tôi ngừng nhẩm tính khi Elliott sải bước đi vào, cực kỳ đúng giờ.

Anh ấy đi xuyên qua sảnh khách sạn. Dù ở cự ly xa, đôi mắt của Elliott vẫn sắc bén như dao. Đôi mắt lướt từ từ khắp phòng, vô cùng chậm rãi, giống như cặp mắt báo đang lùng sục kiếm mồi trong rừng. Tôi cảm giác như anh ấy chẳng hề chớp mắt lấy một cái khi tiến đến gần hơn. Anh ấy nhìn thấy tôi, khẽ gật đầu và ngồi xuống cạnh tôi.

“Chờ tôi một chút,” anh ấy nói mà không nhìn tôi.

Rồi sau đó anh ấy lấy điện thoại ra và gõ gõ.

Một phút trôi qua… rồi hai phút… rồi…

Anh ấy liếc nhìn lên và bắt gặp tôi đang nhìn anh ấy chằm chằm. Tôi lập tức đảo mắt. Tôi kiểm tra đồng hồ. Đã năm phút kể từ khi gặp nhau, chúng tôi hầu như chưa nói gì.

Tôi lén liếc nhìn Elliot thêm lần nữa và không thể không mỉm cười khi thấy đôi giày anh ấy đang đi. Tôi đoán trúng phóc.

Trong các buổi giao lưu ở USC, tôi nhận thấy sinh viên thường bị thu hút bởi những người có bề ngoài giống họ, do đó tôi nghĩ hai người từa tựa nhau có thể trở thành bạn bè dễ dàng hơn. Thế là buổi sáng hôm đó, tôi dành chút thời gian suy nghĩ xem Elliott sẽ mặc gì. Tôi lựa một chiếc quần bò màu xanh lam, một chiếc áo phông cổ V và phối với một đôi giày Toms màu xám. Nhưng anh ấy chỉ dán mắt vào màn hình, tôi cảm tưởng anh ấy sẽ chẳng thèm để ý xem tôi đang mặc gì.

“Cậu vẫn đang đi học à?” anh ấy hỏi, vẫn cắm cúi với chiếc điện thoại.

“Vâng, em là sinh viên năm thứ hai.”

“Cậu định bỏ học à?”

“Dạ?”

“Cậu nghe thấy tôi hỏi gì mà.”

Khuôn mặt của bà tôi hiện lên trong đầu. Jooneh man.

“Không,” tôi thốt lên. “Không, dĩ nhiên là không.”

Elliott khẽ bật cười thành tiếng. “Để rồi xem.”

Tôi liền đổi chủ đề. “Có thể nói rằng anh rất giỏi kết nối mọi người và tạo đà cho các sự kiện Summit của mình, em thực sự rất tò mò, không biết anh đã thực hiện bằng cách nào. Vì vậy, em muốn hỏi anh một câu…”

“Cậu không cần hỏi chỉ một câu đâu.”

“Vâng, vậy, câu hỏi đầu tiên là: Đâu là điểm bùng phát trong sự nghiệp để anh có thể dựa vào đó tạo đà phát triển đến vậy?”

“Không có điểm bùng phát nào hết,” anh ấy nói, vẫn tiếp tục gõ bàn phím điện thoại. “Tất cả đều là những bước nhỏ.”

Với người khác, đó có lẽ là một câu trả lời tiêu chuẩn. Nhưng với một kẻ đã dành hàng tuần mơ mộng về một bài độc diễn về chủ đề này từ Elliott, một câu giải thích chỉ vỏn vẹn vài từ khiến tôi hơi thất vọng.

“Ồ, vậy thì câu hỏi tiếp theo của em là…”

“Cậu đã đọc chương ‘Ngôi sao của Ardaban’ chưa? Cậu đã mở cuốn sách ra chưa? Hay cậu thậm chí còn không thể đọc hai chương sách trong ngày tôi giới thiệu?”

“Em đã đọc nó,” tôi nói, “và còn đọc hết cả cuốn sách.”

Cuối cùng Elliott cũng ngẩng lên. Anh ấy bỏ điện thoại sang một bên.

“Chàng trai trẻ, tôi chẳng khác gì cậu khi tôi tầm tuổi này,” anh ấy nói. “Lúc nào tôi cũng hối hả ngược xuôi. Và bức email mà cậu gửi tôi chắc hẳn đã phải khiến cậu mất cả tuần, phải không?”

“Hai tuần. Rồi em mất thêm ba tiếng nữa để tìm địa chỉ email của anh.”

“Đúng rồi, anh bạn. Tôi cũng từng làm những việc như vậy.”

Cuối cùng tôi cũng cảm thấy thoải mái một chút, nhưng đó lại là một sai lầm, bởi vì Elliott ngay lập tức quay sang và nã một loạt những câu hỏi về sứ mệnh như súng liên thanh. Anh ấy hỏi dồn dập và kỹ lưỡng đến mức khiến tôi cảm thấy như mình đang bị thẩm vấn. Tôi cố gắng trả lời tốt nhất có thể, mơ mơ hồ hồ không biết cuộc nói chuyện của chúng tôi sẽ đi về đâu. Elliott phá lên cười khi tôi kể về chuyện núp trong nhà vệ sinh.

Anh ấy kiểm tra đồng hồ.

“Nghe này,” anh ấy nói. “Lúc đầu tôi chỉ dự định gặp cậu 30 phút. Nhưng có lẽ… À không, đợi chút, hôm nay cậu có lớp học không?”

“Em rảnh cả ngày. Anh đang định nói gì ạ?”

“Ồ, nếu như cậu muốn, cậu có thể nán lại thêm chút nữa và tham gia vào buổi gặp gỡ tiếp theo của tôi.”

“Thế thì tuyệt quá ạ!”

“Được rồi, tốt lắm,” anh ấy nói. “Nhưng trước hết, chúng ta cần có một số quy tắc cơ bản. Năm quy tắc này không chỉ dành cho ngày hôm nay, mà còn cho cả cuộc đời còn lại của cậu.” Anh ấy nhìn tôi chằm chằm. “Tôi nghĩ cậu nên ghi lại.”

Tôi lấy điện thoại gõ vào phần ghi chú.

“Quy tắc số một: Đừng bao giờ sử dụng điện thoại trong một cuộc họp hay gặp mặt, kể cả khi cậu sử dụng nó để ghi chép. Điện thoại chỉ khiến cậu trông như một gã đần. Luôn mang theo một cây bút trong túi. Thế giới càng công nghệ thì việc sử dụng bút viết lại càng tạo ấn tượng đẹp. Và dù sao thì, khi cậu đang trong một cuộc họp, việc sử dụng điện thoại rất bất lịch sự.”

“Quy tắc số hai: Xử sự như thể cậu thuộc về nơi đó. Bước vào một căn phòng như thể cậu đã từng đến đó. Đừng lúng túng trước những người nổi tiếng. Hãy thật ngầu. Lúc nào cũng phải bình tĩnh. Và đừng bao giờ xin chụp ảnh với ai đó. Nếu muốn được đối xử ngang hàng, cậu phải xử sự ngang hàng. Người hâm mộ xin chụp ảnh. Người ngang hàng thì bắt tay nhau.”

“Lại nói về chụp ảnh, quy tắc số ba: Sự bí hiểm làm nên câu chuyện truyền kỳ. Khi cậu thấy mình vừa làm việc gì đó thật ngầu, đừng đăng ảnh lên Facebook. Những người thực sự thay đổi thế giới chẳng bao giờ đăng mọi việc họ làm trên mạng. Hãy để mọi người phải không ngừng phỏng đoán xem cậu định làm gì. Ngoài ra, những người mà cậu cố gắng gây ấn tượng bằng cách đăng bài cập nhật trên mạng không phải là những người cậu cần phải gây ấn tượng.”

“Bây giờ là quy tắc số bốn,” anh ấy nói, chậm rãi, nhấn mạnh từng từ, “đây là quy tắc quan trọng nhất. Nếu cậu phá vỡ nó…” – anh ấy đưa tay lên làm điệu bộ cứa cổ, “… là cậu ‘xong’.”

“Nếu cậu phá vỡ lòng tin của tôi, là cậu ‘xong’. Đừng bao giờ nói mà không giữ lời. Nếu tôi nói cho cậu một bí mật, cậu phải giữ kín như hũ nút. Không để lọt ra tiếng gió. Điều này phải được áp dụng trong mọi mối quan hệ của cậu kể từ hôm nay trở đi. Nếu cậu hành xử như một hũ nút, mọi người sẽ đối xử với cậu như một hũ nút. Phải mất hàng năm để tạo dựng danh tiếng, nhưng chỉ cần vài giây là có thể hủy hoại nó. Cậu hiểu chứ?”

“Dạ vâng.”

“Tốt,” anh ấy đứng dậy và nhìn xuống tôi. “Đứng dậy đi.”

“Nhưng em tưởng anh nói là có năm quy tắc.”

“À, ừ đúng rồi. Đây là quy tắc cuối cùng: Cuộc phiêu lưu chỉ tình cờ có tính phiêu lưu.”

Trước khi tôi kịp hỏi ý anh ấy là gì thì Elliott đã rảo bước đi. Tôi bước theo sau. Anh ấy quay đầu lại nhìn tôi. “Cậu đã sẵn sàng chơi với các vĩ nhân chưa?”

Tôi gật đầu.

“Tiện thể,” anh ấy nói thêm, nhìn tôi từ trên xuống dưới, “đôi Toms đẹp lắm.”

Buổi họp của elliott bắt đầu, tôi ngồi nghiêm chỉnh, tay đặt lên đùi, chăm chú lắng nghe hơn tất thảy các bài giảng ở trường từ trước tới giờ. Elliott bắt đầu rất tự nhiên, nói vài lời bông đùa mở màn và hỏi vị khách mời về buổi sáng của cô ấy. Rồi gần như vô ý, anh ấy chuyển toàn bộ trọng tâm cuộc nói chuyện vào cô: Cô đam mê gì? Cô đang theo đuổi dự án gì? Khi cô ấy lịch sự hỏi lại về bản thân Elliott, anh phá lên cười và nói: “Ồ, tôi không thú vị đến thế đâu”, rồi đưa ra một câu hỏi khác. Xuyên suốt cuộc nói chuyện, Elliott hiếm khi nói về bản thân mình. Cuối cùng, vào khoảng 10% thời gian cuối cùng của cuộc họp, Elliott mới bắt đầu chia sẻ câu chuyện của mình: “Thành phố của những giấc mơ trong suy nghĩ của tôi hiện chưa tồn tại, vì vậy, tôi đang bắt tay vào xây dựng nó.” Anh ấy bày tỏ dự định mua ngọn núi trượt tuyết tư nhân to nhất Bắc Mỹ ở một thành phố tên là Eden, Utah, đồng thời xây dựng một cộng đồng sinh sống dành cho doanh nhân, nghệ sĩ và tình nguyện viên ở phía sau ngọn núi. Và đương lúc cô ấy đắm chìm trong ý tưởng đó thì Elliott kết thúc cuộc nói chuyện.

Anh ấy ôm tạm biệt và cô rời đi. Rồi một vị khách khác đến. Cuộc gặp thứ hai cũng diễn ra êm đẹp như cuộc gặp đầu tiên. Tôi bị mê hoặc bởi cách Elliott làm chủ sự tương tác giữa bọn họ. Tôi không muốn rời mắt khỏi anh ấy, nhưng tôi thỉnh thoảng vẫn lén liếc nhìn đồng hồ. Tôi phải lên đường trong vòng một giờ tới.

Sau cuộc gặp thứ hai, Elliott đứng lên và ra hiệu cho tôi.

“Cậu thấy vui chứ?” anh ấy hỏi.

Tôi cười toe toét.

“Tuyệt,” anh ấy nói. “Cậu nhất định sẽ thích cuộc gặp tiếp theo.”

Tôi theo sát khi anh ấy tiến về phía lối ra. Tất cả những gì hiện hữu trong đầu tôi là một chiếc đồng hồ cát khổng lồ, đếm ngược cho đến giờ thi cuối kỳ.

Chúng tôi băng qua đường để đến khách sạn Westin, một khách sạn không hề bình thường. Đây là nơi diễn ra hội thảo TED tuần này, một trong những hội thảo đặc biệt nhất thế giới. Chúng tôi đi đến nhà hàng ở ngay tầng trệt. Nhà hàng được trang hoàng rất ấm cúng với không quá 15 bàn ăn. Tiếng nhạc cổ điển dịu nhẹ ngập tràn khắp không gian, điểm xuyết thêm một vài tiếng lách cách vui tai khi những chiếc thìa chạm vào tách gốm.

Elliott đi thẳng đến nói chuyện với trưởng quầy phục vụ. “Tôi cần một bàn cho bốn người.”

Trên đoạn đường đi tới khu vực bàn ăn, tôi nghĩ mình cần phải nói với Elliott rằng tôi có thể phải rời đi sớm hơn, nhưng ngay lúc đó, anh ấy chào một người đàn ông ở chiếc bàn gần đó. Tôi lập tức nhận ra người kia: Tony Hsieh, CEO của Zappos. Cuốn sách Tỷ phú bán giày của anh vẫn luôn ở hàng cao nhất trên giá sách của tôi.

Elliott tiếp tục bước đi. “Người đàn ông phía bên kia,” anh thì thầm với tôi. “Đó chính là Larry Page, CEO của Google. Người ở phía bên trái là Reif Hoffman, người sáng lập LinkedIn. Giờ hãy nhìn sang kia. Chiếc bàn xa xa ở đằng sau – người đàn ông đeo kính, anh ấy đã tạo ra Gmail. Bên phải cậu, trong chiếc quần soóc chạy bộ màu xanh lam, là Chad, đồng sáng lập của YouTube.”

Chúng tôi đến bàn của mình, một lúc sau thì những vị khách của Elliott cũng đến. Đầu tiên là Franck, đồng sáng lập của Startup Weekend, một trong những tổ chức khởi nghiệp lớn nhất thế giới; sau đó là Brad, đồng sáng lập của Groupon, vào thời điểm đó được định giá ở mức 13 tỷ đô-la. Ba người họ nói chuyện. Trong suốt bữa ăn, Elliott luôn nhìn tôi như thể đang thăm dò đánh giá. Tôi băn khoăn không biết liệu anh ấy muốn tôi nói nhiều hơn, hay cho rằng lần duy nhất mà tôi mở lời là quá thừa thãi.

Khi một nửa bữa sáng trôi qua, vị đồng sáng lập của Groupon đi vào nhà vệ sinh, rồi nhà đồng sáng lập của Startup Weekend rời bàn để gọi điện. Elliott quay sang tôi và tiếp tục cuộc thẩm vấn.

“Thế cậu lấy tiền ở đâu ra? Làm sao cậu có đủ tiền để chi trả cho những chuyến đi?”

Tôi nói với anh ấy rằng mình đang dùng tiền thắng được trong một trò chơi truyền hình.

“Cậu làm gì cơ?” anh ấy nói.

“Anh đã từng nghe đến Hãy chọn giá đúng chưa?”

“Ai mà chẳng biết Hãy chọn giá đúng.”

“Ồ, năm ngoái, hai ngày trước kỳ thi cuối kỳ, em thức trắng đêm để học cách được chọn trở thành người chơi. Ngày tiếp theo em đi thi và thắng được một chiếc du thuyền, sau đó bán nó đi. Đó là cách em có tiền để trang trải suốt quá trình thực hiện sứ mệnh của mình.”

Elliott đặt dĩa xuống. “Đợi đã. Chúng ta nói chuyện với nhau suốt hai tiếng đồng hồ nhưng cậu chưa từng đề cập rằng cậu tài trợ toàn bộ cuộc hành trình của mình bằng cách thắng một trò chơi truyền hình ư?”

Tôi nhún vai.

“Dại quá!” anh ấy kêu lên.

Anh ấy rướn người về tôi và hạ giọng, nói rành mạch từng chữ. “Về sau, trong một cuộc gặp với ai đó, đừng bao giờ quên kể câu chuyện này. Sứ mệnh của cậu nghe rất hay, nhưng câu chuyện này giúp tôi hiểu về cậu nhiều hơn bất cứ thứ gì mà cậu đã nói. Câu chuyện rất ấn tượng.”

“Mỗi người đều có những trải nghiệm khác nhau trong cuộc sống,” anh ấy tiếp tục. “Một số chọn biến những trải nghiệm đó thành giai thoại.”

Tôi sững sờ bởi những lời nói của Elliott đến mức gần như không nhận ra hai vị khách của anh đã quay trở lại bàn.

“Alex, hãy kể cho họ chuyện cậu vừa kể với tôi,” Elliott nói. “Kể cho họ biết cậu đã làm thế nào để thực hiện sứ mệnh của mình.”

Tôi lắp bắp một chút khi kể lại câu chuyện của mình. Mặc cho câu chuyện có hơi lộn xộn, khi tôi kể xong, không khí trên bàn thay đổi. Nhà đồng sáng lập của Groupon ngắt lời tôi. “Đúng là… tuyệt vời.” Anh ấy nói chuyện với tôi suốt phần còn lại của bữa sáng, chia sẻ những câu chuyện và lời khuyên của mình, rồi cho tôi địa chỉ email của anh ấy và bảo tôi giữ liên lạc.

Tôi lại nhìn đồng hồ thêm lần nữa. Nếu tôi không rời đi trong ít phút thì tôi sẽ xong đời.

Xin phép rời khỏi bàn, tôi bước sang một bên và tra cứu số điện thoại của văn phòng trường quản trị kinh doanh USC. Khi chuông chờ vang bên tai, tôi nhìn qua vai vào tất cả những vị CEO và tỷ phú mà tôi mơ ước được học hỏi từ họ.

Một thư ký nhấc máy, và với trạng thái vô cùng sốt sắng, tôi thốt lên: “Hãy chuyển máy đến hiệu trưởng cho tôi.” Vì lý do nào đó, cô ấy đã làm như tôi nói. Phó hiệu trưởng trường quản trị kinh doanh – không phải hiệu trưởng trường điện ảnh, người đã ngăn tôi tiếp cận Spielberg – trả lời điện thoại.

“Em là Alex Banayan. Em nghĩ em cần phải giải thích cho cô rằng em đang ở đâu ngay lúc này. Cách em 10 bước chân là…” rồi tôi không ngừng liệt kê tất cả những con người nổi tiếng xung quanh. “Em thực sự nghĩ mình không cần phải giải thích với cô đây là một cơ hội hiếm hoi đến nhường nào. Nhưng em có bài thi cuối kỳ môn kế toán sau một tiếng nữa, và em sẽ phải rời đi ngay lập tức nếu muốn đến trường đúng giờ. Em không thể quyết định được, cô hãy giúp em quyết định việc này. Và em cần cô trả lời em trong vòng 30 giây.”

Cô ấy không trả lời.

Sau 30 giây, tôi hỏi xem cô còn đó không.

“Hãy coi như tôi chưa nói gì với em,” cô nói, “nhưng em hãy email cho giảng viên của mình sáng hôm sau và nói rằng chuyến bay của em từ San Francisco về Los Angeles bị trễ, và em hoàn toàn không kiểm soát được việc này, đó là lý do vì sao mà em không dự buổi thi được.”

Cạch. Cô gác máy.

Cho đến hôm nay, thật khó để biểu lộ hết lòng biết ơn của tôi với điều mà cô hiệu phó đã làm cho tôi sáng hôm đó.

Khi tôi trở lại bàn, bữa sáng tiếp tục và năng lượng ngày càng bung nở mạnh mẽ hơn. Đồng sáng lập của Groupon mời tôi đến thăm anh ở Chicago. Rồi Reid Hoffman ghé qua bàn chúng tôi. Cuối cùng, hai vị khách của Elliott rời đi và tôi ngồi đó, nhìn quanh nhà hàng, thấu hiểu tầm quan trọng của buổi gặp gỡ ngày hôm nay.

“Này, ông lớn,” Elliott thì thầm. “Cậu muốn phỏng vấn một ông trùm công nghệ phải không? CEO của Google đang ở cách cậu 20 bước chân. Đây là cơ hội của cậu. Ra nói chuyện với ông ấy đi. Hãy cho họ xem cậu có gì.”

Cơn sóng lo sợ đột nhiên nhấn chìm tôi.

“Nếu cậu thực sự muốn,” Elliott nói, “thì cơ hội ở đó.”

“Thông thường, em phải dành hàng tuần chuẩn bị trước khi mời ai phỏng vấn. Em không biết gì về ông ấy. Em không nghĩ đây là một ý tưởng hay.”

“Cứ làm đi.”

Tôi cảm giác Elliott đã đánh hơi thấy Ngại ngùng.

“Thôi nào, anh chàng mạnh mẽ,” anh ấy tiếp tục. “Hãy xem cậu có gì.”

Tôi ngồi bất động.

“Thôi nào. Làm đi,” anh ấy nói, nghe không khác gì tay buôn lậu chất cấm đang dụ dỗ người qua đường. Với mỗi câu nói, vai anh ấy rướn cao hơn và khuôn ngực mở rộng hơn, như thể anh đang đẩy lùi sự băn khoăn của tôi. Anh ấy nhìn tôi chằm chằm bằng cặp mắt báo.

“Khi cơ hội ở ngay trước mắt,” Elliott nói, “hãy bắt lấy nó.”

Larry Page, CEO của Google, đẩy ghế. Tôi dường như mất cảm giác ở chân. Page bắt đầu bước đi. Tôi bật dậy.

Tôi đi theo ông ra khỏi nhà hàng và xuống bậc thang. Ông bước vào một nhà vệ sinh. Tôi rùng mình… Không phải chứ! Tôi bước vào và nhìn thấy sáu bồn tiểu tiện. Larry Page ở một đầu. Năm bồn còn lại đều không có người. Không cần suy nghĩ, tôi chọn chỗ cách ông xa nhất. Tôi đứng đó, cố gắng vắt óc nghĩ ra điều gì khôn ngoan để nói. Nhưng tất cả những gì trong đầu tôi lúc đó là giọng nói của Elliott: Khi cơ hội ở ngay trước mắt, hãy bắt lấy nó.

Page bước tới bồn rửa tay. Tôi cũng làm theo, và lại chọn bồn xa ông nhất. Tôi càng nghĩ về thất bại thì tôi lại càng thất bại.

Page đang sấy tay. Tôi phải nói điều gì đó.

“Ồ, ông là Larry Page phải không?”

“Đúng vậy.”

Mặt tôi trở nên đờ đẫn. Page nhìn tôi, bối rối, và đi ra. Chuyện chỉ có thế.

Tôi lê bước về bàn ăn, nơi Elliott đang ngồi đợi. Tôi thả phịch người xuống ghế.

“Chuyện gì xảy ra vậy?” anh ấy hỏi.

“Ờ… thì…”

“Cậu còn phải học hỏi nhiều.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3