Kẻ Khôn Đi Lối Khác - Chương 25
BƯỚC NĂM
LỰA CHỌN CÁNH CỬA THỨ BA
Chương hai mươi lăm
Chén thánh: Phần I
Bill Gates.
Ai cũng biết tên ông ấy, nhưng hầu hết mọi người lại không biết toàn bộ câu chuyện về cuộc đời ông. Đằng sau cặp kính mọt sách và những trang bìa tạp chí là người đã đọc trọn vẹn cuốn Bách khoa toàn thư thế giới khi mới lên chín. Năm 13 tuổi, người hùng của ông không phải là một ngôi sao nhạc rock hay cầu thủ bóng rổ mà là vị hoàng đế của nước Pháp – Napoleon. Một tối nọ, dù đã đến giờ ăn tối nhưng vẫn chưa thấy con mình ra khỏi phòng, mẹ ông đã gọi to: “Bill, con đang làm gì thế?”
“Con đang suy nghĩ!” ông reo lên đáp lời.
“Con đang suy nghĩ ấy hả?”
“Vâng, con đang suy nghĩ. Mẹ đã từng suy nghĩ chưa?”
Mặc dù câu nói đó nghe có vẻ kiêu ngạo, nhưng không hiểu sao, tôi lại cảm thấy rất đỗi trìu mến. Càng tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời của Gates, tôi càng nghĩ ông là một người bình thường mà vô cùng phi thường trên thế giới.
Một mặt, hồi học lớp tám, ông dành thời gian rảnh rỗi trong phòng máy tính với người bạn Paul Allen của mình, tự học cách lập trình thông qua chiếc máy điện báo đánh chữ ASR-33. Điều đó thực sự phi thường. Trong khi hầu hết những đứa trẻ trung học đều lẻn ra khỏi nhà vào buổi tối để đi dự tiệc, Gates lại lẻn vào thư viện máy tính của Đại học Washington để tập lập trình. Điều này lại càng phi thường hơn. Nhưng mặt khác, ông sử dụng kỹ năng tin học giúp trường xây dựng hệ thống tự động hóa lịch học – và lén xếp mình học chung lớp với những bạn gái xinh đẹp nhất. Ồ, chẳng khác nào một cậu trai bình thường.
Hết trung học, ông theo học chuyên ngành toán học ứng dụng ở Harvard. Tại sao? Vì ông đã tìm thấy một lỗ hổng. Ông phát hiện có thể được ưu tiên đăng ký bất cứ khóa học nào mà mình muốn bằng cách nói rằng mình đang nghiên cứu việc “ứng dụng toán học” vào kinh tế học hay “ứng dụng toán học” vào lịch sử. Bill thích nổi loạn chỉ để nổi loạn, vì thế ông không học những lớp mình đã đăng ký mà lại tới những lớp không đăng ký.
Người mà báo chí miêu tả là một gã khùng lập dị từng rất nổi tiếng hồi đại học vì luôn thức khuya chơi poker với những khoản cá cược lớn. Trong những năm 20 tuổi, ông nghỉ xả hơi bằng cách lẻn vào công trường xây dựng lúc nửa đêm và đua xe ủi đất trong màn bụi mịt mù. Hồi mới bắt đầu gây dựng Microsoft, mỗi khi muốn nghỉ ngơi, ông sẽ nhảy lên chiếc Porsche của mình, nhấn chân ga hết cỡ và phóng bạt mạng trên đường cao tốc.
Tình yêu với tốc độ của ông không chỉ giới hạn ở việc lái xe. Đọc những câu chuyện kể về cách ông giành được những hợp đồng phần mềm lớn, tôi cảm giác như mình đang xem một thần đồng đang đánh cờ với 10 đối thủ cùng một lúc, nhảy từ bàn này sang bàn khác, trong chớp mắt tung ra hàng chục nước đi và đánh bại tất cả bọn họ. Vào độ tuổi mà bạn bè chỉ mới vừa tốt nghiệp đại học, ông đã chiến đấu trong phòng họp của những công ty lớn nhất thế giới – IBM, Apple, HP – và đàm phán với những người gấp đôi tuổi mình. Từ lối so sánh ẩn dụ về thần đồng cờ vua, tôi nhận ra Gates luôn chơi, từ trò chơi lập trình, trò chơi bán hàng, trò chơi đàm phán, trò chơi CEO, trò chơi người nổi tiếng, cho đến trò chơi nhà hảo tâm – tất cả đều ở cấp độ cao nhất – và ông đều chiến thắng.
Ông đã xây dựng Microsoft trở thành công ty giá trị nhất toàn cầu vào năm 1998, biến ông trở thành người giàu nhất hành tinh. Để so sánh, Oprah Winfrey cực kỳ giàu, Mark Zuckerberg, Howard Schultz, Mark Cuban, Jack Dorsey và Elon Musk cũng vậy; nhưng vào thời điểm tôi chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn, tài sản của Bill Gates có giá trị bằng tổng tài sản của tất cả những người đó gộp lại.
Sau khi từ chức CEO của Microsoft, Gates hoàn toàn có thể nghỉ hưu, ngồi du thuyền và hưởng thụ mọi khoái lạc vật chất trên đời. Nhưng thay vào đó, ông lại lao vào cuộc đấu trí mới, dấn thân vào những thử thách thậm chí còn khó khăn hơn – giúp đỡ người nghèo trên thế giới có cuộc sống ấm no, cách mạng hóa ngành năng lượng sạch, ngăn chặn sự lây lan của các dịch bệnh truyền nhiễm và trao tặng cơ hội được học tập trong môi trường giáo dục chất lượng cho những học sinh, sinh viên cần nó. Tôi biết Quỹ Từ thiện Bill và Melinda Gates là quỹ từ thiện có quy mô lớn nhất thế giới, nhưng tôi không hay biết những nỗ lực của họ đã cứu giúp hơn 5 triệu người trên thế giới thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Nhờ Bill Gates, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm xuống còn một nửa. Trong năm năm tới, những chương trình cứu trợ của ông dự tính sẽ cứu sống hơn 7 triệu trẻ em nữa. Nếu siêu anh hùng thực sự tồn tại thì đó chính là Bill Gates.
Tôi dùng tất cả những gì mình học được từ ông để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn. Tôi viết hàng tá câu hỏi vào sổ tay và dùng bút màu phân loại chúng theo chủ đề. Từ bán hàng đến đàm phán, tôi cảm thấy như mình đang xây dựng một bản đồ kho báu của riêng mình.
Một tuần trước cuộc phỏng vấn của tôi với Gates, trong bữa sáng với Larry King và Cal Fussman, tôi hỏi xin lời khuyên để cuộc phỏng vấn diễn ra suôn sẻ.
“Chỉ cần nhớ những gì tôi đã nói với cậu,” Larry giơ lên một ngón tay. “Bí mật là: Chẳng có bí mật gì hết. Hãy là chính bản thân mình.”
“Và hãy thoải mái như khi cậu phỏng vấn Larry,” Cal bổ sung thêm.
Khi rời khỏi bàn ăn, tôi cảm giác họ không thể hiểu được thứ áp lực mà tôi đang cảm thấy. Việc thả lỏng là điều quá xa xỉ. Đây không chỉ đơn thuần là một cuộc phỏng vấn. Trong suốt ba năm qua, tôi đã làm tất cả những gì có thể để đặt cược cả sứ mệnh vào giờ phút này. Tôi đã thề với nhà xuất bản, với người đại diện và gia đình mình, rằng khi tôi có cơ hội phỏng vấn Gates, tôi sẽ rút ra được một lời khuyên mà có thể thay đổi cả thế hệ của mình. Một điều sẽ thay đổi mãi mãi sự nghiệp của mọi người. Chiếc Chén Thánh.
Tôi cần sự giúp đỡ từ ai đó đã làm một việc tương tự. Tôi nghe nói trong cuốn sách Những kẻ xuất chúng, Malcolm Gladwell đã phỏng vấn Gates cho chương “Quy luật 10.000 giờ”. Nếu có ai đó có thể thấu hiểu những gì tôi đang trải qua thì đó chỉ có thể là Gladwell. Vì thế, tôi đã dùng mẫu email ngẫu nhiên của Tim Ferriss và Gladwell trả lời tôi một ngày sau đó.
Người gửi: Malcolm Gladwell
Người nhận: Alex Banayan
Chủ đề: Trả lời: Ngài Gladwell – liệu ngài có thể cho cháu một số lời khuyên khi phỏng vấn Bill Gates được không?
Lời khuyên của tôi ư? Bill Gates là một trong những người phỏng vấn dễ dàng nhất vì ông ấy quá thông minh, thẳng thắn và nhạy bén. Hãy đảm bảo rằng cậu đã đọc nhiều và hiểu sâu về cuộc đời của ông ấy để không lãng phí thời gian. Và cứ mặc ông ấy nói. Ông ấy sẽ dẫn cậu đi theo những hướng tiếp cận đáng ngạc nhiên nếu như cậu để ông ấy nắm quyền chủ động.
Chúc may mắn!
Mặc dù tôi vô cùng biết ơn sự khích lệ của Gladwell, nhưng điều đó cũng không khiến tôi bình tĩnh hơn là bao. Ván cược trong lòng tôi quá lớn và tôi lo sợ đến mức không thể thư giãn. Tôi cần thứ gì đó để dịch chuyển sự chú ý.
Tôi cố hình dung trông ông ấy như thế nào khi ở độ tuổi tôi, tưởng tượng ông ấy trong chiếc áo phông và quần bò đã sờn cũ, nằm trên giường phòng ký túc của mình. Một câu chuyện tôi từng đọc chợt hiện lên trong đầu. Nó xảy ra khi ông học năm thứ hai ở Harvard. Gates lúc đó 19 tuổi khi Paul Allen tông cửa xông vào phòng ký túc xá và ném một tờ tạp chí lên bàn.
“Bill, mọi chuyện đang diễn ra mà thiếu chúng ta.” Paul kêu lên.
Trên trang bìa tạp chí là một chiếc hộp màu xanh nhạt với đèn, công tắc và cổng cắm. Đó chính là chiếc Altair 8800, bộ máy tính thu nhỏ đầu tiên trên thế giới. Bill đọc rất kỹ bài báo và nhận ra rằng mặc dù MITS, công ty sáng chế ra Altair, đã chế tạo được phần cứng nhưng nó vẫn cần một phần mềm. Microsoft lúc đó thậm chí còn chưa trở thành ý tưởng, nhưng Bill và Paul vẫn viết một lá thư cho Ed Roberts, người sáng lập của MITS và chào bán phần mềm để chạy chiếc máy tính. Bill và Paul muốn lời chào mời có vẻ chuyên nghiệp hơn, vì thế họ đã viết bức thư có in tên công ty mà họ đã sáng lập khi học trung học là Traf-O-Data.
Vài tuần trôi qua mà không có lấy một bức thư hồi âm, Bill rất băn khoăn: Có phải người sáng lập của MITS đã ném lá thư vào thùng rác không? Hay ông ta đã phát hiện ra mình chỉ là tên nhóc chưa trưởng thành?
Nhiều năm sau, Bill mới biết người sáng lập của MITS không những đã đọc lá thư mà ông ấy còn thích nó đến nỗi muốn đàm phán mua phần mềm. Ông ấy gọi cho số điện thoại trên đầu thư và một người phụ nữ đã nhấc máy – Bill và Paul quên rằng đầu thư vẫn ghi số điện thoại của nhà người bạn thời trung học của họ.
Tuy nhiên, họ không biết điều đó, vì vậy cả hai đã tranh luận kịch liệt trong phòng ký túc của Bill xem nên tiếp tục thế nào. Bill đưa điện thoại cho Paul.
“Không, cậu làm đi!” Paul nói. “Cậu giỏi mấy việc này hơn.”
“Tớ không gọi đâu,” Bill phản pháo. “Cậu gọi đi!”
Tôi đoán rằng ngay cả người được số phận an bài sẽ trở thành người giàu nhất thế giới trong tương lai cũng từng đối mặt với Ngại ngùng. Cuối cùng, hai người họ đạt được thỏa thuận – Bill sẽ gọi điện, nhưng sẽ nói rằng mình là Paul.
“Xin chào, tôi là Paul Allen từ Boston,” Bill nói với tông giọng trầm nhất. MITS là một công ty nhỏ, vì vậy không mấy khó khăn để ông có thể nói chuyện với người sáng lập. “Chúng tôi sắp sửa hoàn thiện một phần mềm cho chiếc Altair và muốn gửi cho ông xem.”
Người sáng lập rất hoan nghênh và nói họ có thể đến văn phòng công ty ở Albuquerque, New Mexico để chạy thử phần mềm. Bill rất đỗi vui mừng. Nhưng ông vướng phải một vấn đề duy nhất – thực ra chẳng có phần mềm nào cả.
Trong những tuần tiếp theo, Bill dành tất cả thời gian mình có để lập trình. Có những đêm ông thậm chí còn thức trắng. Một đêm nọ, Paul đi vào và thấy Bill đang nằm gục trên sàn, bên cạnh thiết bị đầu cuối máy tính, cuộn tròn như một chú mèo. Một đêm khác, Paul thấy Bill lịm đi trên ghế, dùng bàn phím làm gối.
Sau tám tuần đằng đẵng, Bill và Paul hoàn thành phần mềm cho Altair. Khi phải quyết định xem ai nên bay đến Albuquerque giới thiệu sản phẩm, họ chọn một phương án đơn giản: Paul sẽ đi – vì ông ấy có bộ râu quai nón.
Paul lên máy bay với phần mềm nằm an ổn trong tay. Khi máy bay vừa cất cánh, ông ấy suy đi nghĩ lại về bản chạy thử và nhận ra: Ôi, Chúa ơi! Mình quên không viết trình nạp cho phần mềm. Trình nạp là một mã hiệu sẽ nói với máy tính rằng “Đây là phần mềm”. Thiếu nó, toàn bộ dòng mã sẽ vô dụng.
Co quắp trong một chiếc bàn gập, Paul viết tất cả các mã hiệu trong trí nhớ và hoàn thành nó ngay trước khi bánh máy bay chạm đất. Thậm chí ông ấy còn không có đủ thời gian để kiểm tra.
Ngày hôm sau, Paul tới trụ sở của MITS, người sáng lập đưa ông đi tham quan xung quanh. Họ dừng lại bên một chiếc Altair đặt trên bàn. Đó là lần đầu tiên Paul nhìn thấy tận mắt chiếc máy này.
“Được rồi,” người sáng lập nói. “Hãy bắt đầu thôi.”
Paul hít một hơi, cài phần mềm vào, và… nó thực sự hoạt động. Paul và Bill thành công đạt được thỏa thuận, ký hợp đồng, và đó là cách họ bán phần mềm đầu tiên của mình.
Đối với tôi, câu chuyện này mang đến một bài học thực sự ấn tượng. Mặc dù có tài năng vô cùng xuất chúng, nhưng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu Gates không vượt qua nỗi sợ của mình trong phòng ký túc, không nhấc điện thoại lên và gọi cho MITS. Chính khả năng đối diện với khó khăn và sự sợ hãi đã biến cơ hội này thành hiện thực. Tiềm năng giải mã tương lai của bạn nằm trong chính tay bạn, nhưng trước hết, bạn phải nhấc chiếc điện thoại khốn kiếp ấy lên đã.
Mặc dù đó là một bài học rất hay, tôi cảm thấy nó vẫn còn cách rất xa chiếc Chén Thánh mà tôi mong đợi. Trong lần gặp gỡ Gates, tôi cần phải tìm ra một phát hiện bất ngờ, quyền năng và có khả năng thay đổi cuộc sống – thứ mà chưa ai tìm ra.
Đối với tôi, chiếc Chén Thánh như một thực thể sống biết hít thở. Đó là thứ tiếp thêm động lực để tôi lội qua vũng bùn lầy lội suốt hai năm qua. Và giờ đây, khi đang ở rất gần nó, tôi lại càng tự tin rằng mình sẽ có được nó.
Buổi sáng trước cuộc phỏng vấn, tôi xếp đồ vào túi du lịch, cầm sổ tay và lên đường tới Seattle.