Kẻ Khôn Đi Lối Khác - Chương 26
Chương hai mươi sáu
Chén thánh: Phần II
Tôi bước dọc theo hành lang thắp đèn vàng dẫn đến một cánh cửa duy nhất.
Một người trợ lý bảo tôi đứng yên chờ đợi còn cô ấy thì biến mất sau cánh cửa, để lại một mình tôi trơ mắt nhìn chiếc cửa kính mờ cao ngất. Tôi nhìn kỹ hơn tay nắm bằng da có viền trang trí màu bạc, cắm cúi nghiên cứu như thể nó nắm giữ manh mối ẩn tàng nào đó. Ngay cả một chi tiết nhỏ nhất cũng có thể dẫn tôi đến chiếc Chén Thánh, và vì không biết nó được chôn ở đâu, tôi không thể bỏ sót bất cứ chi tiết nào.
Nói thật, tôi không thể chỉ bước vào đó và nói: “Này Bill, chiếc Chén Thánh của ông là gì?” Bạn không thể làm như vậy. Và bạn cũng không thể hy vọng rằng Bill Gates sẽ cho bạn một manh mối. Ông ấy làm sao có thể chỉ vào một bức tượng Phật để bàn và nói: “À… cậu có nhìn thấy bức tượng Phật này không? Tôi đặt nó ở đó vì nó nhắc tôi về những bí mật kinh doanh…” Tôi phải tự mình tìm ra manh mối và thực sự không có nhiều thời gian làm việc đó. Vì tôi cần tập trung hoàn toàn vào cuộc nói chuyện ngay khi nó bắt đầu nên cơ hội duy nhất để tìm được những manh mối hiển hiện sẽ là ngay sau khi tôi bước vào.
Rồi sau đó, mọi thứ dường như được tua chậm lại, cánh cửa kính mờ từ từ mở ra. Ngay đối diện với tôi là Bill Gates, đang nhâm nhi một lon Coca không đường. Ông ấy mỉm cười và nâng lon lên như thể nói cạn ly.
“Này, chàng trai trẻ,” ông ấy nói. “Vào trong đi…”
Khoảnh khắc bước qua khung cửa, tôi cảm giác như mình vừa bị hút vào trò chơi truyền hình thập niên 90 có tên Supermarket Sweep – trong đó những người dự thi phải chạy quanh siêu thị, tìm những món hàng đắt nhất, ném chúng vào xe đẩy và chạy đua đến quầy thu ngân trước khi chuông reo. Chỉ khác là tôi phải nhìn thấy tất cả mọi chi tiết có thể, ghi nhớ chúng càng nhanh càng tốt, tìm ra chi tiết sẽ là manh mối giúp tôi tìm được Chén Thánh và hoàn thành tất cả những việc đó trước khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Khi Gates đi sang khu vực tiếp khách của phòng làm việc, tất cả những gì tôi nghe được là “VÀO VỊ TRÍ… SẴN SÀNG… BẮT ĐẦU!”
Bàn làm việc của Gates làm bằng gỗ; nó rất ngăn nắp; trên mặt bàn đặt hai chiếc màn hình, phía sau dựng một chiếc ghế tựa bằng da màu rượu whiskey; ánh nắng xuyên qua những ô cửa sổ, rọi sáng bề mặt kính của năm khung ảnh treo trên tường. Một bức là ảnh Gates đang cười với Warren Buffett, một tấm ảnh khác là Gates và Bono, bức ảnh thứ ba chụp cận cảnh một người phụ nữ đang ôm ấp một đứa trẻ sơ sinh, bối cảnh có vẻ là một đất nước nào đó thuộc thế giới thứ ba. Ngay dưới những bức ảnh là chiếc bàn cà phê hình bầu dục sạch bóng đặt hai quyển sách chồng lên nhau. Một trong số hai quyển sách là của tác giả Steven Pinker, tôi ghi nhớ trong đầu: mua sách của Steven Pinker. Khu vực tiếp khách có hai chiếc ghế bành màu xám ngà voi, nằm giữa chúng là một chiếc trường kỷ màu nâu. Gates ngồi trên một chiếc ghế bành và tôi nhận ra đôi giày lười của ông màu đen, mũi tròn và có gắn tua rua ở trên. Tôi lại ghi chú thêm lần nữa trong đầu: mua giày lười có tua rua. Ông ấy diện quần âu sẫm màu và đi tất cổ gấp. Ông mặc một chiếc áo phông có cổ: vừa vặn thoải mái, màu vàng sậm, gần giống màu sốt mù tạt. Ông ấy…
Chuông báo trong đầu tôi vang lên.
“Vậy, đây là cuốn sách đầu tiên của cậu à?” Gates hỏi.
Chất giọng cao nổi tiếng của Gates thậm chí còn cao hơn ở ngoài đời, khiến tôi cảm thấy dường như ông rất hứng thú khi gặp tôi.
Gates chúc mừng tôi, và nói rằng ông ấy rất ấn tượng về những người mà tôi đã phỏng vấn. Rồi ông hỏi tôi đã gặp Qi Lu như thế nào.
Chánh văn phòng của Gates bước vào phòng, chào tôi và ngồi bên cạnh tôi trên chiếc trường kỷ. “Tôi nghĩ chúng ta có khoảng 45 phút,” ông ấy nói, “có lẽ nên vào thẳng vấn đề để tận dụng tối đa thời gian.”
Tôi đặt máy ghi âm lên bàn và liếc nhìn cuốn sổ tay. Tôi nghĩ mình sẽ bắt đầu bằng cách đưa Gates quay trở lại thời điểm ông bắt đầu công ty đầu tiên.
“Cháu đã đọc về những ngày thành lập Traf-O-Data hồi trung học,” tôi nói. “Ngài đã học được gì từ kinh nghiệm đó để gây dựng Microsoft sau này?”
“Ồ,” Gates nói, “Paul Allen và tôi đã cùng làm việc. Nó thực sự có ích với chúng tôi vì thị trường bộ vi xử lý máy tính thời đó còn rất nhiều hạn chế…”
Gates chậm rãi nói, và rồi, như một cái công tắc gạt, ông quay người, dán mắt vào tường và biến thành phiên bản sách nói bằng người thật của Bách khoa toàn thư thế giới nhưng với tốc độ đọc nhanh gấp đôi.
“… Bộ vi xử lý đầu tiên ra đời vào những năm 1971 – đó là 4004, và nó hầu như chẳng làm được gì. Paul nhìn thấy nó và cho tôi xem, anh ấy cũng biết rằng chúng tôi không thể làm gì nhiều. Rồi khi 8008 ra mắt vào năm 1973, anh ấy hỏi liệu tôi có thể viết hệ ngôn ngữ lập trình bậc cao cho nó và tôi nói không – à không, tôi hơi nhầm lẫn về ngày tháng rồi – năm 1972 là 8008 và năm 1974 là 8080…”
Tôi đến để tìm kiếm những chi tiết và giờ đây tôi bị chôn vùi trong trận lở tuyết của những chi tiết.
“… chúng tôi quyết định rằng mình chỉ có thể làm thứ gì đó phục vụ cho những mục đích đặc biệt, vì vậy cả hai đã thuê một bên thứ ba phụ trách quấn dây. Tất cả những gì chúng tôi biết là người ta sử dụng những cái ống như mấy thanh chắn giao thông và dập đống băng giấy buồn cười này. Chúng tôi luôn đau đáu với suy nghĩ chắc hẳn phải có cách nào làm việc đó bằng một chiếc máy tính. Chúng tôi thực ra đã thuê người xử lý băng giấy dập lỗ một cách thủ công; chúng tôi nhìn chúng rồi viết ra những con số, và dập lỗ, đặt chúng vào trong một lô máy tính, rồi…”
Trận lở tuyết ào ào đổ xuống và tôi không thể ngẩng đầu nổi trên mặt tuyết.
“… thế là tôi vào trường đại học, Paul kiếm một công việc gần đó. Chúng tôi tiếp tục thảo luận xem mình nên làm phần cứng hay phần mềm, thời điểm chúng tôi nên bắt đầu, và cuối cùng, chúng tôi thành lập một công ty chuyên về phần mềm vào năm 1979. Không, không – chúng tôi thành lập công ty phần mềm vào năm 1975. Đúng vậy, năm 1975. Sau đó chuyển đến Seattle vào năm 1979…”
10 phút trôi qua, nhưng tôi cảm giác như mới chỉ 10 giây. Nỗi sợ bao trùm khắp người tôi. Giả dụ cuộc phỏng vấn sẽ trôi qua như 45 giây thì sao?
Ngay lúc đó, cửa phòng làm việc bật mở.
“Xin lỗi vì đã ngắt lời,” một người phụ nữ nói, thò đầu vào phòng. “Nhưng Jenn đang chờ máy. Cô ấy nhờ tôi gọi ông.”
“Tôi tới ngay,” Gates nói, đứng dậy khỏi ghế.
“Tôi sẽ quay lại,” ông nói với tôi. “Chờ tôi một chút.”
Vị Chánh văn phòng nghiêng người về phía tôi. “Việc gia đình,” ông ấy thì thầm.
Tôi cảm giác như chiếc trực thăng cứu hộ vừa mới cất cánh.
Cửa đóng lại.
Tôi buông người xuống ghế, thở phào.
TÔI ĐIÊN CUỒNG LẬT ĐI LẬT LẠI cuốn sổ tay, nhìn vào những câu hỏi của mình.
“Nó có… có ích gì không?” vị Chánh văn phòng hỏi tôi. “Cho cuốn sách của cậu ấy?”
Tôi nhờ ngài Chánh văn phòng cùng tham gia cuộc phỏng vấn, phòng trừ trường hợp tôi cần giúp đỡ, và giờ thì ông ấy đang biểu đạt mong muốn giúp đỡ tôi. Câu hỏi đầu tiên của tôi thực sự không hợp lý chút nào. Vào lúc ấy, lẽ ra tôi nên nói: “Dạ, cháu thực sự cần giúp đỡ,” nhưng tôi quá sợ khi nghĩ rằng nếu nói thật sẽ khiến mình giống như một kẻ nghiệp dư.
“Ồ, vâng,” tôi nói, “cháu nghĩ là nó vẫn tốt.”
“Được rồi,” vị Chánh văn phòng đáp lại. “Được vậy tốt quá.”
Tôi quay lại với cuốn sổ tay. Nếu có gì đó có thể dẫn tôi đến chiếc Chén Thánh, nó phải là một câu hỏi về chiến lược kinh doanh, hoặc có lẽ là thứ gì đó liên quan đến bán hàng. Hiển nhiên, thương vụ mua bán lớn nhất trong cuộc đời Gates chính là thương vụ với IBM ở văn phòng của chính công ty này tại Boca Raton vào năm 1980. Năm đó ông ấy 25 tuổi, còn IBM là công ty công nghệ lớn nhất thế giới. Chính nhờ hợp đồng đó, Microsoft mới án ngữ ở vị trí thống trị ngành công nghiệp phần mềm trong suốt nhiều thập kỷ. Sau IBM, ông lại đạt được thỏa thuận khác với HP và những con bài domino liên tục đổ xuống. Gates nói với những nhà quản trị công ty sản xuất máy tính cá nhân: “Các ngài dự tính đặt cược vào một hệ điều hành được các công ty hạng hai sử dụng, hay vào hệ điều hành được IBM công nhận?” Đó chính là điểm bùng phát trong thành công của Gates, nhưng không có bất kỳ cuốn tiểu sử nào mà tôi đọc được nói về việc ông ấy đã đạt được thỏa thuận đó như thế nào.
“Cháu đã nói chuyện với các bạn của mình về câu chuyện IBM Boca,” tôi nói với vị Chánh văn phòng. “Do đó, câu hỏi mà họ muốn cháu hỏi là: Nếu Bill chủ trì một lớp học kéo dài 5 phút về cách làm chủ những cuộc họp bán hàng lớn, thì ông ấy sẽ dạy điều gì?”
“Tốt lắm,” vị Chánh văn phòng nói. “Tôi thích câu hỏi đó.”
Cửa văn phòng lại mở ra.
Gates trở lại ghế bành, và tôi đã đưa ra câu hỏi của mình.
“Vào thời điểm đó,” ông nói, “Tôi còn trẻ, và trông tôi còn trẻ hơn tuổi thật. Nhiều người bên phía IBM trong cuộc họp ban đầu khá hoài nghi về tôi.” Ông ấy giải thích rằng bước đầu tiên trong một cuộc họp bán hàng là phải phá vỡ sự hoài nghi, và cách tốt nhất để làm việc đó là khiến người khác phải choáng ngợp với kỹ năng của mình. Gates nói rất nhanh và đi thẳng vào những chi tiết – bộ ký tự, chip máy tính, ngôn ngữ lập trình, nền tảng phần mềm – cho đến khi tất cả mọi người đều phải thừa nhận ông không phải chỉ là một đứa trẻ ranh chưa rành sự đời.
“Gần như bất cứ khi nào họ hỏi chúng tôi về thời gian để làm một nhiệm vụ nào đó,” Gates tiếp tục, “chúng tôi thường sẽ đáp lại: ‘Ồ, chúng tôi có thể làm nhanh hơn là nói cho ông biết việc đó sẽ mất bao lâu! Vậy khi nào thì ông muốn? Ví dụ như, bao nhiêu giờ kể từ thời điểm này?’”
Lời khuyên về việc hứa hẹn quá sức của ông không phải là điều mới, nhưng Gates gây ấn tượng với IBM về tốc độ theo một cách rõ ràng là phi thực tế. Vì thực sự thì Microsoft phải mất hàng tháng để xây dựng phần mềm đó. Nhưng điều đó không phải là vấn đề quan trọng trong dài hạn. Điều quan trọng là Gates hiểu được rằng một trong những vấn đề mà các công ty lớn mắc phải là họ vận hành rất chậm – vì thế ông đã bán cho họ thứ họ đang cần nhất.
Sau đó, Gates nói với tôi một điều hoàn toàn đảo lộn mọi thứ tôi nghĩ mình đã biết về xác lập một thỏa thuận. Ông ấy đánh cược rằng sẽ tốt hơn nếu lấy ít tiền từ IBM thay vì vắt kiệt tài lực của công ty. Ông tin rằng các công ty khác sẽ nhanh chóng gia nhập thị trường sản xuất máy tính cá nhân, và nếu ông ấy có thể đạt được thỏa thuận với IBM, các công ty sản xuất khác sẽ đưa ra nhiều hợp đồng béo bở với Microsoft.
“Vì thế thỏa thuận sẽ biến thành lợi nhuận một phần tương đối với IBM,” Gates giải thích, “nhưng nhiều hơn với các công ty mới gia nhập thị trường.”
Gates muốn đạt được một thứ có giá trị hơn tiền mặt: chiến lược định vị thương hiệu. Việc đạt được một thỏa thuận tương đối trong hôm nay, từ đó mở đường cho nhiều thỏa thuận có lợi hơn trong tương lai sẽ tốt hơn có một thỏa thuận tuyệt vời nhưng không mở đường cho cái gì. Bài học rút ra rất rõ ràng: Chú trọng định vị thương hiệu trong dài hạn thay vì lợi nhuận ngắn hạn.
Ngẫm lại, tôi lẽ ra nên biết ơn những bài học mà Gates đang chia sẻ. Nhưng tôi chỉ ngồi đó suy nghĩ: “Thật sao…? Chỉ có vậy? Chiếc Chén Thánh nằm ở đâu mới được chứ?”
Phải mất rất lâu sau tôi mới hiểu được tại sao khi ấy mình lại mù quáng thế. Tôi là một phần của thế hệ BuzzFeed21, và những bài học của Gates không được lan truyền trên Twitter hay không xuất hiện trong những bài báo giật tít kiểu như “10 bí mật bất ngờ từ người đàn ông giàu nhất thế giới”, vậy nên lúc đó tôi đã không nhận ra giá trị của chúng. Tôi đồ rằng chiếc Chén Thánh chắc hẳn được chôn ở đâu đó khác, vì thế tôi đã hỏi Gates về những bí quyết khi đàm phán.
“Ngài cảm thấy thế nào khi đàm phán với những người lớn tuổi và nhiều kinh nghiệm hơn mình?”
“Ồ, IBM có những sự kìm hãm nhất định,” ông trả lời. Rồi ông kể cho tôi nghe về mã nguồn và trách nhiệm vô hạn22, những thứ dường như chẳng liên quan gì đến đàm phán. Tôi không thể hiểu tại sao ông lại lờ đi câu hỏi của mình.
Mãi về sau tôi mới nhận ra ông ấy đang trả lời nó, chẳng qua nó không theo cách mà tôi muốn. Chỉ đến khi nghe lại bản ghi âm, tôi mới hiểu ông đang nói gì.
Xuyên suốt cuộc đàm phán với IBM, Gates biết mình phải giữ bí mật về mã nguồn của Microsoft, tuy nhiên ông cũng biết sẽ khó có thể ngăn IBM thương thảo về mã nguồn vì đó chính là thứ mà họ đang rất cần mua. Gates nhận ra điều IBM lo sợ nhất – một vụ kiện tụng lớn – và lợi dụng điểm đó để xây dựng chiến lược đàm phán. Trong điều khoản hợp đồng, ông khăng khăng đòi trách nhiệm vô hạn từ IBM nếu công ty vô tình để lộ mã nguồn. Điều đó có nghĩa là nếu bất cứ nhân viên nào dù chỉ vô tình để lộ mã nguồn, Microsoft hoàn toàn có thể kiện IBM với mức bồi thường lên đến hàng tỷ đô-la. Điều đó khiến đại diện pháp lý của IBM sợ đến mức họ phải chọn không lấy mã nguồn, và đó chính xác là điều Gates muốn. Bài học rút ra: Tìm ra nỗi sợ hãi của đối thủ và sử dụng nó theo cách có lợi cho bạn.
“Đó là một bước đi vô cùng chiến lược,” Gates cười lớn và nói. “Steve Balmer và tôi đã suy tính rất kỹ càng.”
Tuy nhiên, những chia sẻ ấy của Gates cứ như nước đổ lá khoai với tôi suốt cuộc phỏng vấn. Vì vậy, tôi đã hít một hơi thật sâu và quyết định đưa ra một câu hỏi cụ thể hơn. “Ngài đã đàm phán với Ed Roberts như thế nào?” Roberts là người sáng lập của MITS, công ty ký hợp đồng mua phần mềm đầu tiên của Gates.
Tôi hy vọng sẽ được nghe một danh sách bí mật, đại loại như: “Một, ngồi thẳng lưng trên ghế; hai, bắt tay họ ở một góc độ nào đó; ba, khi chỉ còn một phút, đứng dậy, nhìn thẳng vào mắt họ, và nói điều này điều kia…” Nhưng dĩ nhiên, Gates không đưa ra bất cứ điều gì như thế. Thay vào đó, ông kể cho tôi nghe tất cả về cuộc đời của Ed Roberts, rồi đến mô hình kinh doanh của MITS.
Một lần nữa, chỉ khi nhìn lại tôi mới có thể thấy được câu trả lời của ông kín kẽ đến mức nào. Ông nói rằng việc trở thành một chuyên gia về tiểu sử của người mà mình đang thỏa thuận là cực kỳ quan trọng. Trong trường hợp người sáng lập của MITS, Gates đã nghiên cứu tất cả những gì có thể về tính cách, lời nói đùa, thành công và ước mơ của ông ấy. Thêm vào đó, Gates còn nghiên cứu thêm cả mô hình kinh doanh, trở ngại tài chính, cơ cấu vốn và những vấn đề với dòng tiền của công ty.
Nhưng lại một lần nữa, tất cả những điều đó đều bị tôi đưa vào tai này rồi cho ra tai kia. Tôi kiểm tra đồng hồ. Đã sắp hết thời gian. Tôi hoảng sợ và hỏi câu thứ ba về đàm phán. “Ba sai lầm trong đàm phán mà mọi người thường mắc phải là gì?”
Gates thở dài. Ông nhìn tôi như thể không hiểu tại sao tôi vẫn không hiểu. Ông bắt đầu trả lời, và về cơ bản nó nghe như: Ồ… không làm những gì tôi vừa nói…
Tôi ngồi đó suy nghĩ, “Ông ấy làm sao vậy? Tại sao ông ấy không cho tôi một câu trả lời thực sự?” Tôi chưa từng nghĩ rằng chính tôi mới là người không hiểu.
Gates bảo tôi hãy hỏi xin lời khuyên của họ, dành càng nhiều thời gian riêng tư với họ càng tốt và khiến họ nảy sinh mong muốn bảo trợ mình. Giờ thì tôi đã hiểu, về cơ bản, Gates đang nhắn nhủ tôi hãy ngừng lo nghĩ về những trò giật tít vặt vãnh trên BuzzFeed. Chiến thuật đàm phán tốt nhất là xây dựng mối quan hệ chân thành và tin tưởng lẫn nhau. Nếu bạn là một doanh nhân không có tên tuổi và người mà bạn đang liên hệ cũng không tham gia đầu tư vào doanh nghiệp của bạn, vậy sao họ lại muốn hợp tác kinh doanh với bạn? Nhưng mặt khác, nếu người đó là người thầy hay bạn của bạn, bạn thậm chí không cần phải đàm phán.
Đó là điều cuối cùng tôi kỳ vọng mình được nghe từ một bậc thầy chiến lược của giới kinh doanh. Tôi đã nghĩ ông sẽ chia sẻ những chiến thuật đã được kiểm nghiệm trên chiến trường, nhưng thay vào đó, ông lại bảo tôi hãy làm bạn với đối thủ để khỏi phải chiến đấu nữa.
Vị Chánh văn phòng hắng giọng.
“Cậu còn thời gian cho một câu hỏi nữa.”
Tôi lật ào ào cuốn sổ tay của mình. Vẫn còn rất nhiều câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Thôi kệ, tôi nghĩ. Nếu chỉ còn một phút cuối cùng với Bill Gates, tại sao tôi không thả lỏng và nghe những điều vui vẻ chứ?
Tôi bèn gạt cuốn sổ sang một bên.
“Câu chuyện đàm phán rối ren nhất, đáng nhớ nhất, điên rồ nhất, buồn cười nhất của ông thời còn trẻ là gì?”
Gates dành một chút thời gian để suy nghĩ.
“Ồ,” ông nói, buông lơi hai cánh tay, “có rất nhiều cuộc đàm phán buồn cười với các công ty Nhật Bản.” Mặt ông thả lỏng như thể đang xem một bộ phim bằng đôi mắt của trí nhớ. Tôi có thể cảm thấy sự kích động của ông khi kể lại cuộc họp với một nhóm lãnh đạo cấp cao người Nhật. Gates đang cật lực cố gắng giới thiệu sản phẩm cho họ, giải thích kỹ càng mọi thứ, cuối cùng, ông hỏi họ có muốn tiến đến một thỏa thuận không. Nhóm lãnh đạo cấp cao hội ý riêng với nhau. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Nhật trong 1 phút, rồi 5 phút, kéo sang tận 10 phút. 20 phút trôi qua. Cuối cùng, họ cũng đưa ra câu trả lời.
“Câu trả lời là…” – đột ngột dừng lại – “… có thể.”
“Trong tiếng Nhật, câu nói đó có nghĩa là không,” Gates nói. “Rồi chúng tôi nói với họ: ‘Ồ, luật sư của các ông nói tiếng Anh tốt thật!’ Và rồi họ nói: ‘Ồ, nhưng anh ấy nói tiếng Nhật rất tệ.’”
Vị Chánh văn phòng và tôi phá lên cười. Tôi cảm thấy tất cả những căng thẳng của tôi trong 45 phút vừa qua đều tan biến.
Gates lập tức chuyển sang câu chuyện về một lãnh đạo cấp cao người Nhật khác. Ông ta đã bay đến Seattle, có mặt ở văn phòng của Gates và bắt đầu huyên thuyên về việc Microsoft tuyệt vời đến thế nào, khen ngợi hết điều này đến điều khác. Gates bắt đầu lo lắng. Microsoft đã trì hoãn thời điểm giao phần mềm cho công ty của vị lãnh đạo cấp cao ấy, vì thế những lời khen này có vẻ rất vô lý. Vị lãnh đạo cấp cao vẫn tiếp tục hết lời khen ngợi công ty, thân thiện một cách bất thường, rồi Gates băn khoăn: Ông ta muốn gì? Ông ta muốn mua thêm phần mềm à? Một lúc lâu sau, vị lãnh đạo cấp cao mới đi thẳng vào vấn đề.
“Ngài Gates… thứ chúng tôi muốn mua… là…” – lại dừng lại đột ngột – “… ngài.”
Ba chúng tôi lại phá lên cười, và lần đầu tiên, tôi cảm giác đây không còn là một cuộc phỏng vấn nữa. Chúng tôi chỉ là ba người đàn ông đang vui vẻ trò chuyện.
“Vậy ngài đã trả lời như thế nào?” Vị Chánh văn phòng cười nói. “‘Câu trả lời là có thể’?”
Chúng tôi bông đùa thêm một chút, rồi vị Chánh văn phòng cúi xuống và kéo khóa chiếc cặp táp. Gates hiểu ám hiệu và đứng lên khỏi ghế.
“Hồi ấy ngài bao nhiêu tuổi khi thực hiện những cuộc đàm phán với nhóm lãnh đạo Nhật Bản?” tôi hỏi.
“Tôi tầm 19 đến 23 tuổi vào khoảng thời gian quan trọng đó ở Nhật Bản. Người bạn và cũng là đối tác kinh doanh của tôi, Kay Nishi, xứng đáng được tuyên dương về những thành tích đạt được khi ấy. Cả hai chúng tôi đã đi khắp nơi. Chúng tôi thường ở cùng phòng khách sạn có hai giường đơn. Đối tác hay gọi điện cho chúng tôi lúc nửa đêm. Tôi còn nhớ có một đêm chúng tôi được ngủ thẳng ba tiếng đồng hồ, rồi tôi đánh thức Kay dậy và nói: ‘Này, có chuyện gì không ổn với công việc kinh doanh à? Đã ba tiếng rồi mà sao chẳng thấy ai gọi điện cả!’”
Gates nói thêm một chút, tôi cảm nhận được cảm giác ấm áp, gần gũi đang tràn ngập khắp căn phòng. Tôi hối tiếc khi không bắt đầu cuộc phỏng vấn trong tâm thế này ngay từ đầu. Nhưng giờ thì đã quá muộn. Gates bắt tay tôi và nói tạm biệt. Ông đi về phía bàn làm việc còn tôi thì tiến ra cửa. Trước khi bước ra, tôi ngoảnh đầu nhìn căn phòng một lần cuối. Khi mọi thứ bắt đầu trở nên tuyệt vời thì cũng là lúc chúng phải kết thúc.