Sét Hòn - Tử Thần Trên Sa Mạc Gobi - Chương 04
7
[SETI@home]
Tôi lại bắt đầu đếm số thiên thần đứng trên đầu mũi kim, nhưng lần này không chỉ có một mình, đã có Lâm Vân đếm cùng tôi.
Trong quá trình xây dựng mô hình toán học, tôi nhận thấy khả năng toán học của Lâm Vân không bằng tôi, nhưng kiến thức của cô rất rộng, có trình độ khá sâu về nhiều môn khoa học mà chuyên ngành của cô yêu cầu. Kỹ năng máy tính của Lâm Vân rất tốt, có thể biến mô hình toán học thành chương trình máy tính. Các chương trình do cô làm ra đều có kết quả đầu ra trực quan, nếu như mô hình toán học đó thành công thì trên màn hình cũng sẽ biểu diễn một quả sét hòn ba chiều. Cấu trúc tỉ mỉ bên trong sét hòn được thể hiện từng ly từng tý, quá trình giải phóng năng lượng khi nó biến mất cũng được thể hiện rất rõ trong pha quay chậm, thay màn hình là có thể quan sát quỹ đạo chuyển động trong hệ tọa độ ba chiều. So với bảng và đường cong dữ liệu khô khan xuất ra từ chương trình mà tôi làm trước kia, chưa tính tới vấn đề thẩm mỹ và trực quan, thì những dữ liệu ngày trước khi xuất ra phải tốn rất nhiều thời gian thì mới biết được mô hình có thành công hay không, nhưng bây giờ, mấy chuyện này đều có thể được giải quyết bằng máy tính tự động. Phần mềm này đã cách mạng hóa việc nghiên cứu sét hòn của chúng tôi.
Giống như bố cục của mệnh đề, ta có thể tạo ra vô số mô hình toán học của sét hòn, chỉ cần thiết lập một hệ thống tuân theo định luật vật lý phù hợp và tự chủ về mặt toán học, sao cho năng lượng điện từ bị hạn chế để hình thành một hình cầu ổn định, đồng thời thỏa mãn được đặc điểm của sét hòn mà đã được biết từ trước tới nay. Nhưng để làm tới bước này thì thật không dễ chút nào, có một nhà thiên văn học từng nói một câu rất thú vị: Nếu một hằng tinh đang không tồn tại thì rất dễ dàng để chứng minh nó không thể tồn tại. Câu nói này rất thích hợp với sét hòn, việc suy nghĩ ra một cơ chế bẫy các sóng điện từ truyền đi với tốc độ ánh sáng trong một quả cầu nhỏ thật là một câu chuyện điên rồ.
Thế nhưng nếu đủ kiên nhẫn và máu cuồng nhiệt sắc bén thì vẫn có thể thiết lập và viết ra các mô hình như vậy. Còn việc chúng có thể qua được cửa kiểm nghiệm thực tế hay không lại là một chuyện khác; thực ra, tôi gần như đã chắc chắn chúng không thể thành công khi thực nghiệm. Mấy mô hình toán học mà chúng tôi hoàn thành đều chỉ biểu diễn một phần đặc điểm của sét hòn về mặt số học, một số đặc điểm khác không thể biểu diễn trong một mô hình nhưng lại có thể biểu diễn dễ dàng ở một mô hình khác, nhưng không có mô hình nào có thể biểu diễn toàn bộ đặc điểm.
Ngoại trừ sóng điện từ cần bị giam cầm như đã nói ở trên thì còn có một đặc điểm rất bí ẩn khác là tính lựa chọn khi sét hòn giải phóng năng lượng. Trong máy tính, sét hòn giả định được tạo ra từ mô hình toán học giống như một quả bom, khi nó chạm tới một vật thể hoặc khi tự giải phóng năng lượng, thì sẽ biến tất cả thành tro bụi. Mỗi lần nhìn thấy những thứ như vậy, trong đầu tôi đều hiện lên hình ảnh những cuốn sách bị cháy đen trên giá sách còn nguyên vẹn, hải sản bị nướng chín trong chiếc tủ lạnh vẫn đang hoạt động bình thường, chiếc áo lót bị thiêu rụi bên trong áo khoác, mặt ghế lạnh băng mà bố mẹ tôi ngồi trước khi họ bị thiêu cháy thành tro… Nhưng ký ức khắc sâu nhất của tôi là hình ảnh cuốn sổ bị cháy xém những trang cách nhau mà Trương Bân cho tôi xem. Đó là màn biểu diễn kiêu căng nhất của sức mạnh bí ẩn đó, nó tàn nhẫn hủy hoại niềm tin của chúng tôi.
Phần lớn thời gian tôi ngồi làm việc ở Sở nghiên cứu Sét, nhưng tôi thỉnh thoảng cũng lưu tới New Concept.
Hầu hết đồng nghiệp và bạn bè của Lâm Vân đều là nam quân nhân, ngay cả khi rảnh rỗi, tôi cũng hiếm khi thấy cô có bạn nữ nào. Những sĩ quan trẻ ấy đều thuộc tầng lớp trí thức cao cấp đang phát triển nhanh chóng trong quân đội, và họ đều toát lên vẻ nam tính, khí khái hiếm thấy trong xã hội ngày nay. Điều này khiến tôi luôn có cảm giác tự ti trước họ, đặc biệt là khi Lâm Vân cùng họ say mê thảo luận về nghiệp vụ quân sự mà tôi mù tịt, thì cảm giác tự ti ấy càng mạnh mẽ hơn nữa. Vị đại tá hải quân trong bức ảnh trên bàn làm việc của cô chính là đại diện ưu tú của bọn họ.
Tôi đã gặp vị Đại tá Giang Tinh Thần đó rồi, xem ra Lâm Vân đã quen biết anh ấy từ lâu. Ngoài đời, trông anh ấy trẻ hơn trong ảnh rất nhiều, tầm ngoài ba mươi tuổi, một vị đại tá trẻ như vậy hẳn là hiếm thấy.
“Đây là Giang Tinh Thần, hạm trưởng của Châu Phong” Lâm Vân giới thiệu với tôi, việc cô gọi thẳng tên của anh ấy, cho tới ánh mắt họ nhanh chóng liếc qua nhau, khiến tôi có thể khẳng định được mối quan hệ của họ.
“Tiến sĩ Trần, Lâm Vân đã nói với tôi rất nhiều về anh, cả sét hòn mà anh đang nghiên cứu,” anh ấy vừa nói vừa nhìn thẳng vào tôi với ánh mắt ôn hòa. Trong ánh mắt đó còn chứa cả sự chân thành, khiến tôi cảm thấy rất thoải mái, hoàn toàn không giống với hạm trưởng tàu sân bay mà tôi đã tưởng tượng.
Lần đầu tiên nhìn thấy Giang Tinh Thần, tôi đã hiểu việc cạnh tranh với anh ấy là vô nghĩa. Trái ngược với đám đàn ông thành thị quen thể hiện sự hung hăng, áp bức trước đối thủ tiềm năng, từng giây từng phút, anh ấy luôn cố gắng che giấu sức mạnh của mình, vì thiện ý. Anh ấy sợ sức mạnh đó sẽ làm tổn thương những người như tôi, anh ấy dường như muốn nói rằng: Tôi rất xin lỗi vì đã khiến anh cảm thấy tự ti trước mặt cô ấy, nhưng tôi không hề cố ý, hãy để chúng ta cùng nhau cải thiện tình hình này.
“Đối với tàu sân bay của anh, mỗi người dân chúng tôi đều phải trả mười tệ tiền thuế,” tôi cố gắng thả lỏng bản thân, nhưng câu từ thốt ra lại thật vụng về.
“Khoản tiền đó không bao gồm máy bay và tàu tuần dương hộ tống, vậy nên mỗi khi cất cánh, chúng tôi đều phải gánh vác nó trên vai,” anh nghiêm túc nói, một lần nữa giải tỏa cảm giác căng thẳng nơi tôi.
Sau khi gặp Giang Tinh Thần, tôi không cảm thấy chán nản như đã tưởng, thay vào đó lại như trút được gánh nặng. Lâm Vân đã tạo nên một thế giới nhỏ bé, xinh đẹp trong trái tim tôi. Tôi yêu thích thế giới đó, đến đó nghỉ ngơi mỗi khi mệt mỏi về cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng cũng rất cẩn thận để không rơi vào đó. Có thứ gì đó đã chia cắt linh hồn của chúng tôi, một thứ không dễ gì có thể diễn đạt được, nhưng tôi nhận ra sự tồn tại của nó. Đối với tôi, Lâm Vân giống như thanh kiếm nhỏ được cô cài trên áo, lấp lánh, xinh đẹp nhưng sắc bén và nguy hiểm.
Sau khi tạo ra vài mô hình toán học, tôi dần dà cảm thấy mô hình của cấu trúc mới ngày càng thể hiện được những đặc tính đã biết của sét hòn. Đồng thời, khối lượng tính toán cũng ngày càng lớn, có lúc, máy tính P4 có tốc độ xung nhịp 3 GHz của tôi phải vận hành mấy ngày mới hoàn thành được một phần mô phỏng; Lâm Vân đã làm một mạng nhỏ gồm 18 máy tính ở New Concept, tôi và cô cùng nhau chia mô hình đó thành 18 phần có thể chạy song song do 18 máy tính khác nhau tính toán, sau đó chúng tôi tổng hợp lại kết quả. Cách làm này cải thiện đáng kể hiệu suất.
Cuối cùng, tôi cũng hoàn thành một mô hình toán học có thể đại diện cho tất cả đặc tính đã biết của sét hòn, điều mà Lâm Vân lo sợ đã sớm xảy ra. Lần này, sau khi cầm mô hình toán học, cô không lập tức viết chương trình mà dành vài ngày để ước tính độ phức tạp trong tính toán của mô hình. Sau khi thu được kết quả, cô thở dài.
“Chúng ta đang gặp khó khăn,” Lâm Vân nói. “Với số lượng cần tính toán của mô hình này, sẽ mất khoảng nửa triệu giờ để hoàn thành mô phỏng này trên một máy vi tính”
Tôi sửng sốt. “Nghĩa là… hơn 50 năm?”
“Đúng vậy. Dựa vào kinh nghiệm trước đây, mỗi mô hình cần nhiều lần gỡ lỗi thì mới có thể chạy được. Với độ phức tạp của mô hình này, số lần gỡ lỗi sẽ nhiều hơn, và mỗi một lần gỡ lỗi sẽ phải mất đến 10 ngày mới có thể hoàn thành”
“Như vậy cần đến gần 2000 máy vi tính đồng thời tính toán!” Tôi ước tính.
Thế là chúng tôi bắt đầu tìm cách sử dụng máy chủ, nhưng chuyện này không hề dễ dàng. Sở Nghiên cứu Sét và New Concept đều không có máy chủ, máy chủ lớn nhất là máy chủ ALPHA. Máy chủ của quân đội luôn bận rộn và bị hạn chế nghiêm ngặt. Vì nghiên cứu của chúng tôi chưa liên hệ gì với bên quân đội nên Lâm Vân dù đã cố gắng nhiều lần nhưng cũng chẳng ăn thua. Cuối cùng, chúng tôi chỉ có thể ký thác hy vọng vào máy chủ dân dụng. Tuy nhiên, tôi và Lâm Vân đều không có cách nào với hướng đi này nên chỉ có thể nhờ đến sự trợ giúp của Cao Ba.
Lúc này, Cao Ba cũng đang ở trong một tình huống tồi tệ. Ngay khi nhậm chức, ông đã thay đổi cơ chế từ đơn vị nghiên cứu sang doanh nghiệp, hướng tới thị trường, đồng thời dùng phương thức cạnh tranh chức vụ để giảm bớt số lượng lớn nhân viên. Vì ông làm việc nóng nảy, không cẩn trọng, lại thêm không hiểu nhân tình thế thái, vậy nên quan hệ cấp trên với cấp dưới rất căng thẳng.
Hoạt động của Sở còn thảm hại hơn nữa: Sau khi nhậm chức, ông đã dành sức lực chính của Sở nghiên cứu để phát triển thiết bị chống sét và triệt tiêu sét thế hệ mới. Những thiết bị này rất khác so với các thiết bị chống sét thông thường. Chúng bao gồm máy triệt tiêu sét dùng chất bán dẫn, cột thu lôi tối ưu hóa, thiết bị dẫn sét laser, thiết bị dẫn sét tên lửa và thiết bị dẫn sét dùng trụ nước. Lúc này, vừa hay hội thảo học thuật do Tiểu ban điều phối quá áp và chất cách điện, Ủy ban đặc biệt về điện áp cao, Hiệp hội Công trình Cơ điện Trung Quốc tổ chức, ông chọn đề tài là trang thiết bị chống sét và triệu tiêu sét thế hệ mới. Biên bản công bố cuối cùng của hội nghị cho rằng lý luận và thực tiễn chưa chứng minh được những sản phẩm độc đáo đó có tính năng ưu việt hơn trang thiết bị chống sét thông thường. Ngoài ra, còn có rất nhiều vấn đề còn đang chờ đợi nghiên cứu và giải quyết, vậy nên các sản phẩm chống sét độc đáo này không thích hợp để sử dụng trong các công trình. Do quyền lực và sức ảnh hưởng của tổ chức này, quan điểm của hội nghị chắc chắn đã dựa theo các quy phạm về công trình chống sét của quốc gia. Thế nên, những thứ đang nghiên cứu và phát triển không có cơ hội ra mắt thị trường, khoản đầu tư lớn sẽ rất lãng phí. Lúc tôi tới tìm Cao Ba hỏi chuyện máy chủ, ông nói mình cũng đang tìm tôi, bảo tôi tạm thời gác lại chuyện nghiên cứu sét hòn, tập trung sức lực để phát triển hệ thống cung cấp điện lực sử dụng hệ thống định vị sét thế hệ mới, đồng thời hoàn thành thiết kế công trình chống sét của Nhà hát lớn Thủ đô. Thế là câu chuyện máy chủ không còn đất để diễn, ngay cả việc nghiên cứu sét hòn sau đó cũng chỉ là công việc ngoài giờ.
Tôi và Lâm Vân cố gắng tìm thêm vài cách khác, nhưng không ngờ ở thời đại máy tính đã trở thành vật thiết yếu như thế này, máy chủ vẫn còn hiếm tới vậy.
“Chúng ta vẫn còn may mắn đấy,” Lâm Vân nói. “So với dự án siêu tính toán trên thế giới thì khối lượng tính toán của chúng ta không là gì cả. Tôi vừa đọc một tài liệu về lần mô phòng thử nghiệm hạt nhân của Bộ Năng lượng Mỹ, khả năng tính mỗi giây 12 nghìn tỷ phép toán của họ hiện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một lần mô phỏng thử hạt nhân. Họ đang xây dựng một hệ thống tập trung, bao gồm 12.000 bộ xử lý ALPHAPOWERED, có thể đạt được tốc độ tính mỗi giây 100 nghìn tỷ phép toán. Khối lượng phép toán của chúng ta vẫn nằm trong phạm vi bình thường, nên sẽ tìm được phương pháp giải quyết thôi.”
Lâm Vân hành động như một người lính, cho dù gặp phải khó khăn thế nào, cô vẫn không ngừng tiến lên. Đồng thời, việc cô kể qua loa khó khăn mình đang gặp phải cũng giảm bớt áp lực cho tôi, đáng lẽ đây là điều tôi nên làm cho cô ấy.
Tôi nói: “Mô phỏng kỹ thuật số sét hòn cũng tương tự việc mô phỏng thử nghiệm hạt nhân, chúng đều mô tả lại quá trình tiến hóa năng lượng. Ở khía cạnh nào đó, mô phỏng sét hòn phức tạp hơn, cho nên chúng ta sớm muộn phải đạt được các phép toán đó. Nếu không sẽ như hiện nay, tôi không thấy bất kỳ giải pháp nào cho chúng ta cả.”
Vài ngày sau, tôi tập trung làm hệ thống định vị sét mà Cao Ba giao cho, không liên lạc gì với Lâm Vân. Một ngày nọ, tôi nhận được điện thoại của Lâm Vân, cô ấy nói cho tôi một địa chỉ trang web, giọng điệu rất hứng khởi.
Tôi nhanh chóng truy cập trang web đó, nền của trang web là màu đen của vũ trụ, đầu trang có quả địa cầu đang trôi trong sóng điện màu tím, tên của trang là “SETI@home”, viết tắt của “Tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất từ căn nhà của bạn” bằng tiếng Anh.
Thực ra, tôi đã biết trang web này từ lâu, đây là một thử nghiệm lớn được thiết kế để sử dụng nguồn năng lượng nhàn rỗi của hàng vạn máy tính được kết nối Internet nhằm tìm kiếm các nền văn minh ngoài Trái đất. Chương trình SETI@home là một screensaver* đặc biệt, dùng dữ liệu của kính viễn vọng vô tuyết lớn nhất thế giới Arecibo thu được rồi phân tích để tìm kiếm các nền văn minh ngoài Trái đất. Tuy nhiên, lượng dữ liệu lớn như vậy sẽ tràn ngập trước mắt bạn, và khi tìm kiếm những thông tin cần thì phải nhờ đến một siêu máy tính. Tuy nhiên, để làm được như vậy cần tốn một khoản tiền rất lớn. Vì vậy, các nhà khoa học với túi tiền không được rộng rãi lắm đã đưa ra một giải pháp: Thay vì một chiếc máy tính khổng lồ, chi bằng dùng nhiều máy tính “nhỏ” để cùng thực hiện công việc nặng nhọc này. Mỗi ngày, các dữ liệu do Arecibo thu thập sẽ được ghi lại trên HDDT* rồi truyền trở lại cơ sở nghiên cứu của Đại học California, nơi các dữ liệu này được chia nhỏ thành các “đơn vị công việc” 0.25Mb, sau đó được server của SETI@ home gửi tới các máy tính cá nhân khác nhau. Tất cả những gì cư dân mạng trên thế giới cần làm là truy cập trang của dự án, tải xuống rồi cài đặt một phần mềm screensaver đặc biệt. Sau khi mọi người hoàn thành công việc và nghỉ ngơi, chương trình screensaver này sẽ bắt đầu chạy, chiếc máy tính đang nghỉ trên thực tế lại gia nhập vào quá trình tìm kiếm người ngoài hành tinh theo trình tự: tiếp nhận, phân tích “đơn vị công việc” đã được SETI@home gửi tới, sau khi công việc phân tích kết thúc, hệ thống sẽ tự động gửi kết quả phân tích trở lại máy chủ, rồi lại tiếp tục “đơn vị công việc mới”.
Tôi tải xuống phần mềm screensaver từ trang web và khởi động. Hình nền của phần mềm cũng màu đen, nửa dưới hiển thị tín hiệu do kính viễn vọng vô tuyến nhận được đang được biểu diễn trong một hệ tọa độ ba chiều. Giống như con chim đang nhìn một siêu thành phố có vô số tòa nhà chọc trời, trông rất ngoạn mục. Góc bên trái hiển thị một đường sóng thay đổi với tốc độ nhanh, đây là phần tín hiệu đang được phân tích, còn có số phần trăm biểu thị mức hoàn thành, tôi thấy đã tính được 5 phút nhưng chỉ hoàn thành được 0.01%.
“Tuyệt vời!” Tôi đập vào đống hồ sơ và hét lên, khiến những người khác trong văn phòng phải ngạc nhiên nhìn tôi. Khi những nhà khoa học có kinh phí nhiều hơn cũng đang gặp phải vấn đề giống chúng tôi, họ có thể nghĩ ra phương pháp tiết kiệm sáng tạo như thế. Tôi tự cảm thấy xấu hổ về bản thân. Sau đó, tôi chạy ngay tới New Concept, lúc nhìn thấy Lâm Vân đang ngồi trước máy tính, không ngoài dự đoán, cô ấy đang làm trang web.
Việc cần làm tiếp theo chính là đem mô hình số học cần tính chia thành 2000 đơn vị tính song song, đây là một công việc phức tạp. Chúng tôi mất nửa tháng để làm. Sau đó, chúng tôi đem những đơn vị công việc này liên kết với chương trình screensaver, cài lên trang chủ. Lập trình mạng máy tính phức tạp hơn mạng lập trình của SETI@ home, vì còn cần chuyển dữ liệu giữa các đơn vị tính. Cuối cùng, chúng tôi đưa trang web lên, ôm hy vọng và chờ kết quả. Ba ngày sau, chúng tôi phát hiện bản thân đã quá lạc quan. Có chưa tới 50 người truy cập trang web và chỉ có 4 người tải phần mềm xuống. Có hai lời bình luận được để lại, đều là những lời đạo mạo nghiêm khắc cảnh cáo chúng tôi đừng làm trò ngụy khoa học. “Vậy giờ chỉ còn một cách thôi,” Lâm Vân nói. “Treo đầu dê bán thịt chó, đem số liệu cần tính toán của chúng ta lên máy chủ của SETI@home, hack máy chủ của bọn họ không quá khó. Như vậy, số lượng máy tính đã tải chương trình screensaver của họ sẽ làm việc cho chúng ta, và dựa vào cài đặt trong chương trình để họ chuyển kết quả cho chúng ta.”
Tôi không phản đối ý kiến đó. Tôi cho rằng khi một người đang vô cùng khao khát thứ gì đó thì sẽ rất khó kiềm chế về mặt đạo đức. Nhưng tôi vẫn viện ra một cách biện giải: “Hiện tại có hơn 100.000 máy tính đang làm việc cho họ, chúng ta chỉ cần 2000 máy trong số đó là được rồi, làm xong rồi rời đi thì sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến bọn họ.”
Thực ra Lâm Vân vốn không cần lời an ủi của tôi, cô ấy kết nối máy tính với Internet, nhanh chóng vào việc. Nhìn cách làm nhuần nhuyễn của cô, tôi không dám tưởng tượng trước đây cô đã làm gì rồi. Hai ngày sau, cô ấy thành công đưa dữ liệu và chương trình của chúng tôi lên máy chủ của SETI@home (sau này tôi mới biết vị trí của máy chủ đó ở Đại học Berkeley).
Từ sự việc lần này, tôi hiểu rằng những ràng buộc về đạo đức của Lâm Vân ít hơn nhiều so với tôi, để đạt được mục đích, cô không từ thủ đoạn nào.
Chỉ hai ngày sau, 2000 chương trình screensaver mà chúng tôi đưa lên SETI@home đều đã được tải xuống, kết quả tính toán bắt đầu tải vào máy chủ của chúng tôi không ngừng. Mấy ngày sau, tôi và Lâm Vân thường dành vài tiếng để nhìn những dữ liệu đang tăng lên không ngừng, mường tượng cảnh 2000 chiếc máy tính đang say sưa làm việc cho chúng tôi rải rác khắp Trái đất.
Đến ngày thứ tám, tôi bật máy tính ở Sở Sét lên, đăng nhập vào máy chủ của New Concept, phát hiện kết quả tính toán đã dừng lại, có một tệp văn bản được truyền tới với nội dung như sau:
[Chúng tôi đang theo đuổi sự nghiệp vĩ đại nhất của nhân loại bằng số tiền ít ỏi nhất, vậy mà lại phải chịu sự quấy nhiễu đáng xấu hổ như thế này, bạn nên tự cảm thấy hổ thẹn vì bản thân!
Norton Parker, Giám đốc dự án SETI@home]
Trong một khắc, tôi như rơi vào hầm băng, mất hết ý chí, không cả buồn gọi điện cho Lâm Vân, nhưng cô ấy đã gọi tới trước.
“Tôi đã biết rồi, nhưng không coi đó là chuyện lớn,” cô ấy trả lời câu hỏi của tôi rồi nói thêm, “Anh hãy xem bình luận trên trang web cũ của chúng ta đi!”
Tôi mở trang web của chúng tôi lên, nhìn thấy mục bình luận có thêm một dòng bằng tiếng Anh:
[Tôi biết các bạn đang tính gì, BL, đừng lãng phí cuộc sống nữa, tới tìm tôi đi!
Số 561, tòa 106, đường số 24, thành phố Knox Burke, vùng Novosibirsk, Liên Bang Nga]
BL là cách gọi tắt của sét hòn.
8
SIBERIA
“Anh nghe thấy chưa, tiếng thông reo đấy!” Lâm Vân hào hứng nói, nhưng tôi không có nhã hứng, chỉ quấn chặt chiếc áo khoác to sụ vào mình. Trong gió tuyết sương mù đang cuốn theo làn gió, những đỉnh núi xa xăm chỉ còn lại những bóng hình mơ hồ.
Sau bốn giờ đồng hồ cất cánh từ Moskva, chuyến bay hạ cánh xuống sân bay Novosibirsk. Cảm giác lạ lẫm của tôi càng sâu sắc hơn so với lúc bước xuống sân bay Moskva một tuần trước, tôi chỉ cảm thấy được an ủi đôi chút khi nghĩ rằng nơi này cũng gần với Trung Quốc.
Sau khi đọc được dòng bình luận đó, chúng tôi cảm thấy có rất nhiều điều ẩn sau thông điệp này nhờ bản năng. Tôi nằm mơ cũng chưa từng nghĩ tới việc mình sẽ có cơ hội tới Siberia. Một tuần sau, Lâm Vân rủ tôi cùng tham gia vào một đoàn cố vấn kỹ thuật tới Nga. Cô ấy nói rằng cuộc đàm phán giữa Trung Quốc và Nga về việc lắp ráp máy bay Su-30* ở nội địa Trung Quốc đã gần hoàn thành. Đoàn cố vấn kỹ thuật này cùng một phái đoàn quân sự cấp thấp sẽ tới Nga để hoàn thiện một số chi tiết. Tôi là chuyên gia về sét duy nhất trong đoàn, cảm thấy chuyện này không phải ngẫu nhiên nên tôi đã hỏi Lâm Vân làm sao mà tìm ra được cơ hội như vậy. Cô ấy chỉ bí ẩn đáp: “Tôi đã sử dụng một đặc quyền. Tôi đã không sử dụng đặc quyền này khi tìm máy chủ, còn lần này là do không còn cách nào khác.”
Tôi không biết đặc quyền mà cô ấy nói tới là gì, cũng không hỏi thêm. Sau khi tới Moskva, tôi phát hiện mình không có việc gì làm trong các hoạt động của đoàn đại biểu, Lâm Vân cũng thế. Chúng tôi theo chân bọn họ đến thăm Phòng thiết kế Sukhoi, rồi lại tới một vài nhà máy lắp ráp trong khu liên hợp công nghiệp – quân sự.
Vào một buổi tối ở Moskva, Lâm Vân đã xin phép đoàn trưởng ra ngoài, đến mãi khuya mới trở lại khách sạn. Tôi tới phòng tìm cô ấy, thấy cô đang thất thần ngồi đó, hai mắt đỏ hoe, gương mặt còn vương nước mắt, khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Lâm Vân trong lòng tôi sẽ không bao giờ rơi lệ. Cô ấy không nói gì cả, tâm trạng rất ủ dột. Từ sự việc lần này, tôi phát hiện cuộc sống của Lâm Vân phức tạp hơn tôi tưởng rất nhiều.
Khi đoàn đại biểu trở về nước, hai chúng tôi cũng lên chiếc máy bay bay cùng chiều nhưng đích đến gần hơn rất nhiều. Thực ra, từ Moskva tới Siberia cũng không gần hơn nhiều so với xuất phát từ Bắc Kinh. Từ sân bay, chúng tôi bắt xe đi Knox Burke, tài xế nói chúng tôi phải đi 60km nữa mới tới nơi. Tuyết phủ trắng xóa hai bên đường cao tốc, tuyết và sương vần vũ, rừng rậm đen sẫm dọc đường. Lâm Vân biết nói tiếng Nga, tuy không quá lưu loát nhưng vẫn có thể cùng tài xế trò chuyện vui vẻ. Người tài xế quay đầu liếc nhìn tôi đang co ro trong cái lạnh, dường như cảm thông vì tôi không thể tham gia vào cuộc trò chuyện, sau đó đột nhiên nói chuyện với Lâm Vân rất lưu loát bằng tiếng Anh:
“… Thành phố Khoa học bắt nguồn từ một ý tưởng rất lãng mạn từ cuối những năm 50. Ý tưởng ấy tràn ngập sự ngây thơ và đơn giản, là chủ nghĩa lý tưởng sáng tạo Thế giới mới. Thực ra, ý tưởng này không thành công như những gì các bạn nghe thấy đâu. Thành phố Khoa học này cách xa các đô thị, giao thông khó khăn đã hạn chế ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật. Dân số quá ít nên không thể hình thành văn minh đô thị, thậm chí còn ngược lại hoàn toàn với ý muốn hướng tới xây dựng các đại đô thị của nhân loại, uổng công cạnh tranh với các thành phố lớn, cuối cùng những nhân tài khoa học chuyển tới những thành phố lớn hơn và tốt hơn… ”
“Ông không giống một tài xế tắc-xi cho lắm,” tôi chen vào.
Lâm Vân giới thiệu: “Vị này là nhà nghiên cứu của Phân viện nghiên cứu Siberia thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Nga, ông ấy… Ông vừa nói chuyên ngành của mình là gì nhỉ?”
“Tôi đang nghiên cứu vấn đề quy hoạch tổng hợp tài nguyên trong khu vực chưa khai phá ở Vùng kinh tế Viễn Đông, một kiểu kiến thức mà những người chỉ vì lợi ích trước mắt sẽ không cần.”
“Ông đang thất nghiệp à?”
“Chưa, hôm nay là Chủ nhật, số tiền tôi kiếm được trong hai ngày hôm nay còn nhiều hơn tiền lương một tuần.”
Xe băng băng tiến vào Thành phố Khoa học. Hai bên đường, những kiến trúc từ thập niên 50, 60 của thế kỷ trước lướt qua trong sương tuyết, có lúc, tôi còn nhìn thấy cả tượng đài Lê-nin. Thành phố này khiến người ta phải hoài niệm, các thành cổ hàng ngàn năm lịch sử cũng không khiến người ta có cảm giác như thế này. Vì chúng quá cũ rồi, cũ tới mức không còn liên quan gì tới bạn, cũ tới mức khiến người ta không còn cảm giác gì về chúng. Nhưng thành phố này cũng có thể gợi nhớ lại một thời đại đã đi qua, thời đại mà bạn trải qua hồi còn nhỏ và khi thiếu niên. Đó là thời thượng cổ và Trước Công nguyên của chính bạn.
Xe dừng lại trước một tòa nhà năm tầng, bên trong có thể là khu dân cư, các dãy nhà nhìn giống hệt nhau. Trước khi rời đi, vị tài xế đã nói vọng qua cửa sổ mấy câu ý vị sâu xa:
“Đây là khu dân cư rẻ nhất trong thành phố, nhưng những người sống ở đây lại không phải những người rẻ rúng nhất đâu.”
Sau khi bước vào cổng, chúng tôi nhận thấy không gian bên trong rất tối, đây là các tòa nhà dân cư có trần nhà rất cao từ những năm 50 của thế kỷ trước. Bức tường trên sảnh vẫn còn dán mấy bức áp phích về các cuộc bầu cử địa phương của nhiều đảng phái chính trị khác nhau, càng tiến vào sâu bên trong thì chỉ có thể dò dẫm đi tiếp. Chúng tôi tìm số nhà nhờ ánh sáng của bật lửa, lên tới lầu năm, đi vòng qua cầu thang, tôi giơ chiếc bật lửa đang nóng rẫy tay lên để tìm căn hộ số 561, đoạn nghe thấy một giọng nói mộc mạc đang hét lên bằng tiếng Anh, nhưng không biết phát ra từ hướng nào.
“Có phải các bạn không? Tới vì BL hả? Căn thứ ba bên trái.”
Chúng tôi đẩy cửa bước vào, căn phòng này tạo ra hai cảm giác rất mâu thuẫn: nó rất tối, nhưng chiếc đèn trần lại sáng chói đến nhức mắt. Căn phòng nồng nặc mùi rượu. Sách chất đống mọi nơi, hơi lộn xộn, nhưng chưa tới mức mất kiểm soát. Màn hình máy tính nhấp nháy rồi vụt tắt, một dáng người cao lớn trước máy tính đứng lên. Râu của ông ta rất dài, sắc mặt trắng bệch, tuổi chừng ngoài ngũ tuần.
“Sống ở đây lâu rồi, nghe tiếng cầu thang là biết người lạ, mà người lạ có thể tới tận đây thì chỉ có thể là mấy người thôi. Tôi tin hai người sẽ tới.” Ông ấy cân nhắc nhìn chúng tôi. “Rất trẻ, như tôi lúc bắt đầu cuộc sống thảm hại này. Người Trung Quốc hả?”
Chúng tôi gật đầu.
“Bố tôi từng tới Trung Quốc vào thập niên 50 của thế kỷ trước, là một kỹ sư thủy điện, ông ấy đã giúp xây dựng Nhà máy Thủy điện Tam Môn Hiệp, nghe nói không giúp được cái gì hả?”
Lâm Vân suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Hình như vậy, các ông không tính tới quá trình bồi đắp phù sa của Hoàng Hà, cho nên đập nước lớn đó đã gây ra lũ lụt ở thượng lưu, tới nay cũng không dám trữ nước nữa.”
“Ồ, lại là một thất bại, thời đại lãng mạn ấy để lại trong ký ức của chúng tôi chỉ có thất bại thôi.”
“Alexander Germov,” ông ấy giới thiệu mình, sau đó chúng tôi cũng lần lượt giới thiệu bản thân, đoạn ông ấy lại quan sát chúng tôi thêm một lượt. Ánh mắt lần này sắc sảo hơn, sau đó ông lẩm bẩm: “Trẻ quá, vẫn còn cứu được.”
Tôi và Lâm Vân kinh ngạc nhìn nhau, cố gắng hiểu hàm ý những lời ông ấy nói. Germov đặt một chai rượu lớn cùng một cốc thủy tinh lên bàn, rồi lục lọi tìm gì đó. Tôi để ý hai bên chiếc máy tính xếp hai hàng chai rượu đã rỗng. Tôi và Lâm Vân nhân cơ hội này quan sát căn phòng, giờ mới nhận ra nguyên nhân của cảm giác mâu thuẫn lúc mới bước vào phòng: Toàn bộ giấy dán tường đều là màu đen, hệt ám thất. Theo thời gian, bức tường không được sửa chữa thấm nước, rửa trôi cả màu của giấy dán tường, nhiều vệt trắng và đốm trắng xuất hiện.
“A ha, tìm được rồi, chết tiệt, chỗ tôi chẳng mấy khi có người lui tới.” Germov lôi ra thêm hai chiếc cốc đặt trên bàn, sau đó rót đầy rượu vào ba chiếc cốc, đây là loại rượu vodka moonshine* có màu trắng đục, nhưng cốc lại là cốc thủy tinh to dùng để uống trà. Tôi vội vã nói mình không uống được nhiều như này.
“Vậy để cô gái này uống thay anh đi,” Germov lạnh lùng nói rồi uống cạn cốc rượu của mình, sau đó lại rót đầy nó.
Trái lại với tôi, Lâm Vân không hề từ chối, nâng cốc lên uống cạn, dọa tôi líu lưỡi, sau đó đưa tay với lấy cốc của tôi uống cạn.
“Ông biết chúng tôi tới để làm gì,” tôi nói với Germov.
Germov không nói gì, chỉ rót rượu cho mình và Lâm Vân. Hai người họ chén chú chén anh, chỉ uống mà không nói năng gì. Tôi nhìn Lâm Vân, muốn cô nói gì đó, nhưng cô dường như bị lây chứng nghiện rượu của Germov, rót thêm nửa cốc, hai mắt chỉ nhìn thẳng về phía trước. Tôi bắt đầu sốt ruột, dộng mạnh chiếc cốc rỗng trên bàn, cô ấy quay sang nhìn tôi, sau đó nghiêng đầu về phía bức tường bên cạnh.
Tôi chuyển sự chú ý của mình về bức tường đen kỳ cục đó, phát hiện trên giấy dán tường màu đen còn có một vài bức ảnh mờ ảo, tôi bước đến gần và nhìn kỹ thì nhận ra toàn bộ đều là ảnh phong cảnh, công trình, cây cối, dường như đều được chụp vào buổi tối, ảnh rất mờ, đa phần đều đã bị cắt xén và chỉ giữ lại phần màu đen. Đoạn tôi lại nhìn thấy mấy vệt và đốm trắng, máu tôi chợt như đông cứng lại.
Căn phòng rất lớn này, bao gồm cả đống giấy dán trên trần nhà, đều được bao phủ bởi vô số bức ảnh đen trắng của sét hòn.
Những bức ảnh có kích thước khác nhau, nhưng hầu hết đều rơi vào khoảng 3x5 inch, vì vậy, số lượng của những bức ảnh làm tôi hoảng hồn. Tôi quan sát từng bức một, nhưng không phát hiện bức nào trùng nhau.
“Nhìn đằng kia kìa,” Germov nói, chỉ về phía cửa. Chúng tôi đưa mắt nhìn theo, thấy một bức ảnh rất lớn được dán ở cửa ra vào, như được chụp vào lúc mặt trời mọc, mặt trời vừa nhô lên ở đường chân trời, quả cầu ánh sáng màu trắng có bóng của rừng cây.
“Bức ảnh này được chụp vào năm 1975 ở Congo, đường kính của nó là…” Germov uống cạn thêm một cốc rượu khác. “105m, sau khi nổ đã thiêu rụi 2 héc-ta rừng và làm sôi một hồ nước nhỏ. Nhưng có điều kỳ quái là quả sét hòn siêu lớn này xuất hiện vào một ngày nắng đẹp.”
Tôi đón lấy một chiếc cốc từ tay Lâm Vân, tự rót cho mình rồi uống cạn, mặc cho mấy thứ điên rồ này quay cuồng. Tôi và cô ấy đều không nói gì, chỉ muốn xoa dịu cơn sốc và suy nghĩ của mình. Tôi chuyển sự chú ý sang đống sách và đưa tay cầm lấy cuốn ở gần nhất. Nhưng thật là thất vọng, tôi không biết tiếng Nga, nhưng bức chân dung tác giả và hình ảnh bản đồ thế giới ở trang tiêu đề đã gợi ý cho tôi biết cuốn sách đó là gì. Lâm Vân cầm lấy nó, sau đó trả lại.
“Tư duy mới,” cô ấy nói.
Giờ tôi mới biết lý do tại sao lúc mới bước vào đây, trông chúng không quá lộn xộn. Những cuốn sách này được đóng bìa rất đẹp, tất cả đều giống nhau: “Tư duy mới”.
Germov nói: “Các tài liệu mà hai người muốn, tôi đã từng có, nhưng mười năm trước căn phòng này không chứa nổi nữa nên tôi đã đốt hết rồi. Sau đó, tôi mua cả đống này, sống nhờ nó đấy.”
Chúng tôi nhìn ông bằng ánh mắt khó hiểu.
Germov cầm lấy một cuốn rồi tiếp tục: “Những chữ trên bìa sách này đều được mạ vàng thật, chỉ cần dùng axit là có thể rửa được các bụi vàng. Cô cậu có thể mua số lượng lớn sách này với giá sỉ, vì nếu không bán hết thì có thể trả lại hiệu sách phát hành, chỉ cần tô lại chữ trên bìa bằng bột vàng giả, sau này kể ra không tô nữa thì họ cũng chẳng để ý. Việc này lãi phết, tôi chỉ bất mãn duy nhất một điều với tác giả, đó là sao không đặt tên sách dài một chút. Ví dụ như “Tư duy mới đối với khả năng Liên Bang Xã hội Chủ nghĩa Xô viết xây dựng một hệ thống dân chủ mới, hòa nhập vào xã hội dân chủ và trở thành một thành viên mật thiết”. Nhưng tiền chưa kiếm được bao lâu thì ngọn cờ đỏ đã rơi xuống từ đỉnh cao, bìa sách cũng không có vàng nữa, rồi đến sách cũng chả còn. Đống này là lô cuối cùng tôi mua về, để trong tầng hầm mười năm nay rồi, bây giờ giá củi cao lắm, dùng đống sách này đem đốt lò sưởi cũng được đấy. À, đúng thật là, khách tới rồi, cũng nên đốt lò sưởi…” Ông cầm lấy một cuốn sách, dùng bật lửa châm nó, rồi nhìn chằm chằm một lúc lâu. “Công nhận giấy tốt thật, mười năm trôi qua rồi mà vẫn chưa ngả vàng, có khi dùng gỗ bạch dương trắng của Siberia làm ra cũng nên.” Đoạn ông vứt cuốn sách vào trong lò sưởi, sau đó vứt thêm hai cuốn nữa, ngọn lửa bùng lên mạnh mẽ, ánh đỏ nhảy múa trên vô số bức ảnh chụp sét hòn. Căn phòng lạnh lẽo giờ có thêm chút hơi ấm. Germov chăm chăm nhìn ngọn lửa, nói thêm với chúng tôi vài câu. Ông ấy chỉ hỏi tình hình của chúng tôi, nhưng không hề đề cập tới sét hòn. Cuối cùng, ông cầm một chiếc điện thoại cũ lên, sau khi bấm số nói vài câu ngắn gọn, đoạn đứng dậy nói với chúng tôi: “Đi thôi.”
Ba người chúng tôi cùng nhau xuống lầu, trở lại với gió tuyết lạnh lẽo ở bên ngoài. Lúc này, một chiếc xe jeep dừng lại trước mặt chúng tôi, Germov ra hiệu cho chúng tôi lên xe. Người lái xe trạc tuổi Germov, nhưng vạm vỡ như một lão thủy thủ già. Germov giới thiệu: “Đây là Levalenko, hiện đang kinh doanh lông thú, chúng ta đi nhờ xe của ông ấy.”
Xe jeep chạy dọc con đường lớn, xe cộ trên đường rất thưa thớt, chẳng bao lâu sau chúng tôi đã ra khỏi thành phố, tới một cánh đồng tuyết rộng lớn. Chiếc xe rẽ vào con đường gập ghềnh, đi thêm chừng một tiếng nữa, trong sương tuyết mênh mông hiện ra một tòa nhà, trông như nhà kho. Xe dừng lại trước một cánh cổng lớn, Levalenko bấm chuông liên tục giục mở cổng, sau đó chiếc xe tiến vào trong, chúng tôi nhìn thấy hai bên nhà kho chất đầy da lông thú, toả ra thứ mùi hắc nhức mũi, ở giữa có một khoảnh đất trống, có một chiếc máy bay đang đậu ở đó. Đây là loại máy bay hai cánh kiểu cũ, thân máy bay rách bươm, lớp vỏ nhôm bị nứt đôi ba chỗ.
Levalenko nói vài câu bằng tiếng Nga, Lâm Vân dịch lại cho tôi: “Chiếc máy bay này dùng để phun thuốc trong rừng, khi lâm trường được tư hữu hóa, ông ấy đã mua lại nó. Thằng cha già này nhìn bề ngoài hơi nát nhưng vẫn rắn chắc lắm đấy. Chúng ta dỡ đồ bên trong ra trước đã”
Thế là chúng tôi chuyển những bó da lông thú từ bên trong khoang máy bay chật hẹp ra ngoài, tôi không biết nó là của con vật gì nhưng đoán được là đồ tốt. Xong xuôi, Levalenko lấy một ít dầu thân máy bay đổ thành vũng rồi châm lửa. Germov giải thích rằng do ngoài trời quá lạnh nên đường ống của động cơ bị đông cứng, phải làm nóng nó một chút mới khởi động được. Lúc lửa đang cháy, Levalenko cầm lấy một chai vodka, bốn người chúng tôi chuyền tay nhau một vòng để uống. Tôi mới uống được hai ngụm đã ngồi trên đất không đứng dậy nổi, ấy thế mà Lâm Vân vẫn uống cùng bọn họ, tửu lượng của cô thật sự khiến tôi bái phục. Khi chai rượu đã cạn, Levalenko vẫy tay ra điều đã có thể rời đi rồi nhanh nhẹn nhảy vào buồng lái, thật chẳng giống với độ tuổi của ông chút nào. Ban nãy ông không thể hiện được vẻ nhanh nhẹn ấy, rượu nặng đối với người Siberia đúng là như thứ dầu bôi trơn. Ba người chúng tôi chui vào trong khoang từ cánh cửa nhỏ ở thân máy bay, Germov lấy được ba chiếc áo khoác to sụ, nặng trĩu từ đâu đó và đưa cho chúng tôi: “Mặc vào, không chết cóng đấy.”
Động cơ máy bay gầm lên, khàn khàn, cánh quạt bắt đầu quay, hai cánh máy bay chầm chậm cất cánh rời khỏi nhà kho, bay vào trong gió tuyết ngập trời. Levalenko chồm ra khỏi buồng lái, quay lại khóa cửa, sau đó thao tác để máy bay tăng tốc trên cánh đồng tuyết, bay chưa được bao lâu thì tiếng động cơ im bặt, chỉ nghe thấy thanh âm của những bông tuyết bên ngoài va vào cửa sổ. Levalenko lẩm bẩm chửi thể, sau đó leo lên trèo xuống mất một lúc lâu thì động cơ mới khởi động trở lại. Khi máy bay cất cánh lần nữa, tôi ngồi phía sau ghế của phi công, hỏi Levalenko: “Nếu như động cơ dừng lại khi đang ở trên không thì làm thế nào?”
Sau khi nghe Lâm Vân dịch, ông thản nhiên nhún vai: “Rơi tõm xuống thôi chứ sao.”
Levalenko nói thêm gì đó, Lâm Vân dịch: “Ở Siberia, bảo hiểm trăm phần trăm chưa chắc đã tốt, có lúc bay tới rồi nhưng lại phát hiện chi bằng rơi giữa đường còn tốt hơn. Điều này chắc Tiến sĩ Germov đã dành cả đời để trải nghiệm, đúng không Tiến sĩ”
“Được rồi, Đại tá! Lo mà lái cái máy bay của ông đi!” Germov nói, rõ ràng mấy lời kia đã chạm vào nỗi đau của ông.
“Trước kia ông từng là phi công của Lực lượng Không quân à?” Lâm Vân hỏi Levalenko.
“Tất nhiên là không, tôi chỉ là đội trưởng đội cảnh vệ cuối cùng ở căn cứ đó.”
Chúng tôi không nói gì nữa, trầm lặng nhìn cánh đồng tuyết đang lùi dần qua ô cửa sổ, máy bay đã bay lên. Lúc này, ngoài âm thanh của động cơ, chỉ còn tiếng của những bông tuyết va chạm với thân máy bay kêu lên rất kịch tính, như thể máy bay đang bay qua một trận mưa lớn. Có một luồng không khí thổi bay đống tuyết tích tụ trên cửa sổ, trông ra bên ngoài, cánh rừng bạt ngàn mờ ảo trong sương tuyết chuyển động chầm chậm bên dưới, thi thoảng còn nhìn thấy những hồ nước đã đóng băng, trở thành những đốm tròn nổi giữa biển rừng đen kịt. Cảnh tượng này khiến chúng tôi nhớ tới những bức ảnh ở nhà Germov. Đưa mắt nhìn ngắm vùng đất Siberia rộng lớn, trong lòng tràn ngập cảm xúc, tôi vẫn không thể tin nổi sét hòn có thể mang tôi tới tận đây.
“Siberia, đau khổ, lãng mạn, lý tưởng và hy sinh…” Lâm Vân dựa đầu vào cửa sổ, nhìn vùng đất xa lạ phía dưới, rì rầm nói.
Germov nói: “Cô đang nhắc tới Siberia trong quá khứ và tiểu thuyết. Hiện tại ở đây chỉ còn mất mát và lòng tham thôi. Mọi nơi trên vùng đất bên dưới đều là săn bắn, phá rừng không được kiểm soát, màu đen của dầu thô rò rỉ từ các mỏ dầu đang chảy khắp nơi…”
“Người Trung Quốc,” Levalenko nói từ ghế phi công ở phía trước. “Ở đây có khá nhiều người Trung Quốc. Họ dùng rượu giả làm mù mắt người uống để đổi lấy da lông thú và gỗ của chúng tôi. Họ bán những chiếc áo lông vũ nhét đầy lông gà bên trong… Nhưng tôi vẫn có lòng tin ở bạn của Tiến sĩ Germov.”
Chúng tôi vẫn im lặng, máy bay giống như chiếc lá nhỏ bay trong cuồng phong, chúng tôi cuộn chặt mình trong chiếc áo khoác chịu đựng cái lạnh đến tê dại.
Chuyến bay kéo dài khoảng 20 phút, sau đó máy bay hạ cánh. Nó đáp xuống bãi đất trống ở giữa một cánh rừng lớn mà tôi nhìn thấy khi còn ở trên cao. Lúc chuẩn bị ra khỏi máy bay, Germov nói: “Bỏ lại áo khoác đi, không cần tới đâu.”
Chúng tôi không hiểu nổi, cánh cửa cabin vừa mở ra đã có một luồng khí lạnh tràn vào, gió lạnh và tuyết bên ngoài càng khiến người ta kinh hoàng. Levalenko ngồi lại ở máy bay đợi chúng tôi, Germov vừa bước xuống đã đi thẳng, chúng tôi vội vã đi theo, cảm nhận từng cơn gió lạnh thổi xuyên qua lớp quần áo mỏng manh. Lớp tuyết khá dày nhưng dựa vào cảm giác dưới chân, tôi biết chúng tôi đang đi dọc theo đường ray. Có một đường hầm hiện ra ở phía trước, không xa, nhưng từ đây cũng có thể thấy đường hầm đó bị bức tường bê tông lấp kín cả rồi. Chúng tôi tiến tới trước bức tường bê tông, tạm thời đứng tránh gió. Germov dùng tay cạo sạch tuyết và đẩy một tảng đá lớn nhô lên, một cái hang đen ngòm có đường kính khoảng 1m lộ ra.
Germov nói: “Tôi đã đào cái hang này, dài khoảng hơn 10m, để vượt qua bức tường bê tông này.” Nói đoạn, ông lấy ra ba chiếc đèn pin sạc điện rất to từ trong túi áo, đưa cho chúng tôi mỗi người một cái, dùng đèn pin ra hiệu cho chúng tôi đi theo vào trong hang.
Tôi đi theo ngay sau Germov, Lâm Vân đi cuối hàng, chúng tôi cúi rạp xuống, gần như bò trong cái hang thấp và chật hẹp này. Không gian bên trong rất nhỏ và hẹp, tôi sợ hãi trước sự ngột ngạt này, càng đi vào sâu bên trong, cảm giác sợ hãi ngày càng lớn, rồi Germov đột nhiên đứng thẳng dậy, tôi cũng đứng dậy theo, từ ánh đèn pin, tôi nhìn thấy một cửa hầm rất rộng trước mắt mình, đường hầm là một con dốc thoai thoải dẫn vào sâu bên trong lòng đất, ban nãy tôi còn tưởng đường ray dẫn tới cái hầm đã biến mất không tung tích. Tôi rọi đèn pin vào vách hầm thì nhận thấy có rất nhiều đinh ghim và vòng sắt buộc vào bức tường bê tông, hóa ra bên trong có rất nhiều dây cáp. Chúng tôi đi dọc theo đường hầm xuống phía dưới, độ sâu ngày càng tăng lên, cảm giác lạnh lẽo cũng dần dần biến mất, sau đó ngửi thấy mùi ẩm ướt, rồi nghe thấy âm thanh nước nhỏ giọt, nhiệt độ nơi này đã trên điểm đóng băng.
Không gian trước mặt đột nhiên mở rộng, tia sáng từ đèn pin trong tay tôi mất đi mục tiêu, như thể từ trong đường hầm phóng ra bầu trời đêm đen kịt. Nhìn kỹ thì quầng sáng của đèn pin khi chiếu vào nơi cao cũng chỉ chiếu được tới đỉnh hang cao chót vót, sau đó trở nên rất lớn và tối, không nhìn rõ nữa. Tiếng bước chân của chúng tôi vọng lại dồn dập, tôi không thể đoán được cái hang ngầm này rộng cỡ nào. Germov dừng lại, châm thuốc, nói với chúng tôi:
“Hơn 40 năm trước, tôi nhận bằng Tiến sĩ Vật lý học ở Đại học Moskva. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in ngày hôm đó, tôi cùng hàng nghìn hàng vạn người ngắm chiếc xe jeep mui trần của Gagarin* băng qua Quảng trường Đỏ* sau khi trở về từ không gian. Anh ấy tay cầm hoa tươi, vẫy tay, trước ngực đeo đầy huân chương. Lúc ấy, nhiệt huyết của tôi sôi sục, ôm trong mình khát khao đi tới một thế mới để sáng tạo sự nghiệp vĩ đại nhất, thế rồi tôi chủ động tìm đến Phân viện Siberia của Học viện Khoa học Liên Xô đang được xây dựng.
Sau khi tới đó, tôi nói với lãnh đạo rằng tôi muốn làm một công việc không có bất kỳ nền tảng nào, hoàn toàn là tiên phong khai phá, gian khổ cỡ nào tôi cũng không quan tâm. Ông ấy khen ngợi, nói tôi có thể tham gia Dự án 3141. Sau này tôi mới biết rằng số hiệu của dự án do người lập kế hoạch ngẫu nhiên dùng giá trị của số pi để đặt. Tôi đã gặp người phụ trách dự án mấy ngày rồi nhưng vẫn chưa biết được nội dung của dự án. Người phụ trách là Viện sĩ Nikolai Narnov, đây là một người cực kỳ hiếm gặp, thậm chí ngay ở thời điểm ấy, ông ta thuộc loại cuồng tín dị thường về chính trị. Ông ta lén lút đọc các tác phẩm của Trotsky*, hoàn toàn bị mê hoặc bởi ý tưởng cách mạng toàn cầu. Ông ta từng nói thế này: ‘Đồng chí Germov, tôi biết anh gần đây bị cuốn hút bởi thành tựu bay vào không gian, nhưng như thế đã là gì chứ? Gagarin bay trên quỹ đạo cũng không thể ném được một tảng đá vào đầu những nhà tư bản ở Phố Wall. Dự án của chúng ta hoàn toàn khác biệt, nếu thành công, chúng ta sẽ biến tất cả những cỗ xe tăng của chủ nghĩa tư bản thành đồ chơi, biến tốp máy bay của chúng thành những con bướm mỏng manh, biến hạm đội của chúng thành thùng giấy trôi trên mặt nước, chỉ một đòn cũng chẳng chịu nổi!’
Sau đó, tôi tới đây, chúng tôi là nhóm đầu tiên tới. Khung cảnh ở đây lúc đó giống như các bạn thấy ban nãy; hôm ấy, tuyết rơi rất nhiều, bãi đất trống vừa được dọn sạch, trên mặt đất chỉ còn sót lại vài gốc cây. Chuyện sau đó tôi cũng không muốn kể chi tiết. Ngay cả khi có thời gian, tôi cũng hoài nghi tinh thần chịu đựng của mình. Cô cậu chỉ cần biết rằng nơi chúng tôi tọa lạc từng là căn cứ nghiên cứu sét hòn lớn nhất trên thế giới. Ở đây, các nghiên cứu về sét hòn kéo dài ba năm, lúc cao điểm, từng có 5000 người làm việc ở đây. Những nhà Vật lý học và Toán học ưu tú nhất của Liên Xô, ít hoặc nhiều đều đã bị cuốn vào dự án nghiên cứu này. Để chứng minh dự án này đã từng được đầu tư khổng lồ tới mức nào, tôi chỉ cần lấy một ví dụ, mấy người xem…”
Germov chiếu đèn pin ra sau, chúng tôi quay lại và nhìn thấy bên cạnh đường hầm mà chúng tôi vừa bước vào còn có một miệng hang ngầm rất lớn.
“Đường hầm này dài tới 20km. Khi đó, vì để bảo mật, tất cả vật tư vận chuyển tới căn cứ đều được dỡ xuống ở đó, sau đó thông qua đường hầm này để vận chuyển vào trong. Điều này khiến một lượng lớn vật tư biến mất không tung tích ở đó, vì tránh sự chú ý và nghi ngờ của các vệ tinh do thám nên chúng tôi đã xây dựng một thành phố nhỏ ở đó, đều là vì tính bảo mật. Thành phố đó không thể cho người ở, chỉ là một thành phố hoang vô dụng. Nhằm che giấu bức xạ sinh ra từ tia sét nhân tạo trong nghiên cứu nên toàn bộ căn cứ được xây dựng dưới lòng đất. Nơi chúng ta đang đứng là một phòng thí nghiệm cỡ trung, các bộ phận khác của căn cứ đã bị phong tỏa hoặc cho nổ tung, hiện tại không thể tiếp cận được.
Nơi đây từng được trang bị hệ thống mô tả sét, trang thiết bị tạo từ trường phức tạp và ống thông gió khổng lồ… lớn nhất thế giới, đều là các thiết bị thí nghiệm cỡ lớn, để tối đa giới hạn mô phỏng môi trường hình thành sét hòn. Mấy người xem cái này.”
Chúng tôi bước tới trước bậc bê tông hình bậc thang vừa cao vừa to.
“Mấy người có thể mường tượng điện cực bạch kim cao vài tầng không? Lúc đó, nó được lắp đặt trên bậc này.”
Germov cúi lưng nhặt thứ gì đó trên mặt đất, đưa cho tôi, nó là một quả cầu kim loại, nặng trình trịch.
“Giống như viên bi sắt trong máy nghiền bi,” tôi nói.
Germov lắc đầu: “Lúc ấy, trong khi thí nghiệm mô phỏng lại tia sét, một số bộ phận kim loại ở đỉnh động đã bị sét đánh tan chảy, sau khi nhỏ giọt và nguội đi thì hình thành thứ này.” Tôi chiếu đèn pin vào mặt đất xung quanh, nhận ra có rất nhiều viên bi sắt nhỏ như vậy. “Trong phòng thí nghiệm trung tâm, cường độ của tia sét sinh ra từ máy mô phỏng sét cực lớn, thậm chí còn lớn hơn một cấp so với tia sét trong tự nhiên, đến mức sau khi hệ thống giám sát hạt nhân của NATO phát hiện ra sóng xung kích còn cho rằng đó là thí nghiệm hạt nhân dưới lòng đất, và Chính phủ Liên bang Xô viết đã thừa nhận cách lý giải ấy trong cuộc đàm phán giải trừ vũ khí hạt nhân, cũng vì thế mà phải chịu rất nhiều thiệt hại. Khi tiến hành thí nghiệm tia sét kiểu này, trên mặt đất cũng xuất hiện hiện tượng trời long đất lở, khí ozone sinh ra từ tia sét trong lòng đất được phóng lên mặt đất, khiến không khí trong phạm vi 100km sẽ có mùi tươi mát khác thường. Trong lúc đang tiến hành mô phỏng sét, còn phải khởi động thiết bị tạo từ trường, thiết bị phát xạ maser và ống thông gió cỡ lớn, phỏng lại các điều kiện để tạo ra sét, sau đó đem kết quả nhập vào hệ thống siêu máy tính để phân tích. Các thông số của phần thí nghiệm luôn vượt xa các điều kiện giới hạn của sấm sét trong tự nhiên, sét siêu cường độ được đặt trong mê cung từ trường phức tạp, hoặc phát sinh trong maser là đã có thể làm sôi một hồ nước nhỏ trong thời gian ngắn… Trong ba mươi năm, việc nghiên cứu thực nghiệm ở đây chưa từng gián đoạn.”
Tôi ngẩng đầu nhìn bậc thang vốn đặt điện cực khổng lồ, phía sau là khung cảnh hiện lên từ bóng tối sâu thẳm, nhờ ba luồng ánh sáng từ đèn pin của chúng tôi, tạo ra một cảm giác linh thiêng như đàn tế của người Aztec trong rừng rậm. Chúng tôi, những con người tội nghiệp mải miết đi tìm sét hòn, trong thời khắc này, giống như người hành hương tới được thánh điện tôn quý nhất, trong lòng tràn ngập sự hoảng loạn và nỗi sợ hãi. Tôi nhìn kim tự tháp bằng bê tông ấy và thầm nghĩ, trong quá khứ hơn ba mươi năm đằng đẵng, có bao nhiêu người giống chúng tôi nằm trên đó như những vật tế hy sinh?
“Còn kết quả thì sao ạ?” Tôi rút hết can đảm hỏi một câu chí mạng.
Germov lại rút ra một điếu thuốc, châm lửa rồi rít một hơi thật sâu, trầm lặng không nói gì. Trong ánh đèn pin, tôi không rõ cảm xúc của ông nhưng ông làm tôi nhớ tới Trương Bân, nhớ tới dáng vẻ đau khổ khôn cùng của thầy ấy khi kể về quá trình nghiên cứu sét hòn. Thế là tôi đáp lời thay cho Germov:
“Chưa từng thành công, đúng không?”
Nhưng tôi lập tức nhận ra mình đã sai, vì Germov cười giả lả rồi nói: “Chàng trai trẻ ạ, cậu nghĩ mọi chuyện đơn giản quá rồi. Sherlock Holmes nói rằng không sợ những vụ án quái lạ mà chỉ sợ những vụ án tầm thường. Các vụ án tầm thường, tuy không lý thú nhưng lại khó giải nhất. Nếu như nghiên cứu ba mươi năm mà không đạt được thành tựu nào thì e rằng ly kỳ quá. Và chính sự ly kỳ ấy sẽ đốc thúc mọi người tiếp tục nghiên cứu. Đáng buồn là bây giờ sự ly kỳ ấy không còn nữa, chỉ còn lại sự tầm thường khiến mọi người nản chí ngã lòng mà thôi. Chúng tôi đã từng thành công, trong ba mươi năm và tạo ra được hai mươi bảy quả sét hòn.”
Tôi và Lâm Vân một lần nữa bị sốc, nhất thời chết lặng không nói được gì.
Germov lại cười: “Tôi có thể hình dung được cảm giác khác nhau của hai người: cô nàng thiếu tá đây chắc chắn sẽ thấy vui mừng lắm, vì quân đội chỉ quan tâm tới tính khả thi trở thành vũ khí của thứ này; còn cậu thì hẳn buồn lắm. Giống như Scott tới Nam Cực và nhìn thấy lá cờ của Na Uy do Amundsen để lại*. Cảm giác của hai người thực ra cũng không cần thiết đâu, sét hòn vẫn luôn là một bí ẩn, những gì ta biết về nó hiện tại cùng với những gì mà chúng tôi biết khi lần đầu tới đây vào ba mươi năm trước cũng như nhau cả thôi, chúng tôi không thu được bất cứ cái gì cả.”
“Tại sao có thể nói như vậy?” Lâm Vân sửng sốt hỏi.
Germov chậm rãi phả ra một làn khói, nheo mắt nhìn làn khói thuốc uốn lượn rối ren trong luồng sáng, chìm đắm trong ký ức.
“Quả sét hòn thành công lần đầu tiên vào năm 1962, cũng là năm thứ ba sau khi nghiên cứu được bắt đầu, tôi đã tận mục sở thị, sau khi máy mô phỏng sét lần đầu phóng điện, nó đã xuất hiện giữa không trung, màu vàng nhạt, khi bay còn kéo theo một đuôi sáng, ước chừng sau hai mươi giây thì lặng lẽ biến mất trong không khí.”
“Lúc đó hẳn mọi người cảm thấy hưng phấn lắm,” Lâm Vân nói.
Germov lắc đầu: “Cô sai rồi, quả sét hòn khi ấy trong mắt chúng tôi chỉ là hiện tượng điện từ bình thường mà thôi. Dự án 3141 ban đầu không được dự định làm tới quy mô quá lớn, vào thời điểm đó, từ các lãnh đạo cao nhất của Viện Hàn lâm Khoa học và Hồng quân cho tới các nhà khoa học và kỹ sư tham gia dự án đều cho rằng đối với một quốc gia đã đưa được người vào vũ trụ thì chỉ cần tập trung nghiên cứu sức mạnh khoa học, tạo ra sét hòn chỉ là vấn đề thời gian thôi. Trên thực tế, nghiên cứu bị kéo dài tới ba năm mới có thành quả đã là ngoài dự liệu của đa số mọi người rồi. Lúc quả sét hòn ấy xuất hiện, cảm giác của chúng tôi chỉ là như trút được gánh nặng, ai cũng không ngờ tới còn những hai mươi bảy năm đằng đẵng và thất bại cuối cùng đang chờ chúng tôi.
Sự tự tin của chúng tôi khi ấy rất có cơ sở: không giống như sét trong tự nhiên, điều kiện và các thông số để tạo ra sét lần ấy đều được ghi lại rất kỹ càng, thậm chí tới bây giờ, tôi vẫn có thể ghi lại chính xác tất cả các thông số tại thời điểm đó. Dòng điện của sét hòn khi ấy là 12.000 ampe, điện áp là 80 triệu volt, thời gian phóng điện là 119 micro giây, tóm lại, đây là một lần phóng sét rất bình thường. Khi phóng điện, thường mỗi giây sẽ thổi luồng khí 2,4m, công suất maser 550 watt, có thêm từ trường từ bên ngoài… Còn rất nhiều thông số khác nữa, thông thường thì có các loại như nhiệt độ không khí, áp suất không khí… Đặc thù hơn thì như là dùng máy ảnh tốc độ trập màn siêu cao để chụp lại tuyến đường đi của sét, cho tới cường độ, hình dạng, chỉ thị của tính phóng xạ của từ trường tại hiện trường được các loại máy móc ghi lại… Toàn bộ tài liệu ghi chép lúc ấy, tôi nhớ là phải dày bằng cuốn Chiến tranh và hòa bình*, đều là tài liệu tuyệt mật.
Đó là thời điểm của Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba*, tôi nhớ Narnov đã cầm đống tài liệu khổng lồ đó và nói: ‘Chúng ta rút tên lửa đạn đạo về cũng được thôi, còn có thứ sẽ khiến Chủ nghĩa đế quốc phải khiếp sợ hơn nữa!’. Chúng tôi khi ấy đều nghĩ rằng sau này chỉ cần sao chép các thông số này để tạo ra sét thì có thể sản xuất hàng loạt sét hòn rồi.”
“Vậy có nghĩa là không được sao?” Tôi hỏi.
“Tôi từng nói hai người nghĩ quá đơn giản rồi, chuyện tiếp theo mới thực sự nằm ngoài dự liệu của tất cả: sử dụng các thông số như trước để thí nghiệm lại nhưng không cách nào tạo ra được nữa. Narnov nhớn nhác làm lại các thí nghiệm tiếp diễn y như vậy; trong một năm sau đó, chuẩn theo thông số được ghi lại thì tổng cộng chế tạo sét 50.000 lần, nhưng vẫn không thấy bóng dáng của sét hòn đâu.?”
“Giải thích qua một chút thì, trong giới khoa học Liên Xô lúc bấy giờ, tất định luận và cơ giới luận là cách tư duy áp đảo tất cả, các nhà nghiên cứu đều sắt đá cho rằng giới tự nhiên bị chi phối bởi quan hệ nhân quả. Cách tư duy này do bối cảnh chính trị bấy giờ quyết định. Lúc ấy, Lysenko* (kẻ suy đồi của giới khoa học Liên Xô cũ vang tiếng xấu khắp nơi, vào lúc đương quyền đã lợi dụng thủ đoạn chính trị để bức hại rất nhiều nhà khoa học theo đuổi chân lý) vẫn là âm hồn bất tán trong giới học thuật. Nếu cậu đi chệch hướng khỏi tư tưởng chủ lưu của giới học thuật, tuy không nguy hiểm như trước kia nhưng ít nhất vẫn gây thiệt hại đối với cuộc sống học thuật của cậu. Suy cho cùng, người dám đi ngược lại với lý lẽ lúc bấy giờ cũng chỉ là thiểu số. Giới khoa học cơ bản và lĩnh vực nghiên cứu thuần lý luận tới giờ vẫn vậy, nghiên cứu sét hòn lúc ấy được xem là dự án ứng dụng, tư duy tuyến tính truyền thống đang thống trị đầu óc con người. Kết quả thực nghiệm như vậy khiến bọn họ không thể chấp nhận nổi, bọn họ cho rằng chỉ cần một lần thí nghiệm tạo được sét hòn thì những lần sau chỉ cần dùng chính các thông số đó thực nghiệm lại là chắn chắc sẽ tạo ra được. Thế là Narnov đưa ra một lời giải thích đương nhiên cho kết quả thất bại của 50.000 lần thí nghiệm đó là: Đã có sai sót trong quá trình ghi chép lại các thông số của lần thí nghiệm tạo ra sét hòn thành công.
Sự việc này vốn không được coi là lớn, hoàn toàn có thể giải quyết trong phạm vi công việc thuần túy. Nếu có người phải bị xử lý vì việc này, thì chỉ có thể là những người thất trách với công việc. Nhưng Narnov lại quen với việc chính trị hóa mọi thứ, việc này đã trở thành cơ hội để loại trừ những người bất đồng chính kiến. Ông ta tung tin đồn nhảm trong báo cáo gửi ban lãnh đạo cao nhất, nói rằng trong dự án 3141 có gián điệp của Chủ nghĩa Đế quốc. Do 3141 thuộc dự án nghiên cứu chế tạo vũ khí trọng điểm quốc gia nên sự việc lần này đã thu hút sự chú ý, tạo ra một cuộc điều tra quy mô lớn. Tổ điều tra chủ yếu bao gồm các thành viên của GRU (Cơ quan Tình báo Quân đội Liên Xô cũ), Narnov cũng là một thành viên trong đó. Đối với các thất bại của thí nghiệm sau này, ông ta đã đề ra một phỏng đoán rất “Tiến sĩ Jekyll”, bắt nguồn từ cuốn tiểu thuyết ‘Tiến sĩ Jekyll và ngài Hyde’: Nhân vật chính trong tiểu thuyết chế ra được một phương thuốc khiến người ta nhân cách phân liệt, nhưng khi ông ta dùng đúng công thức đó để chế tạo thì thuốc không còn hiệu nghiệm nữa, thế là ông ta cho rằng thành phần nguyên liệu mới mua về không tinh khiết, nhưng sau này mới biết được rằng, nguyên liệu ông ta dùng để chế tạo thuốc thành công lần trước mới là nguyên liệu không tinh khiết, tạp chất lẫn trong đó chính là yếu tố tạo nên thành công của ông ta. Narnov cho rằng kẻ phá hoại đã ghi lệch các thông số dự định trong hệ thống thực hiện thí nghiệm đầu tiên nhưng lại thành ra đánh đúng, các thông số sai lệch đã tạo ra được sét hòn, nhưng các thông số sai lệch đó lại không được ghi lại mà chỉ ghi lại thông số dự định. Cách giải thích này tuy kỳ lạ nhưng là lời giải thích duy nhất được tổ điều tra chấp nhận. Vấn đề tiếp theo đó là những thông số nào đã có sai số. Thí nghiệm lần ấy do bốn hệ thống tổ hợp thành, hệ thống mô phỏng sét, hệ thống tạo từ trường bên ngoài, hệ thống maser, hệ thống khí động lực học. Nhân viên của các hệ thống tương đối độc lập, khả năng bị kẻ phá hoại moi móc thông tin không cao lắm, cho nên đầu tiên phải cân nhắc tới tình hình sai số thông số của một trong các hệ thống trên. Lúc ấy, quan điểm được phần đông đồng thuận cho rằng thông số quan trọng nhất là thông số phóng điện của hệ thống mô phỏng sét, mà người phụ trách thiết kế và vận hành hệ thống này chính là tôi.
Thời ấy không còn là thời đại quét sạch phản động trước chiến tranh nữa, và chỉ dựa vào phỏng đoán vô căn cứ thì không thể kết tội một người được. Tuy nhiên, trùng hợp thật, vào thời điểm ấy, bố tôi đã đào thoát tới Tây Đức trong thời gian tham gia hội nghị học thuật ở Đông Đức. Bố tôi là nhà sinh vật học, theo phái di truyền học cố chấp, nhưng ở Liên Xô lúc bấy giờ, học thuyết di truyền còn trong tình cảnh là học thuyết đại nghịch bất đạo nên quan điểm học thuật của ông đàn áp, tinh thần của ông rơi vào trạng thái u uất. Tôi nghĩ đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu khiến ông đào tẩu. Hành động này của ông đã mang tới tai vạ cho tôi, mọi điều tra đều tập trung vào tôi. Một vài người trong nhóm nhỏ do tôi đứng đầu, vì bảo vệ bản thân mà đã nghe theo lời của Narnov rồi vu oan hãm hại tôi, cuối cùng, tôi bị kết tội gián điệp và bị kết án hai mươi năm tù.
Nhưng Narnov không thể thiếu tôi trong mảng kỹ thuật nên đã kiến nghị lên cấp trên, đề nghị cho tôi quay trở lại căn cứ tiếp tục công việc trước kia trong thời gian thụ án. Sau khi về tới căn cứ, tôi đã phải trải qua cuộc sống hạ đẳng, không có tự do, phạm vi hoạt động chỉ ở trong căn cứ, đến cả màu trang phục làm việc cũng khác với mọi người. Khó chịu nhất chính là cô đơn, ngoại trừ công việc, không có ai muốn tự nguyện tiếp xúc với tôi, chỉ có một nữ sinh viên đại học vừa được phân tới làm việc là đối xử bình đẳng với tôi, mang lại cho tôi rất nhiều ấm áp, và cô ấy sau này trở thành vợ tôi.
Tôi bỏ hết tâm tư vào công việc như một sự trốn tránh. Lòng căm hận của tôi đối với Narnov không lời nào diễn tả được, nhưng cũng thật kỳ lạ, với phỏng đoán ‘Tiến sĩ Jekyll’ của ông ta, ngoại trừ việc không tin có người cố ý phá hoại, thì tôi về cơ bản cũng đồng tình với giả thuyết đó. Tôi thực sự cho rằng một thông số chưa biết nào đó đã bị sai lệch dẫn tới thành công của cuộc thử nghiệm lần đó. Điều này làm tôi thấy nản lòng, vì nếu như cuối cùng cũng tìm được thông số bị sai lệch đó thì sẽ chỉ khiến tôi càng khó chứng minh sự trong sạch của bản thân, nhưng trong công việc thì tôi không hề cân nhắc tới điều này, làm hết sức mình, kỳ vọng có thể tạo ra thành công sét hòn một lần nữa.
Lộ trình nghiên cứu sau này rất rõ ràng: Sai lệch của các thông số không được quá lớn, nếu không thì trong lúc phóng điện, các loại máy móc giám sát, thậm chí mắt thường cũng có thể quan sát được. Thế nên, lúc thí nghiệm vẫn phải dựa theo các giá trị ghi chép được về các thông số để sử dụng các giá trị dao động trên dưới một chút. Nếu như cân nhắc tới tình huống nhiều thông số đồng thời cùng bị sai lệch thì sẽ trở thành những tổ hợp rất lớn, cần qua nhiều lần thí nghiệm. Trong quá trình này, tôi càng chắc chắn rằng Narnov đã cố tình hãm hại tôi. Bởi vì, nếu như ông ta tin rằng tôi cố ý phá hoại thì ắt sẽ tìm cách moi thông tin từ tôi xem thông số nào đã bị sai lệch, nhưng ông ta chưa từng hỏi tôi. Còn những người khác, bị kiệt sức bởi vô số lần thí nghiệm cực nhọc không được nghỉ ngơi thì đầy căm thù tôi. Nhưng thời điểm ấy, mọi người, bao gồm cả tôi, đều tin rằng có thể thành công thêm lần nữa, vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Sự việc lại phát triển vượt ra ngoài dự đoán của mọi người: Sau khi tất cả các khả năng sai lệch về thông số đều đã được thí nghiệm nhưng vẫn không thể thành công, chuyện này đã bất ngờ chứng minh được sự vô tội của tôi. Trùng hợp là vào ngay lúc đó, Brezhnev vừa hay lên nắm quyền, so với người tiền nhiệm từng làm nghề chăn lợn của mình, ông ấy là người thanh nhã, rất ôn hòa với giới tri thức. Vụ án của tôi được xử lại, tuy không được trắng án nhưng cũng được phóng thích sớm, còn cho tôi cơ hội trở lại Đại học Moskva giảng dạy. Cho dù đây là cơ hội mà những người làm việc ở căn cứ đều mong mỏi, nhưng tôi vẫn lưu lại chốn này, sét hòn đã trở thành một phần trong cuộc sống của tôi. Tôi không thể rời xa nó.
Sau đó thì lại tới lượt Narnov không gặp may, ông ta phải chịu trách nhiệm về thất bại trong nghiên cứu, tuy không thể thảm như tôi nhưng tiền đồ của ông ta trong học thuật và chính trị xem như cũng hết rồi. Ông ta vẫn cố đấu tranh thêm mấy hồi, kiên trì về phỏng đoán ‘Tiến sĩ Jekyll’ của mình, chỉ khác trước đây ở chỗ ông ta cho rằng thông số sai lệch có lẽ nằm ở ba hệ thống khác, thế là lại bắt đầu tiến hành rất nhiều thí nghiệm, kế hoạch thí nghiệm lần này còn lớn hơn, nếu như không phải bị gián đoạn bởi một phát hiện bất ngờ thì không biết sẽ kéo dài bao lâu.
Căn cứ 3141 có hệ thống mô phỏng sét lớn nhất thế giới, vừa nghiên cứu sét hòn, vừa tiến hành một số dự án nghiên cứu thực nghiệm dân dụng hoặc quân sự khác. Trong một lần thí nghiệm công trình chống sét, sét hòn bất ngờ được tạo ra thêm một lần nữa! Thông số của sét hòn lần này khác xa so với các thông số của lần thí nghiệm thành công đầu tiên, không có bất cứ điểm chung nào, cho tới các yếu tố bên ngoài, ví dụ như từ trường và maser… Lần thí nghiệm ấy hầu như không có gì, vốn chỉ là tia sét bình thường! Thế là lại bắt đầu một vòng tuần hoàn ác mộng nữa: Thí nghiệm được lặp đi lặp lại trên cả vạn lần với cùng một thông số, kết quả vẫn như lần đầu tiên, sét hơn không xuất hiện lại. Lần thí nghiệm ấy tuyệt nhiên không có kẻ phá hoại làm sai lệch thông số, ngay cả Narnov cũng phải thừa nhận phỏng đoán ‘Tiến sĩ Jekyll’ của mình đã sai. Ông ta bị điều tới chi nhánh ở Siberia, giữ một chức vụ hành chính không đáng kể cho tới tuổi nghỉ hưu.
Tới lúc này, dự án 3141 đã được triển khai trong mười lăm năm. Sau khi Narnov rời đi, căn cứ đã thay đổi phương hướng thí nghiệm, bắt đầu tiến hành thí nghiệm với các tổ hợp tham số khác nhau. Trong mười năm sau đó, có chín lần sét hòn được tạo ra. Mỗi lần như vậy, cần ít nhất 7000 tia sét, nhiều nhất thì lên tới mấy trăm nghìn, thông số thí nghiệm của mỗi lần tạo ra đều không hề giống nhau, nếu không muốn nói là khác xa cả vạn dặm.
Trong những năm 80, chịu ảnh hưởng của Chương trình phòng thủ ‘Chiến tranh giữa các vì sao’* của Mỹ, Liên Xô cũng tăng cường đầu tư vào các loại vũ khí khái niệm mới và kỹ thuật cao, trong đó bao gồm cả nghiên cứu về sét hòn. Quy mô của căn cứ được mở rộng cấp tốc, số lần thí nghiệm cũng được tăng theo cấp số nhân, mục đích là từ số lượng lớn các lần thí nghiệm để tìm ra quy luật về điều kiện tạo ra sét hòn. Trong năm năm cuối cùng, sét hòn được tạo ra thêm 16 lần nữa, nhưng cũng giống như trước kia, chúng tôi không phát hiện ra bất cứ quy luật nào về điều kiện sản sinh sét hòn.”
Germov dẫn chúng tôi tới gần bậc, rọi đèn pin vào và nói: “Tôi coi cái bậc này như một tượng đài kỷ niệm, khi bị giày vò bởi hồi ức trong quá khứ, tôi sẽ tới đây để khắc gì đó.”
Tôi quan sát một mặt của bậc, dưới ánh sáng của đèn pin, tôi nhìn thấy rất nhiều đường cong, giống như đàn rắn đang di chuyển.
“Trong suốt ba mươi năm thí nghiệm, sét hòn được tạo ra hai mươi bảy lần, những đường cong này được vẽ bởi các thông số quan trọng của hai mươi bảy lần thí nghiệm ấy. Ví dụ như đường này là biên độ dòng điện của sét hòn, đường này là cường độ từ trường bên ngoài bổ sung…
Tôi xem xét kỹ lưỡng những đường cong được vẽ từ hai mươi bảy điểm, giống như đang xem các đoạn ghi chép tiếng ồn, hoặc cơn co giật đau đớn của một sinh linh sắp chết, không có bất kỳ quy luật nào.
Chúng tôi đi theo Germov tới mặt khác của cái bậc, nhìn thấy những cái tên được khắc đầy trên đó.
“Đây là những người đã cống hiến cho dự án 3141 trong suốt ba mươi năm. Điều kiện làm việc khắc nghiệt đã cướp đi sinh mạng của họ. Đây là vợ tôi, qua đời vì mắc một căn bệnh lạ do tiếp xúc với phóng xạ lâu ngày, toàn thân mưng mủ và chết trong đau đớn tột cùng. Trong số những người này, cũng có khá nhiều người chết vì căn bệnh đó. Đây là con trai của tôi, chết trong lần tạo ra sét hòn cuối cùng. Hai mươi bảy quả sét hòn trong thời gian thí nghiệm ba mươi năm đã giết chết họ. Thứ đó xuyên qua mọi thứ, không ai biết trước được nó sẽ giải phóng năng lượng khi nào và ở đâu. Nhưng chúng tôi không hề xem việc tiến hành thí nghiệm là nguy hiểm, vì cơ hội tạo ra nó thành công là quá ít, tất cả từ cảnh giác cao độ trở nên thả lỏng, mà sét hòn luôn nhân cơ hội như thế xuất hiện và gây ra tai vạ. Vào lần cuối cùng sét hòn xuất hiện, những người ở hiện trường thí nghiệm vẫn an toàn, sau đó sét hòn xuyên qua lớp nham thạch dày, thiêu chết đứa con trai của tôi lúc ấy đang ở trong phòng điều khiển trung tâm. Khi ấy, thằng nhóc là một kỹ sư máy tính làm việc trong căn cứ.”
Germov tắt đèn pin, quay mặt về phía khoảng không tối tăm rộng lớn trong hầm, thở hắt ra một hơi dài: “Khi tôi bước vào phòng điều khiển trung tâm, nhìn thấy nơi đó vẫn yên tĩnh như mọi khi, trên trần nhà vẫn tỏa ra thứ ánh sáng dễ chịu, mọi thứ đều sáng sủa và sạch sẽ, tất cả các thiết bị máy tính đều hoạt động bình thường không một tiếng động, chỉ có điều, ở giữa sàn nhà chống tĩnh điện màu trắng, đứa con trai của tôi trở thành một di hài bị thiêu rụi gần hết, giống như ảo ảnh được chiếu tới từ đâu đó… Trong thời khắc ấy, tôi chịu thua. Trước sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên, trải qua ba mươi năm nỗ lực, tôi thất bại hoàn toàn. Cuộc đời của tôi kết thúc trong thời khắc ấy, sau đó tôi chỉ tồn tại mà thôi.
Khi chúng tôi quay trở lại mặt đất, tuyết đã ngừng rơi, tàn dương dần lặn về phía sau những ngọn cây ở phía Tây, nhuộm đỏ máu một vùng đất tuyết. Tôi lê bước về hướng máy bay, cảm thấy cuộc đời của mình dường như cũng kết thúc rồi.
Sau khi trở về chỗ ở của Germov, ba chúng tôi uống suốt đêm, say bí tỉ. Cuồng phong ở Siberia đang gào thét ngoài cửa sổ, những cuốn Tư duy mới thi nhau biến thành tro tàn trong lò sưởi. Vô số quả sét hòn trên trần nhà và trên tường đang xoay quanh tôi, càng ngày càng nhanh, tôi như bị cuốn vào vòng xoáy của một quả cầu sáng trắng.
Germov say túy lúy nói với chúng tôi: “Hai cô cậu à, kiếm việc khác mà làm. Trên đời còn nhiều thứ thú vị lắm. Đời người chỉ có một lần thôi, đừng lãng phí vào những điều viển vông”
Sau đó, tôi ngủ thiếp đi trong đống sách. Trong giấc mơ, tôi lại quay trở về đêm sinh nhật mười bốn tuổi. Trong căn phòng nhỏ đang hứng chịu cơn giông bão, tôi ngồi một mình đối diện với chiếc bánh sinh nhật được cắm những ngọn nến, không có bố, không có mẹ, cũng không có sét hòn, giấc mơ của tôi về họ đã chấm dứt.
Sáng sớm hôm sau, Germov đưa chúng tôi ra sân bay, trước khi chia tay, Lâm Vân nói: “Tôi biết ông đã nói rất nhiều chuyện lẽ ra không nên nói với chúng tôi, nhưng xin ông hãy yên tâm, chúng tôi lấy nhân cách của mình ra để đảm bảo, chúng tôi sẽ không bao giờ nói ra tất cả những chuyện này…”
Germov giơ một tay về phía Lâm Vân: “Không, Thiếu tá à, mục đích tôi đưa mọi người tới đây là để công khai tất cả những việc này. Tôi muốn cho bọn họ biết rằng, trong thời đại chủ nghĩa lý tưởng đáng buồn ấy, có một nhóm các thanh niên Cộng sản đã tới nơi rừng sâu cùng cốc ở Siberia, theo đuổi một con ma ở đó và dành cả cuộc đời cho nó…
Chúng tôi ôm chặt lấy nhau và bật khóc.
Sau khi máy bay cất cánh, tôi nhắm mắt mệt mỏi, ngả lưng vào ghế, đầu óc trống rỗng. Vị hành khách ngồi ở ghế bên cạnh chọc khuỷu tay vào người tôi, hỏi: “Người Trung Quốc hả?” Sau khi thấy tôi gật đầu, anh ta chỉ vào màn hình ti-vi phía trước, dường như việc tôi là người Trung Quốc mà không xem ti-vi là một điều kỳ lạ đối với anh ta. Ti-vi lúc đó đang chiếu chương trình tin tức, tình thế đang căng thẳng trở lại, khói lửa chiến tranh lại càng mù mịt. Tôi đã quá mệt rồi, không màng tới gì hết, cả hoàn cảnh và chiến tranh. Tôi quay đầu nhìn Lâm Vân, cô ấy đang chăm chú xem ti-vi. Tôi ngưỡng mộ cô ấy, sét hòn chỉ là một phần trong một giai đoạn của cuộc đời cô ấy, mất đi nó cũng không phải là một đòn chí mạng.
Một lát sau, tôi chìm vào giấc ngủ, lúc tỉnh lại, máy bay đã hạ cánh rồi.
Gió xuân của Bắc Kinh vào buổi tối mơn trớn qua mặt, mang một vẻ ấm áp mê người, khiến bóng dáng của chiến tranh nhất thời không còn nữa. Lúc này, đối với tôi, Siberia trong băng tuyết đã xa vời vợi, giống như một thế giới trong mộng. Cuộc sống trước kia của tôi chỉ là một giấc mộng, còn hiện tại tôi đã tỉnh rồi.
Trên con đường Trường An mới lên đèn, tôi và Lâm Vân nhìn nhau không nói gì. Chúng tôi vốn không đi chung một con đường, thế giới của chúng tôi khác nhau, chính sét hòn đã kết nối chúng tôi lại với nhau. Hiện giờ, dây buộc ấy không còn nữa. Trương Bân, Trịnh Mẫn, Germov… Những con người bị chia cắt trên tế đàn ấy đã đủ rồi, thêm tôi vào cũng chẳng mang lại ý nghĩa lớn lao nào cả. Tôi cảm thấy ngọn lửa hy vọng đã tắt trong lòng mình bị tạt thêm một gáo nước lạnh. Hiện tại, trong lòng tôi chỉ còn lại tro tàn ngâm trong băng đá.
Tạm biệt nhé, cô Thiếu tá xinh đẹp.
“Đừng bỏ cuộc,” Lâm Vân quay sang nhìn tôi nói.
“Lâm Vân, tôi chỉ là người trần mắt thịt mà thôi.”
“Tôi cũng vậy mà, nhưng đừng bỏ cuộc.”
“Tạm biệt.” Tôi giơ tay về phía cô ấy, dưới ánh đèn đường, tôi nhìn thấy trong mắt cô ấy long lanh những giọt nước. Tôi đành buông bàn tay ấm áp và mềm mại ấy ra, quay người sải bước đi, không ngoảnh đầu lại.