Sét Hòn - Tử Thần Trên Sa Mạc Gobi - Chương 06
11
ONG TẤN CÔNG
Sau khi ăn cơm xong, Đại tướng Lâm nói muốn nói chuyện riêng với tôi. Lâm Vân liếc nhìn chúng tôi bằng ánh mắt cảnh giác sau đó bước lên lầu.
Đại tướng Lâm châm thuốc, rồi nói: “Tôi muốn nói với cậu về chuyện của con gái tôi. Hồi Lâm Vân còn nhỏ thì tôi đã làm việc ở trong quân đội rồi, nên không có thời gian chăm sóc gia đình. Con bé được mẹ nuôi dưỡng nên có một sợi dây gắn kết rất đặc biệt với mẹ.”
Vị đại tướng đứng dậy, đi tới trước di ảnh của vợ mình: “Lúc ấy, ở tiền tuyến Vân Nam, cô ấy là đội trưởng của một đội thông tin liên lạc. Thiết bị thông tin liên lạc khi ấy còn lạc hậu, thông tin từ tiền tuyến vẫn sử dụng lượng lớn đường dây điện thoại, vậy nên điều đó đã trở thành một trong những mục tiêu chú ý của bộ đội Việt Nam đang hoạt động ở hai bên chiến tuyến. Chiến thuật họ thường sử dụng là cắt đứt đường dây trước, sau đó phục kích hoặc đặt mìn ở các điểm xung quanh. Ngày cô ấy hy sinh, hai bên đã nổ ra một trận đấu lớn cấp sư đoàn. Lúc ấy, một đường dây quan trọng bị cắt đứt. Họ cử một đội ba người đi kiểm tra đường dây bị mất liên lạc, sau đó cô ấy đích thân dẫn theo bốn lính thông tin đi kiểm tra. Lúc tới gần địa điểm bị cắt dây thì bị mai phục trong một rừng trúc. Bên kia chặt hết tre trúc xung quanh điểm bị cắt dây, tạo thành một khoảng đất trống nhỏ. Lúc mẹ con bé đi vào khu đất trống, đối phương đã nổ súng từ trong rừng. Phát đầu tiên giết chết ba lính thông tin. Vì ở chiến tuyến bên này nên lính Việt Nam không ở lại lâu và nhanh chóng rút lui. Cô ấy cùng một nữ chiến sĩ thông tin còn lại tiếp cận điểm bị cắt dây. Nữ chiến sĩ kia khi tới gần một trong hai đầu bị cắt đứt, nhìn thấy một đoạn trúc nhỏ dài chừng một tấc, liền cầm lấy đầu dây lộ ra, định rút đoạn trúc thì nó phát nổ, và thế là… Lúc mẹ của Lâm Vân đang nối dây, nghe thấy âm thanh vo ve từ phía xa vọng lại, ngẩng đầu lên thì phát hiện một thùng giấy của lính Việt Nam để lại, có một đàn ong lớn bay ra từ đó, hướng về phía cô ấy. Sau khi bị đốt vài nốt, cô ấy liền trùm khăn rằn ri chạy vào rừng trúc nhưng đàn ong vẫn không chịu buông tha, cô ấy chỉ còn cách nhảy xuống một cái ao nhỏ, lặn trong nước, cứ nửa phút lại ngoi lên để thở một lần. Đàn ong bay quanh quẩn trên đầu cô ấy không hề tản đi, còn cô ấy thì thấp thỏm lo lắng, lúc ấy chiến sự ở tiền tuyến rất căng thẳng, mỗi phút gián đoạn thông tin đều mang đến những tổn thất lớn. Cuối cùng, cô ấy bất chấp tất cả, lội ra khỏi ao, tiếp tục quay trở lại nối dây, đàn ong cũng vì thế mà nối đuôi bay theo. Lúc dây điện thoại được nối lại thì trên người cô ấy chẳng còn chỗ nào không bị ong đốt nữa. Khi được một chi đội tuần tra phát hiện ra thì cô ấy đã hôn mê bất tỉnh. Một tuần sau thì qua đời vì trúng độc. Lúc ấy, làn da của cô ấy thâm đen thối rữa, gương mặt mưng mủ, không thể nhận ra ngũ quan. Quá trình tử vong rất đau khổ. Lâm Vân hồi ấy mới chỉ năm tuổi nhưng đã chứng kiến hình ảnh cuối cùng của mẹ mình ở bệnh viện Côn Minh… Từ đó về sau, suốt một năm trời, con bé không nói năng gì cả. Lúc con bé nói chuyện trở lại, lời nói cũng bị vấp váp.”
Lời kể của Đại tướng Lâm khiến tôi bàng hoàng, nỗi thống khổ và sự hy sinh ấy rất xa lạ với tôi.
Đại tướng nói tiếp: “Với một trải nghiệm như vậy, những đứa trẻ khác nhau sẽ chịu những ảnh hưởng khác nhau. Nó có thể cả đời ghét chiến tranh và tất cả những thứ liên quan đến chiến tranh. Cũng có thể hăng say với những thứ ấy. Thật bất hạnh, con gái tôi thuộc về sau.”
“Việc Lâm Vân đam mê vũ khí, đặc biệt là vũ khí khái niệm mới, có liên quan tới việc này không ạ?” Tôi thận trọng hỏi.
Đại tướng không trả lời. Thực trong lòng mình, tôi không hiểu tại sao ông ấy lại kể với tôi chuyện này. Ông ấy dường như đọc được tâm tư của tôi nên nói tiếp.
“Là một nhà nghiên cứu, chắc chắn cậu biết rất rõ rằng trong nghiên cứu khoa học, bị mê hoặc bởi đối tượng nghiên cứu là chuyện rất bình thường. Nhưng nghiên cứu vũ khí có đặc thù riêng, một nhà nghiên cứu nếu say mê nó thì ắt sẽ tiềm tàng những yếu tố nguy hiểm. Đặc biệt là đối với vũ khí, nếu thành công thì sẽ có sức uy hiếp cực kỳ lớn như sét hòn, giống như sự say mê quá đáng của Lâm Vân đối với vũ khí này, giống như tính cách chỉ cần đạt tới mục tiêu là bất chấp hậu quả của con bé, sẽ làm cho mối nguy hiểm ấy trở nên rõ hơn… Không biết cậu có hiểu lời tôi nói không”
Tôi gật đầu: “Cháu hiểu, Đại tướng Lâm. Đại tá Giang từng nói chuyện này với cháu rồi ạ.”
“Ồ, thật sao?”
Tôi không rõ ông ấy có biết chuyện mìn chất lỏng không nhưng cũng không dám hỏi, xem ra ông ấy vẫn chưa hay biết gì.
“Giang Tinh Thần không đóng vai trò quan trọng trong việc này, công việc của hai đứa cũng không liên quan đến nhau. Hơn nữa,” đại tướng cân nhắc một hồi, đoạn nói ra một câu đầy ẩn ý: “Cậu ta là người mà tôi chọn cho Lâm Vân”
“Vậy cháu có thể làm được gì ạ?”
“Tiến sĩ Trần, tôi muốn nhờ cậu giám sát Lâm Vân trong quá trình nghiên cứu vũ khí sét hòn để đề phòng những chuyện ngoài dự liệu phát sinh.”
Tôi nghĩ ngợi một lát rồi gật đầu: “Dạ vâng, cháu sẽ cố gắng hết sức.”
“Cảm ơn cậu.” Nói đoạn, ông bước tới trước bàn làm việc, cầm bút chì viết một dãy số lên giấy, rồi đưa nó cho tôi. “Nếu có việc gì thì cậu cứ gọi trực tiếp cho tôi. Tiến sĩ Trần, mọi chuyện nhờ cậu, tôi hiểu con gái mình nên rất lo lắng”
Lúc nói câu cuối cùng, vị đại tướng trông đặc biệt nghiêm túc.
12
LƯỚI TRỜI
Tôi và Lâm Vân cùng quay trở về căn cứ nghiên cứu sét. Xe dừng lại trước cổng chừng vài giây để lính gác cổng kiểm tra chứng minh thư. Chính tại nơi đây, một buổi chiều muộn đầu mùa xuân nửa năm trước, Lâm Vân lần đầu tiên bộc bạch với tôi về ý tưởng sử dụng sét hòn làm vũ khí. Tôi bùi ngùi nhận ra bản thân hiện tại đã khác trước khá nhiều.
Chúng tôi gặp lại Đại tá Hứa Văn Thành. Ông ấy vui mừng khôn xiết khi hay tin căn cứ có thể tiếp tục tồn tại và còn có thêm dự án nghiên cứu mới, nhưng sau khi nghe chúng tôi nói về nội dung cụ thể của dự án thì ông nói việc đó rất khó khăn. Lâm Vân nói: “Đầu tiên, chúng ta phải nỗ lực tận dụng các thiết bị hiện có để tìm ra sét hòn, để cấp trên thấy được tiềm năng trở thành vũ khí của nó.”
Vị đại tá cười bí hiểm, trả lời: “Nếu cháu muốn chứng minh uy lực của thứ này thì chú nghĩ cấp trên đã sớm biết rồi. Hai cháu biết không, vị trí trọng yếu nhất của quốc gia từng bị sét hòn tấn công”
Tôi và Lâm Vân kinh ngạc nhìn nhau, Lâm Vân hỏi ông ấy địa điểm bị tấn công là ở đâu.
“Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài*.”
Mấy năm nay, tôi thu thập được rất nhiều tư liệu ghi lại những lần tận mục sở thị sét hòn ở trong và ngoài nước. Thời điểm sớm nhất là cuối nhà Minh đầu nhà Thanh. Tôi luôn tự cho rằng bản thân cũng hiểu sâu biết rộng về vấn đề này nhưng chuyện này thì trước giờ chưa từng được nghe nói tới.
“Đó là vào ngày 16 tháng 8 năm 1982, sét hòn đã đánh cùng lúc vào hai vị trí ở Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài, đều do lăn xuống từ cổ thụ. Ở tường Đông của Nhà khách, một chiến sĩ cảnh vệ đã ngay lập tức bị đánh gục, anh ta đứng trước bốt cảnh vệ cao hơn hai mét, cách cổ thụ có sét hòn rơi xuống chừng hai đến ba mét. Trong khoảnh khắc sét hòn rơi xuống, anh ta chỉ thấy quả cầu lửa đang tới rất gần mình, rồi đột nhiên thấy trước mắt tối sầm và ngã xuống. Lúc tỉnh dậy, ngoài hai tai bị điếc thì anh ta không gặp phải thương tật nào khác. Phần mái hiên xi măng bên ngoài của bốt cảnh vệ và mặt tường gạch nung bị sét đánh trúng có vài lỗ thủng nhỏ. Đèn điện trong Nhà khách bị sét đánh rơi xuống hết, công tắc hỏng cả, đường dây điện thoại cũng thế. Vị trí còn lại là khu Đông Nam trong sân của Nhà khách, cách bốt cảnh vệ khoảng một trăm mét, cũng lăn từ cây to xuống. Cách cái cây tầm hai mét có một nhà kho bằng gỗ, nhà kho này được vây quanh bởi ba cây hòe, sét hòn sau khi rơi xuống từ hướng đông của cái cây thì xuyên qua cửa sổ vào nhà kho, để lại hai lỗ thủng nhỏ trên mặt kính.
Sét hòn thiêu rụi tường gỗ phía Đông và góc nhà phía Đông Nam của nhà kho, đốt cháy hai cái săm xe đạp treo trên tường, phá hủy các công tắc cao su, đường dây điện đều bị đốt rụi…”
“Sao chú biết rõ vậy ạ?” Lâm Vân hỏi.
“Sau khi việc đó xảy ra, chú với tư cách là thành viên của nhóm chuyên gia tới hiện trường để điều tra, đồng thời nghiên cứu biện pháp phòng hộ. Lúc ấy, chú đã đề xuất lắp lưới chống sét dạng lồng*, ở các cửa ra vào và cửa sổ thì lắp lưới kim loại tiếp đất, bịt lại các lỗ hổng không cần thiết trên tường. Ống khói và miệng ống thoát khi cũng cần được lắp thêm lưới dây thép tiếp đất.”
“Làm như vậy cũng có tác dụng sao ạ?”
Đại tá Hứa lắc đầu: “Nhưng có một ô cửa sổ mà sét hòn xuyên qua vốn được lắp một tấm lưới dây thép xếp khá dày, lưới dây thép này bị sét đánh thành tám lỗ thủng nhỏ, tuy nhiên, thời điểm đó, chú cũng chỉ đề xuất được những biện pháp phòng chống thông thường đó thôi. Nếu thứ này có thể sử dụng trong chiến đấu thì uy lực của nó quả thực rất lớn. Chú cũng biết sơ qua về tình hình nghiên cứu sét hòn ở nước ngoài, ý tưởng của hai cháu có vẻ cũng hợp lý nhưng để đi xa hơn.” Ông ấy lại lắc đầu. “Sét là một trong những hiện tượng tự nhiên khó kiểm soát nhất, hơn nữa lại còn là sét hòn, thứ này không chỉ có sức phá hoại của sét mà còn có vẻ bí hiểm của ma quỷ. Không ai có thể biết được sức mạnh đáng sợ của nó khi nào sẽ được giải phóng, giải phóng đến mục tiêu nào, kiểm soát nó đâu dễ dàng như thế.”
“Chúng cháu sẽ làm bước nào tính bước đó,” Lâm Vân nói.
“Đúng vậy, nếu có thể tìm thấy sét hòn thì nó cũng được coi là một thành tựu lớn về khoa học sét. Làm được như vậy thì căn cứ của chúng ta cũng có chút thành tựu. Chú chỉ lo về tính an toàn thôi. Chú có cách này: Chúng ta có thể đặt máy tạo sét vào xe hơi, sau đó để mấy chiếc xe kéo hồ quang điện chạy một vòng ở khu vực đồng bằng. Làm như vậy thì hồ quang điện cũng có thể quét được một diện tích lớn.”
Lâm Vân lắc đầu: “Phương án này chúng cháu cũng nghĩ tới rồi, còn định dùng thuyền kéo hồ quang điện trên mặt biển, nhưng không được đâu ạ.”
Đại tá Hứa nghĩ một lúc rồi cũng gật đầu: “Đúng vậy thật, đất liền và mặt biển đều là vật dẫn điện, hiệu ứng cảm ứng sinh ra sẽ làm hồ quang điện không kéo được bao xa cả.”
“Chúng cháu còn cân nhắc tới việc sử dụng máy bay có cánh cố định*. Nếu thất bại thì nhảy dù từ loại máy bay này cũng sẽ dễ hơn nhưng vẫn không được. Vì tốc độ quá nhanh, luồng không khí sẽ thổi bay hồ quang điện. Chúng cháu cần tìm càng nhiều biện pháp để phòng càng tốt, ví dụ như trước khi thử nghiệm chính thức, phi công sẽ được thực hành nhảy dù nhiều lần trong điều kiện bay bất thường của trực thăng. Ngoài ra, lực lượng không quân hải quân hiện giờ đang giới thiệu một thiết bị cứu sinh dùng cho máy bay trực thăng, tương tự như loại được dùng cho máy bay chiến đấu, chỉ khác ở chỗ hướng phóng nằm ngang, chúng cháu đã lấy được vài bộ từ Tổng cục Vũ trang.”
Đại tá Hứa vẫn lắc đầu: “Những biện pháp như vậy không mang lại bất kỳ hiệu quả đáng kể nào, như vậy vẫn tính là mạo hiểm.”
“Đúng là như vậy, nhưng xét ở tình hình trước mắt, toàn quân hiện nay đã ở trong giai đoạn chuẩn bị chiến tranh cấp độ hai, chúng ta cũng không cần nhấn mạnh nhiều về mặt an toàn nữa,” Lâm Vân đáp.
Mấy lời này của cô ấy khiến tôi kinh ngạc, nhưng Đại tá Hứa lại tán thành. Ông ấy có vẻ là một người tốt nhưng xem ra cũng không có cách nào ngăn cản được Lâm Vân tự tung tự tác. Ở góc độ khác, trước tình hình hiện tại, quả thực cũng là lúc các quân nhân mạo hiểm rồi.
Căn cứ hiện tại có hai chiếc trực thăng được sản xuất trong nước, trước khi chính thức thử nghiệm, hai phi công đã luyện tập nhảy dù trong một tuần. Một trong hai người lái trực thăng mô phỏng lại hành động rơi, còn người kia thì nhảy ra. Họ thậm chí còn thử dùng đến máy phóng. Đó là một loại tên lửa nhỏ được gắn vào sau lưng của phi công theo chiều ngang. Lúc khởi động, chiếc trực thăng sẽ bốc lên một đám khói trắng, giống như bị công kích, còn phi công sẽ giống như một tảng đá nhỏ, bị ném ra khỏi cửa khoang của máy bay rồi mới mở dù. Nhìn vào cảnh tượng này thật sự khiến người ta kinh hồn bạt vía.
Có lần, trong lúc nghỉ ngơi, một phi công hỏi Lâm Vân: “Thiếu tá, chúng tôi sẽ bị thứ gì bắn hạ đây? Nếu lúc đó cũng giống tình huống mà Thượng úy Vương gặp phải thì dù có tập luyện thế này cũng không mang lại tác dụng gì cả.”
“Cường độ của tia sét lần này yếu hơn rất nhiều, nếu chẳng may trực thăng bị đánh trúng cũng không gây ra những thiệt hại lớn như thế. Thử nghiệm chính thức sẽ được thực hiện ở độ cao trên 5000m, mọi người sẽ có thời gian để luyện tập nhảy dù.”
Một viên phi công khác hỏi: “Tôi nghe nói mình phải phóng sét vào một chiếc trực thăng khác?”
“Đúng vậy, cường độ chỉ giống như lần trước anh xả hết năng lượng còn dư trong pin thôi.”
“Nói như vậy có nghĩa là các cô sẽ sử dụng vũ khí này trong không chiến? Chúng ta sẽ sử dụng vũ khí chỉ có tầm phóng 100m trong không chiến thật sao?”
“Đương nhiên là không, hai chiếc trực thăng của các anh sẽ kéo hồ quang điện bay trong không trung, sợi hồ quang điện giống như một tấm lưới, hoặc có thể nói là châm ngòi một cấu trúc nào đó có thể tồn tại trong không gian. Một khi thứ đó được phát hiện thì có thể ngay lập tức trở thành vũ khí có sức hủy diệt khủng khiếp nhất.”
“Thiếu tá, chuyện này càng ngày càng trở nên mơ hồ. Nói thật, tôi sắp mất hết niềm tin vào các cô rồi. Giờ tôi cũng chỉ mong sớm làm cho xong việc này để quay trở lại lực lượng thôi.”
Khi hai phi công nhắc tới Thượng úy Vương Tùng Lâm, người bị sét do một đám mây điện tạo ra đánh trúng, lòng tôi thắt lại. Tôi mường tượng nếu bản thân mình cũng phải đối mặt với chuyến bay nguy hiểm như vậy thì sẽ như thế nào, chắc chắn tôi sẽ ngập tràn sợ hãi; vả lại, nếu tôi là Lâm Vân thì tôi cũng không có cách nào thản nhiên đối diện với hai phi công để kể chuyện này. Ấy thế mà những gương mặt trẻ tuổi trước mặt tôi vẫn bình thản ung dung, như thể họ chỉ vừa lái xe ra ngoại ô rong chơi.
Lần thí nghiệm đầu tiên được thực hiện vào hôm thời tiết rất tốt. Ngay từ sáng sớm, mặt đất đã được dọn dẹp sạch sẽ, tất cả các thành viên tham dự dự án đều tới hiện trường thí nghiệm. Không nhiều người lắm, cộng tất cả các kỹ sư, công nhân và nhân viên mặt đất vào mới được hơn hai mươi người. Có một chiếc xe cứu thương đang đỗ cách điểm cất cánh của trực thăng không xa, trang phục màu trắng của nhân viên y tế dưới ánh sáng đầu ngày rất chói mắt, luôn mang đến cho tôi một cảm giác dị thường. Hai chiếc cáng được đặt sẵn trên bãi cỏ càng dấy lên trong tôi nỗi sợ hãi. Nhưng người có nhiệm vụ khiêng cáng thì lại đang đứng ngay bên cạnh cáng, thản nhiên nói chuyện cười đùa với hai cô y tá xinh đẹp vừa gặp mặt. Cảm giác tự ti trong tôi lại ùa về, cái đêm giông bão quyết định cuộc đời tôi sau này đã làm tôi sợ chết hơn người bình thường rất nhiều.
Lâm Vân cầm hai bộ quần áo bảo hộ liền thân màu vàng đưa cho hai phi công. “Nó được mượn từ Cục Cung cấp Điện thành phố, là loại quần áo che chắn của công nhân tác nghiệp với đường dây cao áp. Loại trang phục này sử dụng tấm chắn điện dựa theo nguyên tắc của lồng Faraday, cũng có tác dụng phòng hộ nhất định đối với sét.”
Một phi công nhận lấy bộ quần áo bảo hộ, cười với Lâm Vân rồi nói: “Không cần lo lắng, Thiếu tá, sợi hồ quang điện nho nhỏ của cô không thể đáng sợ hơn tên lửa đạn đạo Stinger* đâu.”
Lâm Vân giải thích các bước thí nghiệm cho họ: “Đầu tiên, các anh cần bay tới độ cao 5000m, sau đó điều khiển hai chiếc máy bay bay gần nhau nhất có thể trong khoảng cách an toàn, khi đạt tới được khoảng cách gần nhất thì đốt cháy hồ quang điện, sau đó từ từ kéo giãn khoảng cách, cho tới khi cự ly nhỏ hơn tầm bắn của hồ quang điện thì giữ trạng thái hover1, rồi mới được bay về phía trước, cần nghe chỉ huy mặt đất để kiểm soát tốc độ. Các anh cần chú ý quan sát trạng thái của hồ quang điện để quyết định có nên hover* hay không. Hai anh đều có kinh nghiệm về mấy chuyện này rồi. Tuy nhiên, có một điều cần đặc biệt lưu ý: Nếu như hồ quang điện bị dập tắt giữa chặng bay thì các anh cần tách khỏi nhau càng nhanh càng tốt, đồng thời tắt máy phát điện ngay lập tức, không được thử đốt hồ quang điện thêm lần nữa, bởi nếu đốt hồ quang điện ở cự ly xa, sét có thể sẽ đánh trúng vào thân máy bay! Nhất định phải chú ý tới chuyện này, nếu không các anh sẽ trở thành liệt sĩ đấy!”
Dựa theo kế hoạch, sau khi hai chiếc trực thăng đạt tới độ cao như đã dự định, có thể bay xuôi theo chiều gió, nhằm giảm thiểu tốc độ đối lưu giữa các luồng gió tới mức nhỏ nhất, lúc này có thể đốt hồ quang điện, bay xuôi theo gió một đoạn, rồi lại dập tắt hồ quang điện đi. Quá trình này sẽ được lặp đi lặp lại.
Chiếc trực thăng thí nghiệm nhanh chóng bay tới độ cao dự định, lúc này chỉ có thể dùng kính viễn vọng để nhìn thấy họ.
Hai chiếc trực thăng vừa bay theo chiều gió, vừa tiếp cận nhau, cuối cùng gần đến độ trông lên từ mặt đất tưởng như hai cánh quạt sắp chạm vào nhau. Lúc này, giữa hai chiếc máy bay xuất hiện một vòng hồ quang điện sáng lóa. Âm thanh đùng đoàng giòn tan vang lên truyền tới mặt đất. Hai chiếc máy bay bắt đầu kéo giãn khoảng cách, hồ quang điện cũng vì thế bị kéo dài ra, trở thành một đường thẳng, hai chiếc máy bay càng tăng khoảng cách thì độ dao động của vòng hồ quang điện càng lớn. Khi hai chiếc trực thăng bay lên và đạt tới vị trí giới hạn, vòng hồ quang điện trong hệt như một sợi tơ mỏng nhảy múa điên cuồng trong không trung, như thể sắp thoát ra khỏi mối ràng buộc ở hai đầu để lao vào bầu trời. Mặt trời vẫn chưa lên cao, trong khung cảnh nền trời ban mai màu xanh thẫm cùng với bóng đen do hai chiếc trực thăng tạo thành, vòng hồ quang có màu xanh tím sáng trông thật ảo diệu, giống như vết xước trên tấm phim của bộ phim điện ảnh đang được chiếu trên màn chiếu.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy rất lạnh, bụng quặn lại, cả người run rẩy. Tôi đặt kính viễn vọng xuống, nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy một chấm sáng màu xanh trên bầu trời, như một ngôi sao mai đang ở rất gần. Lúc tôi cầm lại kính viễn vọng lên, hai chiếc trực thăng đã đạt tới khoảng cách đủ để phóng điện, kéo theo vòng hồ quang đang rung động dài gần 100m bay về phía trước, tốc độ bay không nhanh, chỉ có thể lấy đám mây mỏng được mặt trời chiếu sáng ở đường chân trời làm vật tham chiếu. Khi chiếc trực thăng bay về phía Đông, thân máy bay trở thành hai chấm màu đỏ cam dưới ánh sáng mặt trời, còn ánh sáng của vòng hồ quang mờ tối đi một chút.
Tôi lại hạ kính xuống, đang thở phào nhẹ nhõm thì nghe thấy mấy người đứng bên cạnh hét lên thất kinh, tôi vội vàng nâng kính lên thì vừa hay nhìn thấy cảnh tượng đó: Bên cạnh chiếc máy bay trực thăng tiếp nhận vòng hồ quang điện, vòng hồ quang đang bị bắt chéo, thân vòng vẫn nối với điện cực. Nhưng nhánh của nó đang lay động không ngừng, quét dọc từ thân tới đuôi máy bay, giống như một cánh tay mảnh dẻ đang mò tới mò lui trên đuôi máy bay. Quá trình này chỉ kéo dài chừng ba, bốn giây, sau đó tất cả các vòng hồ quang được nối đều bị dập tắt.
Ban đầu, tôi cứ nghĩ tình hình này có vẻ không quá đáng ngại, chắc sẽ không gây ra hậu quả thảm khốc gì cho trực thăng. Thế nhưng tôi đã lầm. Vào thời khắc hồ quang điện bị dập tắt, tôi nhìn thấy một tia lửa nhỏ xuất hiện ở cánh quạt chỗ đuôi trực thăng. Trong lúc máy bay xoay vòng, càng ngày càng nhanh, ngọn lửa ấy nhanh chóng bị dập tắt, rồi tại chính vị trí ấy, một làn khói trắng bốc lên. Sau đó, tôi mới biết tia sét đã đánh hỏng đường dây kiểm soát ở cánh quạt phần đuôi trực thăng, khiến cánh quạt dừng lại. Cánh quạt ở đuôi trực thăng vốn dùng để cân bằng momen xoắn* do cánh quạt chính tạo ra, khi cánh quạt này bị mất đi động cơ, thân của máy bay trực thăng sẽ quay ngược chiều với chiều quay của cánh quạt chính. Từ kính viễn vọng, tôi trông thấy hình ảnh chiếc trực thăng dần mất đi lực nâng theo tốc độ tự quay ngày càng nhanh, bắt đầu chao đảo rơi xuống.
“Nhảy dù!!!” Đại tá Hứa hét lớn qua bộ đàm.
Nhưng chỉ mấy giây sau, phi công hình như đã khởi động lại được cánh quạt ở đuôi, chuyển động của máy bay bắt đầu chậm lại, tốc độ rơi vì thế cũng chậm theo, trực thăng duy trì lại trạng thái hover trên không trung. Nhưng chỉ sau một lúc, máy bay lại giống như một món đồ chơi bị xoay trong gió, tiếp tục rơi bổ xuống.
“Mau nhảy dù!!!” Đại tá Hứa hét lên lần nữa.
Sau khi rơi được một lúc, chiếc trực thăng lại ngừng xoay tròn, rồi lơ lửng, rồi lại tiếp tục rơi… Quá trình này lặp đi lặp lại. Lúc này, trực thăng đã rơi xuống độ cao an toàn đủ để nhảy dù, chỉ có thể hy vọng trực thăng hạ cánh xuống mặt đất gần thời điểm hover. Khi chiếc trực thăng tiếp đất ở vị trí xa xa ở phía Đông, tôi nhận thấy tốc độ rơi có chậm hơn nhưng vẫn quá nhanh so với tốc độ hạ cánh thông thường. Tôi sợ hãi nhìn về phía đó, ngẩn người chờ đợi, cũng may là cuối cùng không có khói bốc lên từ phía sau bụi cây.
Lúc chúng tôi lái xe tới, chiếc trực thăng còn lại đã sớm hạ cánh gần đó. Nó rơi xuống ngay giữa một vườn cây ăn quả, thân của chiếc trực thăng bị nghiêng, đè bẹp mấy cây ăn quả bên dưới. Vài cây xung quanh cũng bị cánh quạt chém gãy. Kính buồng lái bị vỡ, nhưng ngoài chiếc trực thăng ra thì không có thiệt hại nào lớn. Vị trung úy phi công đang dựa người vào cây, nắm chặt cánh tay đang chảy máu, sốt ruột đẩy y tá và người khiêng cáng tránh ra. Sau khi gặp Lâm Vân, anh ta giơ ngón tay cái của cánh tay không bị thương về phía cô ấy.
“Thiếu tá, vũ khí sét của cô cuối cùng cũng hạ được một cái máy bay rồi!”
“Tại sao anh không nhảy dù?” Đại tá Hứa ở phía sau tức giận hỏi.
“Đại tá, về việc khi nào cần nhảy dù thì phi công chúng tôi có quy tắc riêng của mình.”
Lúc trên xe quay trở về căn cứ, tôi không kìm lòng được nên đành hỏi Lâm Vân: “Trong lần thí nghiệm này, cô được chỉ định là chỉ huy mặt đất, vậy tại sao lệnh nhảy dù lại do Đại tá Hứa đưa ra vậy?”
“Phi công có khả năng cao sẽ cứu được chiếc trực thăng đó,” Lâm Vân bình tĩnh trả lời.
“Nhưng lúc đó cơ hội cũng chỉ năm mươi năm mươi mà thôi, nếu không cứu được thì sao?”
“Vậy thì thí nghiệm sẽ bị dừng lại một thời gian dài, thậm chí dự án này cũng sẽ bị hủy bỏ.”
“Vậy nếu cô đang chỉ huy một cuộc tấn công, trên đường đi có một bãi mìn, thì cô vẫn sẽ ra lệnh cho lính của mình đi qua phải không?”
“Theo điều lệ quân sự mới, sĩ quan là nữ không được chỉ huy ở trận địa tiền tuyến.” Giống như mọi lần, Lâm Vân khéo léo né tránh câu hỏi của tôi.
“Quân đội có quy tắc riêng, hơi khác với người bình thường” đoạn cô ấy nói thêm, có lẽ là vì cảm thấy bản thân vừa rồi quá lạnh lùng nên có đôi chút áy náy.
“Đại tá Hứa không phải người trong quân đội sao?”
“Đương nhiên ông ấy là quân nhân rồi,” Lâm Vân nhạt nhẽo đáp, tôi có thể thấy được cảm giác khinh khỉnh trong giọng nói của cô ấy. Cô ấy đối với tầng lớp lãnh đạo của căn cứ đều như vậy. Chiều hôm ấy, chiếc trực thăng được di chuyển về căn cứ sau khi được sửa chữa khẩn cấp.
“Trước khi chúng ta nghĩ ra được biện pháp hữu hiệu để đảm bảo an toàn thì cuộc thí nghiệm này cần dừng lại!” Đại tá Hứa kiên quyết nói trong buổi họp tại căn cứ vào tối hôm đó.
“Chỉ cần bay thêm hai lần nữa thì có lẽ chúng ta sẽ tìm ra được quy luật dao động của sợi hồ quang điện, phải như thế thì mới tìm được cách bay sao cho sợi hồ quang điện không đánh vào thân máy bay,” viên phi công bị thương ban sáng vẫy vẫy cánh tay đang được băng bó, nhìn động tác và biểu hiện của anh ta có thể thấy cánh tay bị thương rất đau. Nhưng để thể hiện rằng mình vẫn có thể điều khiển được trực thăng, anh ta không đeo dây treo tay, ngược lại còn cố ý hoạt động cánh tay đó.
“Tai nạn như vậy không thể xảy ra thêm lần nữa, cần có biện pháp đảm bảo an toàn đáng tin cậy,” Lâm Vân nói.
Một viên phi công khác lên tiếng: “Tôi mong mọi người hiểu đúng rằng chúng tôi không mạo hiểu cho dự án này của mọi người mà đang mạo hiểm vì chính chúng tôi. Hiện tại, binh chủng không quân lục quân đang cần vũ khí mới hơn bao giờ hết!”
“Anh hiểu lầm nguyên nhân chúng tôi dừng thí nghiệm này lại rồi. Chúng tôi dừng lại vì lợi ích của dự án. Nếu xảy ra một vụ tai nạn rơi máy bay như vụ của Thượng úy Vương Tùng Lâm thì dự án này sẽ kết thúc,” Lâm Vân nói với anh ta.
“Chúng ta cần tìm ra một biện pháp an toàn khả thi!” Đại tá Hứa nói.
Một kỹ sư lên tiếng: “Trước mắt, loại máy bay có thể duy trì được trạng thái hover và bay với tốc độ thấp, lại còn mang theo thiết bị bay điều khiển từ xa có tải trọng lớn như vậy, thì chỉ có loại khí cầu dùng khí heli do Đại học Hàng không và Du hành vũ trụ Bắc Kinh nghiên cứu chế tạo mà thôi. Tuy nhiên, độ chính xác của khinh khí cầu này khi thao tác không thể đảm bảo độ chuẩn xác trong quá trình ngắm bắn phóng điện”
Lâm Vân nói: “Thực ra chúng ta cũng có thể làm được, sử dụng khinh khí cầu cũng chỉ nhằm mục đích tránh thương vong về người, nhưng cũng không đem lại lợi ích gì cho cuộc thí nghiệm. Khinh khí cầu vẫn sẽ bị sét đánh hỏng.”
Tôi sực nhớ ra một chuyện nên cất tiếng: “Thầy hướng dẫn thạc sĩ của tôi trước kia từng nghiên cứu một loại lớp phủ chống sét, dùng cho đường dây điện cao thế. Tôi cũng chỉ nghe người khác kể lại chứ không biết chi tiết.”
“Thầy hướng dẫn của cháu là Trương Bân đúng không?” Đại tá Hứa hỏi tôi.
Tôi gật đầu. “Chú biết ông ấy sao?”
“Tôi cũng từng là sinh viên của thầy ấy. Lúc đó, thầy ấy vẫn là giảng viên, còn chưa chuyển tới trường cậu.” Đại tá Hứa đột nhiên buồn bã. “Mấy ngày trước, tôi còn gọi điện cho thầy, muốn tới thăm hỏi nhưng bận mãi chưa sắp xếp được thời gian. Tôi chỉ sợ rằng thầy chẳng còn mấy ngày nữa. Bệnh của thầy, cậu cũng biết đúng không?”
Tôi lại gật đầu.
Đại tá Hứa nói tiếp: “Thầy ấy là một người rất nghiêm túc trong học thuật. Cả đời cần mẫn và siêng năng…”
“Chúng ta thảo luận tiếp về lớp phủ đó nào!” Lâm Vân sốt sắng nhắc nhở.
“Tôi có biết đến phát minh đó, khi ấy, tôi tham gia cuộc họp thẩm định. Hiệu quả chống sét thực sự rất xuất sắc,” Đại tá Hứa khen ngợi.
“Mấu chốt là loại sơn này phải tiếp đất mới phát huy được tác dụng, nếu không thì sẽ không có ý nghĩa gì cả,” Lâm Vân nói. Kiến thức kỹ thuật của cô ấy vẫn luôn khiến tôi bái phục. Nếu không có chuyên môn thì không thể biết được điều đó. Đa phần lớp phủ chống sét đều cần tiếp đất.
Đại tá Hứa bóp trán nghĩ ngợi: “Cái này thì… Chuyện cũng đã lâu rồi, tôi cũng không nhớ rõ. Cụ thể ra sao chắc phải hỏi người đã phát minh ra nó.”
Lâm Vân đưa ống nghe cho tôi: “Vậy anh gọi cho ông ấy đi. Nếu được thì hãy mời ông ấy tới Bắc Kinh, chúng ta cần pha chế ra loại sơn này càng sớm càng tốt!”
“Thầy ấy mắc ung thư,” tôi ái ngại nhìn cô ấy.
Đại tá Hứa nói: “Cứ gọi đi, không sao đâu.”
Tôi nhận ống nghe mà Lâm Vân đưa cho. “Tôi cũng không rõ thầy ấy đang ở nhà hay trong bệnh viện…” Tôi vừa nói vừa lật danh bạ, tìm thấy số điện thoại nhà của Trương Bân ở ngay trang đầu tiên. Sau khi điện thoại được kết nối, một âm thanh yếu ớt truyền tới: “Ai vậy?”
Sau khi tôi nói ra tên của mình, giọng nói từ nơi xa xôi bỗng chốc trở nên hào hứng và khỏe khoắn: “Ồ, chào em, chào em! Em bây giờ đang ở đâu? Làm gì rồi?”
“Thầy Trương, em đang tham gia một dự án quốc phòng. Sức khỏe của thầy sao rồi ạ?”
“Nghe vậy tức là em đã có tiến triển rồi hả?” Ông không trả lời câu hỏi của tôi mà hỏi thẳng.
“Giờ em nói qua điện thoại cũng không tiện, thầy giờ sao rồi ạ?”
“Càng ngày càng kém đi. Triệu Vũ mới qua thăm tôi. Có lẽ cậu ấy cũng nói với em rồi.”
“Dạ vâng, điều kiện y tế ở chỗ thầy sao ạ?” Lúc tôi đang nói chuyện, Lâm Vân ở bên cạnh thì thầm thúc giục: “Hỏi đi!” Tôi bịt ống nghe lại, nghiêm túc nói với cô ấy: “Tránh ra nào!” Đoạn tôi áp lại ống nghe lên tai, nghe thấy Trương Bân nói: “ Tôi đã thu thập được một vài tư liệu nghiên cứu, đang chuẩn bị gửi cho em.”
“Thầy Trương, em muốn hỏi thầy một việc, liên quan tới lớp phủ chống sét dây điện cao thế mà trước kia thầy nghiên cứu.”
“Ồ, thứ đó không có giá trị thực dụng về mặt kinh tế, bị xếp xó lâu rồi. Em muốn biết gì?”
“Loại lớp phủ đó có cần tiếp đất không ạ?”
“Không, không cần. Hoàn toàn dựa vào tác dụng che chắn của chính nó.”
“Bọn em muốn áp dụng nó vào máy bay.”
“Thầy e là không được đâu. Bề mặt của lớp phủ đó rất thô ráp, không thể đáp ứng được các chỉ số tiêu chuẩn về khí động học cần thiết cho bề mặt máy bay. Hơn nữa, vỏ của máy bay và dây cao thể không cùng một chất liệu, không rõ sau khi phủ lớp đó lên thì trong thời gian dài có sản sinh ra hiện tượng ăn mòn vỏ máy bay hay không.”
“Những điều thầy vừa nói không đáng kể, em chỉ muốn biết xem nó có tác dụng chống sét hiệu quả với máy bay hay không thôi ạ.”
“Chắc chắn là có, chỉ cần phủ một lớp có độ dày nhất định thì máy bay thậm chí có thể bay xuyên qua mây vũ tích. Thực ra, lớp phủ đó đã có những ứng dụng thực tế rồi nhưng chưa từng thử với máy bay. Năm ấy, phòng thí nghiệm điện học khí quyển của trường đại học có dự án như này, dùng bóng thám không* để tìm hiểu cấu trúc của mây vũ tích. Tuy nhiên, sau nhiều lần thử nghiệm, bóng thám không và cabin máy móc được treo phía dưới khi lọt vào đám mây đều bị sét đánh trúng phá hủy ngay tức khắc. Sau đó, họ tìm tới thầy, dùng lớp phủ chống sét phủ lên bóng thám không và cabin dụng cụ. Kết quả là mấy thứ đó đều được tái sử dụng vài chục lần mà không bị sét đánh. Đó chắc là lần ứng dụng thực tế duy nhất của lớp phủ này.”
“Vậy thì tốt quá! Không biết bây giờ lớp phủ đó còn dư không ạ?”
“Vẫn còn đấy, trong nhà kho của phòng thí nghiệm điện học khí quyển, chắc giờ vẫn dùng được. Tuy nhiên, em chỉ dùng để phủ một chiếc máy bay cỡ nhỏ thì chắc được. Người quản lý vốn không vừa lòng vì những chiếc thùng niêm phong chiếm dụng nhiều không gian, nhiều lần muốn vứt đi rồi nhưng thầy không đồng ý. Nếu như có tác dụng thật thì em cứ lấy nó đi đi. Thầy vẫn giữ lại tất cả tài liệu, công việc pha chế cũng không quá khó. Nhưng thầy thắc mắc… Nếu em không tiện trả lời thì thôi. Có phải cái này liên quan tới việc nghiên cứu sét hòn không?”
“Vâng”
“Như vậy là em đã có phát triển mới rồi?”
“Thầy Trương, hiện tại không chỉ có em mà còn có rất nhiều người đang làm việc này. Còn về tiến triển, rất có khả năng là sẽ có ạ.”
“Vậy thì tốt rồi, thầy sẽ tới chỗ của em ngay. Nếu là chuyện lớp phủ chống sét thì bọn em vẫn cần tới thầy.”
Tôi còn chưa kịp nói gì thì Lâm Vân đã lấy tay che ống nghe lại, chắc đã nghe được lời thầy Trương Bân vừa nói, sợ tôi không đồng ý, liền nói nhỏ với tôi: “Ông ấy có thể nằm ở viện 301*. Điều kiện y tế tốt nhất nước. Chưa kể, nếu tư liệu đầy đủ thì ông ấy cũng không cần hao phí quá nhiều sức lực.”
Tôi nhìn sang Đại tá Hứa, ông ấy đang cầm ống nghe, chắc hẳn hai người thường xuyên liên lạc nên không cần chào hỏi khách sáo nhiều. Đại tá hỏi: “Vật liệu phủ của thầy có tổng cộng khoảng bao nhiêu ạ? Hai tấn? Vâng, chúng em sẽ qua đón thầy.”
Chiều hôm sau, tôi và Lâm Vân tới sân bay Nam Uyển để đón Trương Bân. Đang độ mùa hè oi ả nhất, nhưng một cơn mưa bão vừa đi qua, cuốn theo cái nóng oi bức của nhiều ngày, không khí trong lành, mát mẻ. Sau nhiều ngày bận rộn và căng thẳng, hiếm hoi lắm tôi mới có được cảm giác thư thái như thế này.
“Có phải anh ngày càng có ấn tượng xấu về tôi trong công việc không?” Lâm Vân hỏi tôi.
“Cô biết mình giống cái gì không”
“Anh nói đi.”
“Cô giống một con tàu chỉ chăm chăm hướng về phía ngọn hải đăng xa xôi giữa biển đêm. Chỉ có ngọn hải đăng ấy là có ý nghĩa đối với cô, còn những thứ khác thì cô đều không màng tới.”
“Văn vẻ đấy, nhưng anh không nghĩ rằng lời đó cũng đang miêu tả chính anh sao?”
Tôi biết cô ấy nói đúng. Có lúc ta không thể khoan dung, nhất là khi nhìn thấy bóng hình của chính mình trong người khác. Ngồi đây ngay lúc này, tôi nhớ lại đêm muộn trong thư viện hồi năm nhất, cô bạn học xinh đẹp hỏi tôi đang tìm kiếm thứ gì. Ánh mắt trong trẻo của cô ấy đến giờ vẫn in sâu vào trong tâm trí tôi, đó là ánh mắt dò xét người mà mình cảm thấy kỳ lạ. Tôi tin rằng rồi cũng sẽ có một chàng trai nhìn Lâm Vân như vậy… Chúng tôi đều là những người ly khai với thời đại, đồng thời cũng xa cách với đối phương, hai chúng tôi mà nói về cơ bản mãi không thể hòa nhập với nhau.
Một chiếc máy bay vận tải quân sự hạng nhỏ hạ cánh, Trương Bân bước xuống cùng hai sĩ quan của căn cứ từ cửa sau máy bay. Tình trạng của Trương Bân tốt hơn nhiều so với tôi nghĩ, thậm chí còn tốt hơn cả lúc chúng tôi chia tay nhau một năm trước, không giống người mắc bệnh nan y chút nào. Lúc nghe tôi nói vậy, thầy ấy trả lời: “Hai ngày trước, thầy không được như thế này đâu, nhưng từ lúc nhận được điện thoại của em, bệnh dường như đã thuyên giảm một nửa.” Nói đoạn, ông ấy chỉ tay về phía bốn chiếc thùng sắt đang được dỡ ra từ khoang máy bay. “Bọn thầy đã ước tính chừng một thùng rưỡi là đủ để phủ lên một chiếc trực thăng. Chỗ này đủ cho hai chiếc.”
Trước lúc lên xe, Trương Bân nói với tôi: “Đại tá Hứa đã nói với thầy về ý tưởng của em rồi. Giờ thầy chưa thể nhận xét được gì nhưng có cảm giác rằng lần này hai chúng ta có thể nhìn thấy sét hòn lần nữa.” Ông ấy ngước nhìn bầu trời quang đãng sau mưa, thở phào. “Được như vậy thì tốt quá.”
Sau khi trở về căn cứ, chúng tôi hăng say ngày đêm làm một vài thử nghiệm đơn giản với vật liệu phủ, kết quả là chúng tôi phát hiện ra rằng nó quả thực là một lớp chống sét rất tốt. Sau đó, chỉ trong vòng hơn hai giờ đồng hồ, chúng tôi đã phủ kín lớp sơn đen lên thân của hai chiếc trực thăng.
Sáng sớm ngày hôm sau, lần thử nghiệm bay phóng điện thứ hai được thực hiện. Trước khi cất cánh, Trương Bân nói với viên phi công có cánh tay vẫn đang băng bó rằng: “Yên tâm nhé, chàng trai. Chắc chắn không có vấn đề gì đâu!”
Cuộc thử nghiệm diễn ra suôn sẻ. Hai chiếc trực thăng đốt hồ quang điện ở độ cao 5000m, mang theo sợi hồ quang điện bay tầm mười phút rồi mới hạ cánh trong tiếng vỗ tay của mọi người.
Trong lần bay này, diện tích được hồ quang điện bao phủ gấp một trăm lần so với ở căn cứ 3141, nhưng con số này vẫn chưa đáng kể so với lần quét diện rộng sắp được thực hiện.
Tôi nói với Trương Bân lần quét quy mô lớn trong không trung sẽ được tiến hành sau hai ngày nữa. Nghe xong, thầy ấy quả quyết: “Lúc ấy, em nhất định phải gọi tôi tới!”
Nhìn chiếc xe đưa Trương Bân rời đi, tôi cảm nhận được nỗi suy sụp chưa từng có, đối diện với hai chiếc trực thăng vẫn chưa dừng xoay cánh quạt, tôi nói với Lâm Vân đang đứng bên cạnh: “Chúng ta đã đặt cược vào tự nhiên rồi. Có khi nào mất cả vốn lẫn lời không? Cô nghĩ rằng lưới này có thể ở trong trạng thái kích thích trong không trung?”
“Đừng nghĩ nhiều thế, cứ tiến lên thôi là được rồi,” Lâm Vân nói.