Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 15
3
Chịu
tội
Đại lao của Đề hình án sát ty Kim Lăng cũng ẩm thấp tối tăm không khác gì đại lao Dương Châu. Khi Thư Á Nam uể oải thức dậy, nàng mới nhớ đã là ngày thứ ba đến Kim Lăng. Thư Á Nam vốn nghĩ rằng đến Kim Lăng nàng sẽ nhanh chóng được thả ra, nhưng đã ba ngày, chẳng những không thấy tin tức gì, đến Tô Minh Ngọc cũng không đến thăm nàng. Nàng không giận Minh Ngọc, nàng biết chàng đang bôn ba vì mình, vậy là đủ.
Nhờ Tô gia đứng ra, Thư Á Nam không phải chịu nhiều khổ sở trong đại lao, điều kiện giam cầm ở đây tốt hơn Dương Châu rất nhiều. Không những được giam một mình, bữa ăn còn rất phong phú, đến cai ngục cũng rất khách khí với nàng, coi Thư Á Nam như một thượng khách đến nghỉ chân. Thư Á Nam còn đang thấp thỏm trong dòng suy nghĩ rối bời, chợt có tiếng động ở cửa lao, một tên ngục tốt giọng hiền hòa cất tiếng thông báo: “Thư cô nương, có người đến thăm cô.”
“Minh Ngọc!” Thư Á Nam đứng phắt dậy, cặp mắt mong ngóng hướng ra cửa. Một lão già lưng còng đang thong thả bước vào theo sau tên ngục tốt. Đôi mắt to như hạt đậu xanh của lão ánh lên vẻ tinh minh, chòm râu dê lưa thưa hơi bạc, cả người toát ra mùi hủ nho. Lão từ từ bước tới buồng giam của Thư Á Nam, nhét miếng bạc vụn cho tên ngục tốt để gã đi, sau đó mới lên tiếng: “Thư cô nương, lão hủ Văn Nhân Đạt, được ủy thác của Tô tông chủ và Tô công tử đến thăm cô nương.”
“Minh Ngọc đâu? Sao huynh ấy không đến?” Thư Á Nam vội hỏi.
Lão già cảnh giác nhìn xung quanh, nhỏ giọng nói: “Tô công tử là danh sĩ ở Kim Lăng, được vạn người ngưỡng mộ, tất nhiên không thể tùy tiện đến đại lao thăm nom. Tô gia lại là hào môn Giang Nam, không tiện đích thân lộ diện, nên sai lão hủ toàn quyền xử lý vụ án của cô. Lão hủ là sư gia chấp bút của án sát ty, phụ trách ghi chép tất cả án trạng. Vụ án của cô nương do lão hủ xử lý, vì vậy tình tiết bên trong lão hủ nắm rõ nhất.”
“Khi nào ta mới có thể ra ngoài?” Thư Á Nam bèn hỏi.
Văn sư gia thở dài, “Vậy còn phải xem cô nương.” Thấy Thư Á Nam không hiểu ý, lão lấy một tệp giấy tờ mang theo bên mình ra đưa vào khe cửa cho Thư Á Nam: “Đây là bản sao cáo trạng của Nam Cung thế gia, cô nương hãy xem đi.”
Thư Á Nam nhận lấy đọc, trên cáo trạng ghi nghi phạm Thư Á Nam do cha mình tự sát, bất chấp lý lẽ quy trách nhiệm cho Nam Cung Phóng, nửa đêm xách đao xông vào tư gia của Nam Cung Phóng hành hung báo thù, đả thương người bị hại, thuộc tội cố ý giết người không thành. Không chỉ vậy, đoạn cuối cáo trạng viết, phụ thân Thư Chấn Cương của nàng còn thiếu của Nam Cung thế gia hơn ba vạn lượng bạc, nợ cha con trả, tất cả sẽ tính với nghi phạm.
Xem qua một lượt bản cáo trạng, Thư Á Nam gấp gáp nói: “Họ nói dối! Nam Cung Phóng thao túng trường đua ngựa, bày kế dẫn dụ Thích đại thúc vào tròng, cha ta lần này đã mắc phải một món nợ bất minh. Họ không chỉ đoạt mất tiêu cục, còn ép cha ta tự sát. Ta muốn tìm chứng cứ Nam Cung Phóng bày kế hại người mới xông vào Tiêu Tương biệt viện. Ta đả thương y vì y muốn cưỡng bức ta!”
“Nói như vậy, chuyện cô nương xông vào tư gia Nam Cung Phóng và cầm đao bức ép y là có thực?” Văn sư gia nghiêm nghị hỏi.
“Không sai! Nhưng do y muốn làm chuyện bất chính trước, lẽ nào vô tội?” Thư Á Nam hỏi.
“Có chứng cứ không? Nhân chứng? Vật chứng? Chỉ cần một thứ thôi cũng được, chúng ta có thể kiện ngược lại họ!” Văn sư gia hỏi.
Thư Á Nam lập tức cứng họng. Lúc đó chỉ có nàng và Nam Cung Phóng, lấy đâu nhân chứng? Vật chứng nếu có, e rằng Nam Cung thế gia sớm đã tiêu hủy. Vật chứng Nam Cung Phóng bày kế hại người càng xa vời, khó mà tìm được.
“Cô nương chỉ ra tội danh của Nam Cung Phóng, nhưng lại không có chứng cứ. Trong khi Nam Cung thế gia buộc tội cô nương thì chứng cứ xác thực.” Văn sư gia lắc đầu thở dài: “Trong tay Nam Cung Phóng có thư bảo đảm của phụ thân cô, còn cô nương đêm khuya xông vào tư gia Nam Cung Phóng hành hung, không chỉ có nhân chứng, mà còn để lại thanh Nhạn Linh đao. Vụ án này vô cùng bất lợi với cô nương, nếu muốn thoát tội e rằng rất khó.”
“Trên đời này không còn thiên lý ư?” Thư Á Nam ấm ức nói: “Luật pháp Đại Minh lẽ nào không giúp người tốt mà còn giúp người xấu.”
Văn sư gia nghiêm nghị nói: “Kiện quan không nói lẽ trời, mà chỉ nhìn chứng cứ, không có chứng cứ, cô nương có lý thế nào cũng vô ích.”
“Tô gia ở Kim Lăng không phải rất có thế lực sao?” Thư Á Nam hoang mang: “Nếu họ đánh tiếng có lẽ ta có thể thoát tội chứ?”
Văn sư gia sầm mặt: “Thư cô nương đừng cho rằng ngân lượng có thể mua được tất cả, án sát sứ Trương đại nhân mà nghe được câu này, chắc chắn sẽ trị cô nương tăng thêm một tội! Tô gia là đại tộc đàng hoàng, há lại nhiễu loạn sự công bằng của pháp luật! Huống hồ hiện tại người kiện cô là Nam Cung thế gia, luận thế lực, họ cũng không kém Tô gia. Hơn nữa phía dưới còn có tri phủ Dương Châu và Hình bộ thần bổ Liễu Công Quyền theo dõi, ai dám tham tài phạm pháp?”
“Lẽ nào không còn cách nào khác?” Thư Á Nam lo lắng hỏi.
Văn sư gia thở dài tỏ vẻ bất lực: “Muốn hoàn toàn thoát tội e rằng không có khả năng, kế sách hiện thời chỉ có thể nhịn, điểm chỉ nhận tội, xin sự khoan dung của án sát sứ đại nhân. Cô nương có thể nói mình tức giận vì cha chết thảm nên nhất thời kích động mới đi tìm Nam Cung Phóng báo thù, vô tình đả thương y, không có ý giết người để luật pháp khai ân.”
“Ta không có tội, tại sao lại nhận?” Thư Á Nam giận dữ hét.
Văn sư gia thở dài: “Kiện tụng chi nhìn chứng cứ không nhìn sự thật. Hiện tại chứng cứ xác thực, nếu không nhận tội, chỉ có thể khiến tội nặng thêm. Nếu chủ động thừa nhận là quá khích đả thương người, có thể giảm nhẹ hình phạt theo luật pháp. Có lão hủ lo liệu bên trong, có lẽ chỉ cần bồi thường thuốc men là được, không đến nỗi bị giam trong đại lao.”
Thư Á Nam im lặng một hồi, đờ đẫn hỏi: “Đây là ý của Tô công tử sao?”
“Cũng chính là ý của Tô tông chủ.” Văn sư gia gật đầu chắc nịch: “Tô tông chủ đã dốc toàn lực vì vụ án này, cô nương cũng không muốn khiến ông ấy khó xử chứ?”
Thư Á Nam cay đắng cười: “Nếu là ý của Tô công tử, ta còn gì để nói đây? Nói cho ta biết phải làm thế nào?”
Văn sư gia nhỏ nhẹ chỉ dẫn: “Lát nữa khi lão hủ đi, cô nương bảo cai ngục đưa giấy mực bút nghiên, viết một bản nhận tội theo những gì lão hủ vừa nói, sau đó để cai ngục giao cho án sát sứ Trương đại nhân, khẩn cầu đại nhân đại lượng khai ân, xét xử khoan hồng. Lão hủ sẽ lo liệu bên trong, quyết không để cô nương bị ngồi đại lao.”
Thư Á Nam ngơ ngác gật đầu, lòng thầm nhủ: “Nếu Minh Ngọc muốn ta nhận tội, chịu ấm ức một chút cũng đành. Chỉ cần không phải ngồi đại lao, chút ấm ức này đáng gì? Nếu còn ở lại đây thêm ngày nào, sớm muộn gì ta cũng phát điên mất!”
Văn sư gia thấy Thư Á Nam gật đầu đồng ý, lão lặng lẽ rút trong ống tay áo một tờ giấy đã chuẩn bị sẵn, đưa cho nàng, nói: “Lão hủ đã thảo sẵn giúp cô, cô nương chỉ cần chép lại sau đó để cai ngục giao cho án sát sứ đại nhân. Lão hủ về nha môn đợi tin cô nương.”
Văn sư gia khoan khoái bước ra cửa đại lao, tâm trạng phấn khởi. Lão sờ vào xấp ngân phiếu dày trong ống tay áo, lòng thầm hả hê: “Một vạn lượng cơ mà! Thần không biết quỷ không hay, cứ lặng lẽ rơi vào túi ta, bây giờ có lập tức cáo lão về quê vẫn có thể cơm ngon áo đẹp nửa đời còn lại. May nhờ Ân sư gia ở nha môn Tri phủ Dương Châu, không có lão bắc cầu, ta cũng không gặp được đại thần tài Nam Cung Thụy.”
Thư nhận tội của Thư Á Nam khiến Tô Kính Hiên không kịp trở tay, hoàn toàn rối loạn. Mấy ngày nay Tô Kính Hiên sai người đi tìm chứng cứ, chuẩn bị giúp nàng thoát tội, nhưng giờ đã rơi hẳn vào thế bị động. Vụ án thế này vốn không phải vấn đề đối với Tô gia, nhưng đối thủ hiện tại là Nam Cung thế gia, lại có Hình bộ thần bổ Liễu Công Quyền theo dõi vụ án khiến nó đã biến thành cuộc kiện cáo giữa Tô gia và Nam Cung thế gia.
Đối mặt với sự chất vấn của cháu mình, Tô Kính Hiên bất lực nói: “Thúc phụ không ngờ Thư cô nương đột nhiên nhận tội, còn tự tay viết thư. Vụ án này lại có Hình bộ thần bổ Liễu Công Quyền theo dõi, án sát ty cũng không dám giấu thư nhận tội đi. May mà Thư cô nương chỉ nhận là nhất thời kích động, vô tình đả thương người, không có ý mưu sát, lại là phạm tội lần đầu có thể xin khai ân để được xử nhẹ. Thật ra vụ án này muốn hoàn toàn thoát tội cũng không dễ gì, Thư cô nương tránh cái khó mà nhận tội ngộ thương, cũng xem như lựa chọn bất đắc dĩ.”
“Thúc đã nói sẽ cứu muội ấy, không để Á Nam phải chịu bất cứ tổn thương nào!” Ánh mắt Tô Minh Ngọc đầy lo lắng xen lẫn thất vọng.
“Thúc phụ chỉ có thể đảm bảo cô nương ấy không bị Nam Cung thế gia bức hại, chứ không thể bảo đảm luật pháp xét xử.” Tô Kính Hiên thở dài: “Ngân lượng thúc phụ sẽ giúp cô nương ấy bồi thường, ta sẽ xin án sát ty đại lượng khai ân xử nhẹ. Hiện giờ chúng ta chỉ có thể làm được nhiêu đó thôi.” Hơn ba vạn lượng tuy không phải con số nhỏ, nhưng nếu có thể cắt đứt tình cảm của Tô Minh Ngọc với nữ tử đó, số tiền này bỏ ra cũng đáng.
Tô Minh Ngọc bi phẫn hỏi: “Á Nam bị lăng nhục mới đả thương Nam Cung Phóng, sao có thể chịu tội vì chuyện này? Nam Cung Phóng ý đồ bất chính thì lại được tiêu diêu ngoài vòng luật pháp?”
“Không có chứng cứ, chúng ta không thể chứng minh Nam Cung Phóng có ý đồ cưỡng bức. Trái lại, Thư cô nương đêm khuya xông vào tư gia người khác, còn cầm đao uy hiếp Nam Cung Phóng lại là sự thật không thể chối cãi, kiện tới đâu cũng sẽ cho rằng Thư cô nương có tội. Minh Ngọc, Tô gia chúng ta là danh gia vọng tộc Giang Nam, nhất cử nhất động đều bị người đời nhìn vào, lẽ nào cháu vì muốn cứu Thư cô nương mà phớt lờ sự tôn nghiêm của luật pháp? Ỷ thế can thiệp vào xét xử của án sát ty?” Tô Minh Ngọc á khẩu, Tô Kính Hiên thở dài nói: “Thúc phụ đã hỏi trạng sư, tình huống giống như Thư cô nương, cho dù chủ động nhận tội cũng không tránh khỏi hai, ba năm khổ sai, nhưng thúc thúc sẽ xin án sát ty đưa cô nương ấy đến nhà giam có điều kiện tốt nhất, nhờ chiếu cố đặc biệt tới cô ấy, tóm lại quyết không để Thư cô nương phải chịu khổ, cháu hãy yên tâm.”
Tô Minh Ngọc im lặng hồi lâu, run rẩy tháo viên đá vũ hoa đang đeo trên cổ xuống, buồn bã đưa cho Tô Kính Hiên: “Xin thúc thúc giúp điệt nhi trả nó cho Thư cô nương, cứ nói điệt nhi không có mặt mũi nào gặp nàng.”
Tô Kính Hiên không hỏi gì thêm, nhận lấy viên đá vũ hoa. Nhìn ánh mắt thẫn thờ của Tô Minh Ngọc, ông cảm thấy cháu mình thoáng chốc mất sạch tinh thần, đờ đẫn bước đi như xác không hồn. Tô Kính Hiên xót xa, nhưng nghĩ tới việc có thể tránh xung đột trực diện với Nam Cung thế gia, lại để Tô Minh Ngọc từ bỏ được một nữ tử giang hồ chuyên gây phiền phức, kết quả này cũng xem như viên mãn.
Thư Á Nam viết thư nhận tội, án sát ty mau mắn kết thúc vụ án. Do đã có Tô Kính Hiên tác động từ trước, án sát ty phán Thư Á Nam chịu hai năm lao dịch, miễn thích chữ trên trán, chịu cảnh gả cho tướng sĩ biên thùy. Phán quyết được công bố, Nam Cung Phóng giam mình trong phòng, cả ngày không chịu ăn uống khiến Nam Cung thế gia từ trên xuống dưới đứng ngồi không yên.
“Phóng nhi, mau mở cửa nghe ta nói!” Nam Cung Thụy lo lắng giậm chân ngoài cửa.
“Con không nghe!” Nam Cung Phóng trong phòng khàn giọng rít lên: “Dù không thể để ả làm thiếp của con cũng phải bán ả cho lầu xanh, vĩnh viễn làm kỹ nữ! Sao có thể để ả chỉ chịu hai năm lao dịch?”
Nam Cung Thụy giận dữ đáp: “Chuyện này có Tô gia nhúng tay vào, nếu tiếp tục kiện sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của nhà chúng ta, ảnh hưởng xấu đến việc làm ăn của trường đua ngựa, cha mới bất đắc dĩ đẩy nhanh việc kết án theo cách của Văn sư gia. Nhưng con yên tâm, chuyện này chưa kết thúc đâu, ả sẽ không dễ dàng thoát như vậy!”
Cánh cửa cuối cùng đã được mở, Nam Cung Phóng bất chấp thương thế, gắng gượng xuống giường ra cửa hỏi: “Cha có dự định gì?”
Nam Cung Thụy nở nụ cười âm hiểm: “Cha đã tìm hiểu kỹ, án sát ty hôm nay sẽ áp giải ả đi Lạc Dương làm khổ sai. Cha đã thông báo cho bằng hữu hắc đạo, ả sẽ biến mất từ đây, chịu giày vò khổ sở nửa đời còn lại tại một kỹ viện hèn hạ nhất ở thị trấn nhỏ nơi biên thùy!”
“Thế thì nhất định phải đưa con đi chiếu cố ả, con sẽ để ả hối hận vì đã sinh ra trên đời!” Ánh mắt Nam Cung Phóng lóe lên tia lạnh lẽo đầy oán độc.
Bên ngoài cổng Tây thành Kim Lăng, Thư Á Nam đang chuẩn bị được áp giải đi Lạc Dương khổ sai, nàng lơ đãng gật đầu với Lý tiêu đầu và Trương tiêu đầu. Họ nghe nói về vụ án của Thư Á Nam nên đã vội từ Dương Châu đến tiễn nàng. Họ vừa an ủi Thư Á Nam, vừa chửi bới Thích Thiên Phong và Nam Cung Phóng. Thư Á Nam ậm ự nghe họ an ủi, nhưng đôi mắt mong ngóng lại nhao nhác nhìn khắp nơi. Mấy ngày vừa rồi như một giấc mơ với nàng, mơ màng nhận tội, bị xét xử chịu hình phạt, nhưng nàng vẫn vững tin vào tương lai. Nếu nhận tội là quyết định của Minh Ngọc, dù ngồi tù cũng chẳng đáng gì. Nàng tin Minh Ngọc sẽ không đời nào bỏ mặc nàng.
Tuy Văn sư gia không thể thực hiện như lời hứa, giúp nàng miễn cảnh ngồi đại lao, nhưng Thư Á Nam hiểu nỗi khổ của chàng, chỉ cần Minh Ngọc đến thăm nàng, thậm chí không cần giải thích hay xin lỗi, nàng đều sẽ bỏ qua.
Một bóng người quen thuộc thúc ngựa phi tới rồi dừng lại, nhảy xuống ngay trước mặt nữ phạm nhân. Hai quan sai vội bước tới nghênh đón, sợ hãi thỉnh an. Tô Kính Hiên đường đường là tông chủ Tô gia lại một mình đến tiễn phạm nhân, điều này chẳng ai dám tin.
Lặng lẽ tới trước mặt Thư Á Nam, Tô Kính Hiên chần chừ giây lát, cuối cùng vẫn không nhịn được cất tiếng hỏi: “Thư cô nương, ta không hiểu tại sao cô nương lại chủ động nhận tội?”
“Không phải ông để Văn sư gia…” Thư Á Nam nói tới đây chợt ngừng lại. Bảo nàng chủ động nhận tội đều là lời nói một phía của Văn sư gia, vậy mà nàng lại dễ dàng tin là thật, Thư Á Nam chợt hiểu ra mình đã bị lừa. Nhưng tất cả không còn quan trọng, nàng nhìn phía sau Tô Kính hiên, hỏi: “Minh Ngọc đâu? Sao huynh ấy không đến?”
“Thư cô nương, Minh Ngọc không còn mặt mũi gặp cô, nhờ lão phu mang cái này trả cho cô nương.” Tô Kính Hiên nói rồi giao lại vật trong tay mình cho Thư Á Nam, vốn định nói vài câu an ủi, nhưng ông cảm thấy tất cả lời nói bây giờ là vô ích.
Thư Á Nam nhận lại viên đá vũ hoa định ước từ tay Tô Kính Hiên, lập tức hiểu ra tất cả. Nước mắt từ từ dâng lên nhạt nhòa đôi mắt nàng, Thư Á Nam cố gắng kìm nén ngăn dòng lệ tuôn rơi. Nàng nở nụ cười ngấn lệ gật đầu với Tô Kính Hiên, cố tỏ ra như không, đeo lại đá vũ hoa lên cổ. Vẫn nụ cười hòa nước mắt ấy, nàng ngước mặt lên nói với Tô Kính Hiên: “Xin hãy thay tiểu nữ chuyển lời cho Tô Minh Ngọc, cảm ơn huynh ấy đã cho tiểu nữ một giấc mơ đẹp và chân thực như vậy. Cả đời này tiểu nữ sẽ không quên!”
Dứt lời, Thư Á Nam quay người, ngẩng cao đầu bước đi. Nàng không muốn bất cứ ai nhìn thấy nước mắt nàng, Thư Á Nam không ngừng nói với bản thân: “Thư Á Nam, hiện giờ ngươi đã là kẻ không nhà, không cha, không tiêu cục, không người yêu thương, không còn mơ ước, không còn tự do, thậm chí không hy vọng, đã mất gần như tất cả, nhưng ngươi vẫn còn sự tôn nghiêm cuối cùng!”
Tô Kính Hiên đưa mắt nhìn theo bóng dáng ngạo nghễ của Thư Á Nam, lần đầu tiên nảy sinh cảm tình với nữ tử này. Nếu không có biến cố lần này, phải chăng cô nương ấy sẽ là nàng dâu tốt của Tô gia? Tô Kính Hiên tiếc nuối lắc đầu, gạt đi suy nghĩ không thiết thực ấy, sau đó quay lại nhét hai tờ ngân lượng vào tay hai quan sai phụ trách áp giải, nhỏ giọng nhắc nhở: “Trên đường chăm sóc tốt cho Thư cô nương, nếu có sơ suất gì, ta tìm hai ngươi hỏi tội!”
Hai tên quan sai hoảng hốt gật đầu lia lịa, họ hiểu rõ lời cảnh cáo của Tô Kính Hiên mang ý nghĩa gì.
Muội là người ta chờ đợi kiếp này. Cái quái gì vậy! Thư Á Nam, mi đúng là một đứa đại ngốc! Sao lại dễ dàng tin vào những lời dối trá này! Công tử thế gia đều cùng một giuộc với Nam Cung Phóng, đừng vì y mà rơi giọt nước mắt nào! Không được khóc!
Mặc Thư Á Nam liên tục ra lệnh cho bản thân, nước mắt vẫn tuôn xuống thành dòng. Nàng đi băng băng về phía trước, hoàn toàn không nghe thấy tiếng gọi hối hả của hai quan sai. Hai người thở hổn hển chạy theo hàng dặm đường, đến lúc không còn bóng dáng người đưa tiễn mới thấy nàng dừng bước, đứng im lặng một chỗ, đôi vai run rẩy, cuối cùng tiếng khóc vỡ òa, người nàng gục xuống.
Tiếng khóc thống thiết bi thương, chất chứa ấm ức, buồn tủi khiến đôi mắt họ cũng ươn ướt theo. Hai người lúng túng đứng bên cạnh nàng, không biết nên an ủi thế nào. Khóc ròng một canh giờ, Thư Á Nam lau sạch nước mắt đứng dậy, bình tĩnh nói với hai người: “Hai vị đại ca, tiểu nữ làm trễ hành trình hôm nay, mong hai vị thứ tội. Chúng ta lên đường thôi.”
Họ lo lắng nhìn nữ phạm nhân đặc biệt này, đôi mắt nàng sưng mọng như hai trái đào, nhưng dáng vẻ vô cùng điềm tĩnh, không thể nhìn ra suy nghĩ của nàng. Hai người nhớ lại lời dặn dò của Tô Kính Hiên, vội lên tiếng an ủi: “Không sao, chỉ cần cô nương vui, sớm hay muộn cũng không quan trọng.”
Ba người đi dọc theo đường cái quan, hướng về phía Tây, đến lúc sắp không còn thấy thành Kim Lăng, Thư Á Nam không kìm được quay đầu nhìn lại, lòng thầm nhủ: “Thư Á Nam, trên đời này không thể dựa dẫm vào ai. Từ nay về sau, ngươi chỉ có thể, cũng bắt buộc phải dựa vào bản thân mình! Ngươi nhất định phải sống vì cha, vì chính mình! Chỉ có cách sống, ngươi mới đòi lại được công bằng cho cha và ngươi!”
Nhìn lại tòa thành Kim Lăng huy hoàng trong ánh nắng, Thư Á Nam kiên nghị quay đầu, sải bước tiến tới số phận mờ mịt đang chờ đợi mình!
Tửu quán ven đường cái quan luôn là nơi tụ tập của đám tiểu thương và cánh sai dịch, thời khắc hoàng hôn lại càng náo nhiệt. Những hán tử giang hồ bôn ba cả ngày kiếm kế sinh nhai lúc này cũng có thể nghỉ ngơi. Dăm ba bát rượu nhàn nhã chẳng khác nào sự hưởng thụ lớn nhất trong ngày với họ.
Thư Á Nam đã đi được một ngày đường, may thay gặp được tửu quán trước khi trời tối. Chẳng đợi nàng lên tiếng, hai quan sai đã mau mắn giành lấy một bàn trống, gõ bàn gọi tiểu nhị mang rượu và đồ ăn lên, sau đó mới gọi Thư Á Nam vào ngồi. Được Tô Kính Hiên căn dặn và đưa ngân phiếu, dọc đường đi họ hết mực quan tâm chăm sóc Thư Á Nam, không dám lơ là.
Thư Á Nam không bận tâm đến ánh mắt kỳ quặc của người trong tửu quán, chỉ cúi đầu chuyên tâm ăn. Nàng biết ở tửu quán kiểu này rất ít khi gặp nữ tử trẻ tuổi như mình, khi xưa nàng theo cha áp tiêu cũng đã quen với những ánh mắt này.
Một tên tửu quỷ vóc người to béo nấc cục ngồi vào bàn của Thư Á Nam, cầm chén rượu nói giọng ngà ngà say: “Vị cô nương đây phạm tội gì vậy? Nói ca ca biết, không chừng ca ca có thể giúp nàng.”
Thư Á Nam quay đầu đi không để ý đến gã. Trên giang hồ lúc nào cũng có hạng nam nhân háo sắc, nàng đã gặp nhiều. Nếu như ngày trước, nàng sẽ lập tức cho gã ăn roi, nhưng giờ nàng lại thấy, những gã hán tử giang hồ không giấu giếm tật háo sắc này chí ít còn chân thật hơn hạng công tử thế gia tướng mạo đường hoàng nhiều.
Hai quan sai thấy có người dám trêu ghẹo nữ phạm nhân bị áp giải ngay trước mặt mình, lập tức trợn mắt đập bàn với gã tửu quỷ: “Con mẹ ngươi chứ, chán sống rồi sao? Còn không cút ngay!”
Tên tửu quỷ không hề cút, trái lại còn nhe nhởn cười: “Đại gia ta đang nói chuyện với tiểu muội đây, ngươi hằn học cái mẹ gì?”
Hai quan sai không ngờ gã lại không sợ uy quan, liền vỗ bàn rút đao, chẳng ngờ đao còn chưa ra khỏi vỏ đã bị ai đó giữ chặt chuôi. Họ quay đầu nhìn, bắt gặp một hán tử áo đen tướng mạo hung ác, gã cười nói: “Hai vị quan sai đại ca, đừng động chút lại rút đao dọa người. Huynh đệ chúng ta nếu ra tay cũng khiến các người sợ chết khiếp đó.”
Vừa dứt lời, mười mấy tửu khách trong quán đồng loạt rút vũ khí giấu bên người ra. Hai quan sai biến sắc, tuy sợ hãi nhưng vẫn cứng miệng quát: “Các… các ngươi định làm gì?”
Gã tửu quỷ nhe răng cười nói: “Hai vị đại ca vất vả rồi, Quá Sơn Hổ ta mời hai vị quan sai đại ca uống rượu.”
Hai quan sai nét mặt xám xịt. Họ đã từng nghe danh Quá Sơn Hổ Ba Mãnh, đó là một nhân vật giang hồ lẫy lừng đang bị quan phủ truy nã. Hai người vội lắp bắp đáp: “Thì… thì ra là Ba gia, tiểu nhân có mắt không tròng, xin… xin Ba gia lượng thứ.”
“Dễ thôi!” Gã tửu quỷ thản nhiên cười nói: “Đưa chìa khóa mở xích ra đây, chuyện này không liên quan gì đến các ngươi nữa. Qua một bên uống rượu, Ba gia ta mời.”
Hai quan sai nhìn những hán tử vây quanh, không còn cách khác đành giao chìa khóa. Gã tửu quỷ cười híp mắt cầm chìa khóa nhìn Thư Á Nam, cười nói: “Thư cô nương, chúng ta được người nhờ vả, cô nương phải đi với chúng ta một chuyến. Cô nương muốn tự nguyện đi hay là để chúng ta nhốt vào bao vải đưa đi?”
Thư Á Nam nghe đối phương gọi thẳng tên mình, lập tức hiểu ra chúng đã có ý ở đây đợi nàng từ trước. Thầm hiểu rơi vào tay lũ phỉ đồ hắc đạo này mang ý nghĩa gì, nàng đột ngột đá tung chiếc bàn. Gã tửu quỷ không ngờ Thư Á Nam đeo khóa xích còn dám động thủ, gã không kịp phòng thủ, bị đá đúng bụng, người ghế cùng đổ. Quá Sơn Hổ danh tiếng lẫy lừng trong giới hắc đạo, nào từng bị tả tơi như vậy? Gã lập tức bật dậy quát lớn: “Mau bắt con chó cái này cho ta!”
Mấy tên phỉ đồ lập tức bủa vây Thư Á Nam, một mình nàng địch với số đông, tay lại bị xích, không thể là đối thủ của lũ phỉ đồ đã có chuẩn bị từ trước. Thư Á Nam đỡ được hai ba chiêu đã bị đánh gục xuống đất, chúng nhét khăn vào miệng rồi trói nàng lại, sau đó trùm bao vải từ đầu đến chân, vắt nàng lên lưng ngựa phóng đi.
Ngựa phi nửa canh giờ cuối cùng cũng dừng lại. Thư Á Nam bị ném xuống đất, trong bao vải, nàng nghe tiếng đám phỉ đồ đốt lửa bắt đầu ăn uống. Một tên phỉ đồ nắn véo Thư Á Nam đang nằm trong bao, dò ý Quá Sơn Hổ: “Lão đại, Nam Cung lão nhi chỉ muốn chúng ta đưa nữ nhân này đi, không nói nhất định phải là một nữ nhân trinh trắng.”
“Đúng vậy đúng vậy!” Một tên khác cũng nở nụ cười ám muội vào hùa: “Các huynh đệ vất vả cả ngày trời, lão đại, hay là để huynh đệ được sảng khoái đôi chút?”
Quá Sơn Hổ do dự một hồi: “Các huynh đệ muốn giải trí cũng được, nhưng nhất định không được gây hỏng chuyện. Nếu nữ nhân này có mệnh hệ gì, Nam Cung lão nhi chắc chắn không tha cho chúng ta.”
Đám phỉ đồ mau mắn gật đầu đồng ý, kẻ nóng ruột mở bao vải, thả Thư Á Nam đang khiếp đảm bên trong ra, kẻ khác lại tháo xích trên cổ nàng xuống. Thư Á Nam nhìn những cặp mắt hau háu của chúng, biết mình đã rơi vào giữa bầy sói, nàng chợt rùng mình, cất giọng hô lớn cứu mạng theo bản năng, mong rằng có người nghe thấy tiếng kêu cứu của nàng.
Đám phỉ đồ không hề để tâm đến tiếng kêu của Thư Á Nam, một tên đắc ý cười nói: “Đây là nơi hoang vu hẻo lánh, ngươi có kêu khản tiếng cũng không ai cứu đâu. Đại gia đây lại thích ngươi cứ gọi lớn hết sức vào, không kêu thì không hay rồi.”
Đám phỉ đồ buông tiếng cười khoái trá, mười mấy bàn tay háo sắc đưa về phía Thư Á Nam. Thư Á Nam lấy hết sức bình sinh kháng cự, giãy giụa cũng không thể nào thoát được lũ sói đói hung ác này, đương khi lòng đã tuyệt vọng thì bất ngờ nghe thấy một tiếng quát lạnh tanh cách đó không xa: “Thả cô nương ấy ra!”
Tiếng quát không lớn, nhưng rót từng chữ rành mạch vào tai đám phỉ đồ. Chúng quay lại nhìn, thấy một hắc y nhân đứng trong khu rừng cách chúng vài trượng, chắp tay quay lưng lại với chúng. Vừa rồi đám phỉ đồ dồn hết sự chú ý vào Thư Á Nam, không hề phát giác hắc y nhân xuất hiện từ lúc nào.
“Kẻ nào dám làm hỏng chuyện tốt của bọn ta? Con mẹ ngươi chán sống rồi à?” Một tên phỉ đồ xẵng giọng chửi bước lên trước, nhìn thấy đối phương để hở nguyên mảng lưng, những tưởng có thể thừa cơ đắc thủ, gã bèn lập tức xuất thủ tung một chưởng. Chẳng ngờ quyền phong còn chưa kịp chạm đến áo hắc y nhân, cả thân hình to lớn của gã đã bị bắn thẳng vào đống lửa, ngọn lửa tắt lịm. Gã đau đớn nhảy giẫy lên, lăn lộn trên đất, đám phỉ đồ giúp gã dập lửa trên người, quang cảnh trở nên hỗn loạn.
Quá Sơn Hổ nheo mắt dò xét hắc y nhân, y vẫn xoay lưng như cũ, tựa hồ chưa từng động thủ, nhưng ban nãy gã nhìn rõ, hắc y nhân đã tiện tay phất một chưởng về sau, đẩy tên đại hán nặng gần trăm cân bay trúng vào đống lửa. Quá Sơn Hổ tự nhủ để quay lưng đánh ngã tên thủ hạ kia không khó, khó ở chỗ có thể nhẹ nhàng như không quăng trúng gã vào đống lửa không sai một li. Quá Sơn Hổ thầm hiểu hôm nay đã gặp phải cao thủ, bất giác chạm vào hổ trảo trứ danh giắt bên hông, chậm rãi hỏi: “Vị bằng hữu này thân thủ khá đấy. Không biết nên xưng hô thế nào? Có thể xoay người lại để Ba Mãnh ta làm quen?”
Hắc y nhân vẫn không quay người, chỉ lạnh lùng đáp: “Lập tức biến mất sau lưng ta, nếu không… hừ!”
Quá Sơn Hổ không ngờ y nghe thấy tên mình vẫn không động thanh sắc, gã cũng được xem như nhân vật có tiếng tung hoành giang hồ bao năm, vốn chưa từng bị khinh thị như vậy. Quá Sơn Hổ liền đưa mắt ra hiệu cho mấy tên thủ hạ, chúng lập tức bủa tới, rút ra đủ loại vũ khí âm thầm đâm tới giữa lưng hắc y nhân.
Hắc y nhân như có mắt phía sau, y lách người tránh thanh quỷ đầu đao, xoay lưng đảo tay đoạt lấy thanh đoản đao đâm tới. Theo ánh sáng lấp loáng của cây đao, mấy tên phỉ đồ đánh lén ôm chặt cổ tay mình thất thanh kêu đau đớn, vũ khí của chúng lần lượt rơi xuống. Chỉ thoáng chốc kẻ nào kẻ nấy đã bị chém thương cổ tay, không cầm nổi vũ khí.
Quá Sơn Hổ khẽ quát một tiếng, hổ trảo bên hông xuất thủ, nhân lúc hắc y nhân ứng phó với đợt đánh lén, hổ trảo đã im tiếng phóng tới mấy trượng, nhắm đúng mắt cá chân của hắc y nhân. Đôi hổ trảo ngắn làm bằng thép tinh luyện nối liền bằng xích, mỗi ngón đều có thể co gập dễ dàng, một khi dính vào cơ thể hoặc vũ khí của đối thủ sẽ tự động khóa chặt. Không biết bao nhiêu người đã táng mạng dưới đôi hổ trảo của gã. Đây là vũ khí kỳ môn giúp Quá Sơn Hổ thành danh trên giang hồ, ai nghe tên cũng hồn bay phách lạc.
Hắc y nhân tung người nhảy lên một bước né khỏi hổ trảo, bổ tới Quá Sơn Hổ trong khi lưng vẫn xoay về phía gã. Quá Sơn Hổ đã lăn lộn trên giang hồ nhiều năm nhưng chưa từng chứng kiến thậm chí nghe nói có loại võ công nào quay lưng đối địch. Gã muốn lui lại cũng đã muộn, chỉ thấy ánh đao vụt lóe, trủy thủ của hắc y nhân xoay ngược lại đâm tới yết hầu gã. Quá Sơn Hổ dũng mãnh xuất chiêu phản kích, nhằm lưỡng bại câu thương, hổ trảo đánh thẳng vào gáy hắc y nhân. Đúng lúc hổ trảo chạm vào áo hắc y nhân, ngọn trủy thủ lạnh thấu xương của y cũng dừng ngay ở yết hầu gã.
Khoảnh khắc này, Quá Sơn Hổ cảm thấy rõ rệt nỗi sợ hãi trước cái chết. Đôi hổ trảo trên tay gã không dám manh động, gã nhìn gáy hắc y nhân, không cam lòng rít lên hỏi: “Ngươi là ai? Tại sao không quay đầu?”
Hắc y nhân xoay cổ tay, trủy thủ lướt qua má Quá Sơn Hổ, sau đó lạnh lùng đáp: “Ngươi không xứng được biết.”
Thứ chất lỏng ấm nóng chảy xuống má Quá Sơn Hổ, cuống tai gã đau rát dữ dội. Nơi đó hiện tại chỉ là một mảng máu thịt bầy nhầy. Quá Sơn Hổ không để ý chiếc tai đã mất, gã nhìn hắc y nhân hằn học nói: “Ngươi không giết ta, Ba mỗ sẽ có ngày báo mối thù cắt tai này!” Đoạn gã xoay người phóng đi, trong chốc lát, đám phỉ đồ đã bỏ chạy sạch bách.
Hắc y nhân ném trủy thủ trong tay xuống đất, định rời đi thì nghe tiếng gọi khẽ sau lưng: “Đợi đã!”
Hắc y nhân y lời dừng bước, nhưng vẫn không quay đầu. Sau lưng vang lên giọng Thư Á Nam: “Tại sao không quay đầu lại?”
Áo quần trên người hắc y nhân hơi rung rinh, nhưng y vẫn lặng im không đáp. Thư Á Nam gằn giọng nói: “Huynh tưởng rằng không quay đầu, ta sẽ không biết huynh là ai? Tuy huynh đã cố tình giấu giọng nói của mình, đến vũ khí độc môn gia truyền cũng không dùng, nhưng sao có thể giấu nổi ta? Chúng ta nếu đã là người xa lạ, tại sao huynh lại cứu ta?”
Hắc y nhân im lặng hồi lâu, cuối cùng chua chát đáp: “Đường phía trước còn nhiều nguy hiểm, ta sẽ đưa cô nương đến Lạc Dương.”
“Ta không cần!” Thư Á Nam giận dữ quát: “Hiện giờ bất luận huynh làm gì cũng không thể giảm bớt lòng thù hận của ta với huynh! Ta không muốn nhận bất cứ ân huệ nào của huynh, ta quyết không bao giờ mơ mộng nữa!”
Dứt lời, Thư Á Nam quay người chạy thẳng vào rừng như muốn chạy trốn. Hắc y nhân thoáng chần chừ, bất đắc dĩ đành quay đầu đuổi theo, thấy Thư Á Nam chạy khỏi rừng, lao thẳng về phía ven sông rồi nhảy vào nước.
Hắc y nhân đuổi tới bên bờ sông, không kìm được giậm chân bình bịch. Chàng từng nói với Á Nam, hồi nhỏ suýt chết đuối nên rất sợ nước. Không ngờ nhược điểm của mình lại bị nàng tận dụng để trốn tránh. Chàng chỉ biết thở dài, tiếp tục đuổi ven theo sông về phía hạ lưu…
Thư Á Nam từ nhỏ chơi cùng đám hán tử, vừa nhảy xuống nước đã bơi như cá, nhưng nàng không bơi xa mà chỉ nấp sau phiến đá nhô gần bờ. Thư Á Nam nghe hắc y nhân đuổi theo ven sông gọi mãi tên mình, nước mắt lại ứa ra, nhưng nàng kiên quyết cảnh cáo bản thân: “Thư Á Nam! Ngươi nhận tội vì y, chịu hình phạt vì y, trao hết tình cảm cho y, nhưng y lại phản bội lời thề của mình. Bây giờ ngươi không cần bất cứ ai thương xót! Ngươi phải mạnh mẽ lên, từ nay về sau, ngươi không thể giao vận mệnh mình cho bất cứ ai, ngươi nhất định phải dựa vào chính bản thân mình!”
Mãi đến lúc không còn nghe thấy tiếng y, Thư Á Nam mới chịu nhảy lên bờ. Do dự giây lát, nàng quyết định chọn hướng ngược lại với hắc y nhân, chạy nhanh như bay.
Trời vừa tờ mờ sáng, Thư Á Nam đến một thị trấn nhỏ không rõ tên. Qua một đêm tốc hành, nàng vừa đói vừa mệt. Những quán điểm tâm trên phố lúc này đang tấp nập nhộn nhịp, nào là mì, phở, bánh bao, cháo… Mùi thức ăn thơm lừng không ngừng thách thức khứu giác khiến bụng Thư Á Nam sôi ùng ục. Nàng sờ vào bên hông mới phát hiện ngân lượng do các tiêu đầu tặng đã mất sạch từ lúc nào, Thư Á Nam chỉ biết nhìn những món điểm tâm ấy mà nuốt nước miếng.
“Cô nương bị làm sao thế?” Phía sau lưng chợt vang lên tiếng hỏi han ân cần. Thư Á Nam quay đầu lại thì thấy một người đàn bà tuổi quá ngũ tuần đang nhìn nàng bằng ánh mắt lạ lẫm. Bà ta mặc trường bào trắng, môi mỏng, lông mày rậm rì lộn xộn, nhưng ánh mắt lại hiền từ tạo cảm giác yên lòng. Thư Á Nam thấy người đàn bà đó nhìn mình mới nhận ra trên người nàng lúc này quần áo rách rưới, ướt nhẹp rất khó coi, chẳng trách người xung quanh thấy kỳ quái. Nàng không dám tiết lộ thân phận phạm nhân của mình, chần chừ giây lát rồi đành nói dối: “Tiểu nữ vốn cùng cha đi Hàng Châu thăm thân thích, chẳng ngờ trên đường gặp phỉ đồ đành phải nhảy xuống sông chạy trốn, trong lúc cuống quá chạy tới đây, không chỉ lạc cha mà còn mất hết ngân lượng mang theo người.”
“Đáng thương quá!” Người đàn bà ấy thở dài, cởi áo bào trên mình khoác lên người Thư Á Nam: “Thời tiết này mà mặc áo ướt, cẩn thận bị cảm lạnh đấy. Cô nương chắc là đói rồi?”
Thư Á Nam vốn định từ chối sự quan tâm của bà, nhưng bụng đánh trống liên hồi, nàng đỏ mặt gật đầu. Người đàn bà vội kéo nàng tới một tiệm ăn, vừa gọi tiểu nhị đưa món, vừa nói với Thư Á Nam: “Tướng công lão thân họ Mã, đứng thứ ba trong nhà, nên mọi người gọi ta là Mã tam nương. Nghe giọng cũng biết cô nương là người Dương Châu, nhà tướng công ta cũng ở Dương Châu, cho nên nghe giọng cô nương liền thấy rất thân thiết. Đúng rồi, không biết nên xưng hô với cô nương thế nào?”
Thư Á Nam đang định nói tên thật, chợt nhớ ra mình là phạm nhân, hiện đang thất lạc hai quan sai áp giải, chắc chắn đã thành đào phạm bị quan phủ truy nã. Nàng không dám báo tên thật của mình, đành buột miệng đáp: “Tiểu nữ tên Thư Lan, tam nương gọi tiểu nữ A Lan là được.”
” A Lan? Sao trùng hợp thế, cùng tên với tiểu nữ nhà ta!” Mã tam nương vỗ tay hớn hở nói, ánh mắt nhìn Thư Á Nam càng thân thiết hơn mấy phần. “Trời đã cuối thu, cô nương mặc áo ướt thế này sao được? Đợi ăn xong, tam nương đưa cô đến tiệm lụa mua mấy bộ quần áo mới mặc, không để bị phong hàn thì phiền lắm.”
Thư Á Nam ngại ngùng lắc đầu: “Đa tạ tam nương, tiếc rằng tiểu nữ hiện không còn một xu trên người.”
Mã tam nương bèn đáp: “Tam nương có mà! Lão thân thấy cô nương cũng là khuê nữ nhà khá giả, không phải hạng thiếu tiền. Lão thân trả trước, đợi lúc nào cô nương có tiền trả lại ta cũng không muộn.”
Tuy vốn không quen biết, nhưng sự thân thiện của Mã tam nương khiến Thư Á Nam tự nhiên nảy sinh cảm giác gần gũi. Nàng thầm lấy làm may vì gặp được một người nhiệt tình có lòng như Mã tam nương, cảm kích đáp lại: “Vậy đa tạ tam nương!”
Dùng xong bữa, bụng đã no, tinh thần cũng tỉnh táo trở lại. Mã tam nương vui vẻ kéo tay Thư Á Nam: “Con gái, gặp tam nương coi như có duyên, nếu con không chê thì hãy xem ta là mẹ nuôi nhé.”
Thư Á Nam thấy Mã tam nương chỉ là người đàn bà thôn quê, nhưng tính tình hào sảng không bày vẽ, khiến người ta quý mến, bất giác đỏ mặt đáp: “Vậy thì A Lan trèo cao rồi.”
“Trèo cao cái gì, con gái còn nói như vậy, tam nương sẽ giận đấy!” Mã tam nương mặt mày rạng rỡ, hào hứng kéo Thư Á Nam đi về phía trước. Trời lúc này đã sáng tỏ, các tiệm hàng hóa bên đường đang lục tục mở cửa. Mã tam nương đưa Thư Á Nam đến một tiệm lụa tên Cẩm Tú Nguyên, vừa vào cửa đã cao giọng gọi chưởng quầy: “Mau lấy súc lụa đẹp nhất của ông ra đây, lão thân muốn mua vài súc lụa tốt cho con gái ta may đồ!”
Chưởng quầy vội vàng chạy tới chào mời, đưa Mã tam nương đi xem từng súc lụa, Mã tam nương chỉ lắc đầu: “Tiệm lụa to như thế này sao toàn hàng ngoài chợ thế? Muốn mua vài súc lụa đẹp chút cũng không có.”
Chưởng quầy vội đáp: “Bên trong tiệm chúng ta còn một súc gấm bảy màu, là cống phẩm cho hoàng gia. Phu nhân chắc chắn sẽ thích, có điều giá tiền hơi cao.”
“Giá tiền không thành vấn đề, chỉ cần con gái ta thích.” Mã tam nương đang định theo chưởng quầy vào trong, chợt thấy Thư Á Nam vẫn mặc áo ướt đứng đó, vội nói: “Con gái, con chọn tạm bộ quần áo thay đi, đợi lát nữa tính tiền cả thể.”
Tiệm lụa có không ít quần áo may sẵn, tên tiểu nhị trong tiệm ân cần chào mời, Thư Á Nam chọn được bộ quần áo sạch sẽ, bước vào phòng thử thay đồ mới, nhìn trong gương thấy khá vừa vặn. Nàng dọn đồ cẩn thận rồi bước ra ngoài, chưởng quầy và tiểu nhị đã đứng đợi ngoài cửa, hai người kẻ tung người hứng khen không ngớt lời, bộ dạng đon đả cung kính. Thư Á Nam tâm trạng vui vẻ, thuận miệng hỏi: “Bao nhiêu tiền?”
Chưởng quầy lập tức lấy bàn tính lách cách một chập, sau đó đưa bàn tính đến trước mặt Thư Á Nam: “Tổng cộng ba mươi lăm lượng bảy tiền.”
“Ba… Ba mươi lăm lượng bảy?” Thư Á Nam thất kinh há hốc miệng, quần áo tốt nhất mà nàng từng mặc cũng chỉ mới năm lượng, là gấm cống phẩm thực sự được phụ thân nàng mua về từ Ngự Tú Trang ở Bắc Kinh! Nàng chưa từng nghe có bộ quần áo nào đắt tới hơn ba mươi lượng. Nhìn bộ quần áo đang mặc trên người thế nào cũng không đáng một, hai lượng bạc. Nàng trầm giọng hỏi: “Tại sao lại đắt thế?”
“Cô nương, chúng ta là tiệm bán lâu đời, không dám bán giá cao cho cô nương.” Chưởng quầy đầy vẻ oan ức, lấy bàn tính lách tách tính lại: “Một súc gấm bảy màu ba mươi lượng, một khăn lông cáo năm lượng, bộ quần áo cô nương đang mặc giá bảy tiền. Hiếm khi vừa mở cửa đã gặp khách quý như cô nương, bộ quần áo này coi như ta tặng cô nương. Chỉ cần trả ba mươi lăm lượng cho gấm bảy màu và khăn lông cáo kia là được, không thể bớt hơn đâu.”
Thư Á Nam chợt thấy bất an, nàng nhìn quanh tứ phía: “Mã tam nương đâu?”
“Mẹ cô nương đã cầm súc gấm và khăn lông cáo đi trước rồi.” Chưởng quầy vội nói: “Bà ấy dặn cô mua xong quần áo thì đến chỗ lão Tiêu thợ may, bà ấy đợi cô nương lấy số đo may đồ đấy.”
“Mẹ ta? Bà ấy không phải mẹ ta!” Thư Á Nam vội vàng phân trần.
“Bà ấy mở miệng là gọi con gái, cô nương cũng luôn dạ thưa, sao lại không phải mẹ cô nương?” Chưởng quầy sa sầm sắc mặt.
Thư Á Nam chợt nhận ra mình đã rơi vào bẫy, nàng muốn giải thích nhưng dù thế nào cũng không thể nói rõ. Thư Á Nam định trả lại quần áo cho chưởng quầy, nhưng bộ quần áo ướt vừa rồi đã bị tiểu nhị xem như rác vứt đi đâu không biết, giờ sao có thể trả lại?
Chưởng quầy săm soi nét mặt Thư Á Nam, biết rằng có chuyện không ổn, liền đưa mắt với tiểu nhị. Tên tiểu nhị hiểu ý chặn cửa, cặp mắt hằn học nhìn Thư Á Nam như thấy cướp.
Thư Á Nam hoang mang nhìn xung quanh, cuối cùng đành cúi đầu đáp: “Chưởng quầy, thật không dám giấu, ta và Mã tam nương vừa mới quen chưa đầy một canh giờ. Ta không hề biết bà ta lấy đồ gì đi, là bà ta bảo mua cho ta mấy bộ quần áo nên ta mới theo tới đây. Ta hiện không có một đồng trên người, bộ quần áo này cũng không thể nào trả lại ông, nhưng ông hãy tạm thời ghi sổ, ta sẽ nhanh chóng trả lại tiền bộ quần áo này cho ông.”
Chưởng quầy cuống lên, giữ chặt Thư Á Nam: “Vừa quen chưa đầy một canh giờ, nói mua quần áo cho mà ngươi cũng tin à? Ngươi lừa ai thế? Bộ quần áo này ta tặng không cho ngươi cũng được, nhưng ngươi phải trả lại ta súc gấm bảy màu và khăn lông cáo, nếu không ta bắt ngươi đi gặp quan phủ!”
Thư Á Nam thầm hiểu mình đã rơi vào bẫy, gặp quan phủ cũng khó biện bạch, thậm chí còn lộ thân phận đào phạm. Nàng sợ hãi đẩy chưởng quầy, xoay người lách qua tiểu nhị rồi vắt chân chạy ra ngoài. Trước tình hình này cũng chỉ có chạy là thượng sách.
Chưởng quầy không giữ được Thư Á Nam, lão ngồi sụp xuống đất, òa khóc tức tưởi: “Xong rồi, hết rồi! Thương ta trên có mẹ già dưới có con nhỏ, lần này mất hết vốn rồi, ta làm sao mà sống được đây.”
Thư Á Nam vốn đã chạy xa, nhưng tiếng than khóc của chưởng quầy như cây kim xuyên qua tai rồi đâm thẳng vào tim nàng. Thư Á Nam đành chậm bước rồi dừng hẳn lại, cúi đầu do dự một lát, cuối cùng giậm chân quay trở lại tiệm lụa, dứt khoát nói với chưởng quầy: “Chưởng quầy, những lời ta nói vừa rồi đều là sự thực. Tuy tổn thất của ông không phải do ta, nhưng ta cũng không thoát nổi liên quan, ta bằng lòng chịu trách nhiệm vì sai sót của mình. Có điều hiện tại ta không còn tiền, chỉ có thể làm công trả nợ trong tiệm của ông.”
Chưởng quầy giậm chân đấm ngực khóc lóc: “Ngươi có làm một trăm năm cũng không trả hết được ba mươi lăm lượng đâu!”
“Vậy ông nói phải làm thế nào?” Thư Á Nam hết cách đành hỏi.
Chưởng quầy càng lúc càng bi thương, chỉ biết khóc gào. Thư Á Nam vô cùng khó chịu, nhưng nghĩ đến việc người ta vì mình mới trúng kế, nói ra nàng cũng vô tình biến thành tòng phạm, dù thế nào cũng phải chịu trách nhiệm chuyện này. Nếu như ngày trước, ba mươi lăm lượng tuy không phải con số nhỏ, nhưng cũng không đáng gì với nàng, hiện tại thì đứng là một văn tiền cũng ép chết anh hùng.
Tiểu nhị ở bên cạnh không khuyên nổi chưởng quầy, chợt nói: “Ngày trước chẳng phải có Phúc vương phủ đến chỗ chúng ta mua a hoàn sao? Hay là để cô nương này đi thử xem?”
“Thế sao được!” Chưởng quầy đùng đùng nổi giận, “Ngươi đừng đưa chủ ý ngu ngốc ấy!”
Thư Á Nam thấy hai người nói chuyện lồ lộ, vội hỏi: “Là chủ ý gì, tiểu nhị ca cứ nói ra xem.”
Tiểu nhị thấy chưởng quầy không ngăn mới nói: “Ngày trước có tổng quản của Phúc vương phủ đến vùng Giang Chiết chúng ta mua a hoàn, ra giá ba mươi lượng, ký khế ước bán thân trong năm năm. Rất nhiều nhà chỗ chúng ta đều đưa con gái mình đến đó, không phải vì tham chút tiền ấy, mà là muốn cho con gái mình một tiền đồ mới. Nhưng điều kiện vương phủ rất khắt khe, không phải ai cũng đạt. Cô nương thử đi xem, nếu may mắn được chọn, lập tức có thể nhận tiền bán thân ba mươi lượng.”
Thư Á Nam nghe xong đang định nổi trận lôi đình thì chưởng quầy đã cho tên tiểu nhị một cái bạt tai, “Tên khốn kiếp nhà người! Lại bắt cô nương đây bán thân làm nô tỳ! Tuy cô ấy hại chúng ta mất súc gấm bảy màu, nhưng ngươi cũng không thể hại người ta như thế chứ!”
Tiểu nhị ôm má tiu nghỉu đáp: “Chẳng phải vì cùng đường hay sao. Hơn nữa làm a hoàn trong vương phủ cũng chẳng phải chuyện gì mất mặt, bao nhiêu người đưa tiền đưa lễ tới mong nhét được con gái vào đó đấy ạ.”
“Ngươi đừng nói nữa!” Chưởng quầy quát lớn, rồi tiếp tục đấm ngực khóc: “Chỉ trách ta có mắt không tròng, để người ta lừa lọc. Thôi cứ để cả nhà ta già trẻ lớn bé ra đường hành khất đi, đừng hại cô nương này. Ôi đứa con gái vừa mới ra đời đáng thương của ta ơi!”
“Được! Ta đi!” Thư Á Nam đột nhiên giậm chân nói: “Ta bằng lòng bán thân làm nô tỳ để trả lại ba mươi lượng bạc bị lừa cho ông.”
Thư Á Nam đã có chủ ý, chỉ cần lấy được ba mươi lượng bạc bán thân, nàng có thể thoát khỏi đó bất cứ lúc nào. Vương phủ mất đi một a hoàn trị giá ba mươi lượng còn tốt hơn để một tiệm lụa vì mất hàng mà phải đóng cửa lỗ vốn.
Chưởng quầy vui mừng ra mặt: “Cô nương có tấm lòng như vậy thì hãy lập tức theo ta đi Hàng Châu!”