Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 33

10

Chia

tay

Miếu Dược Vương phía Tây thành khá nhỏ và hẻo lánh, phụng thờ Thần Nông, người đã đi khắp nơi nếm bách thảo, tuy Thần Nông có địa vị tối cao trong truyền thuyết, nhưng ngài không thể giúp người ta thăng quan tiến chức, cũng không thể phổ độ chúng sinh như Quán Âm Bồ Tát, bởi vậy hương hỏa trong miếu Dược Vương luôn thưa thớt lạnh tanh. Chỉ có những người thân mang trọng bệnh, thầy thuốc với Quán Âm đều bó tay, mới nghĩ đến việc tới lễ bái Dược Vương. Vừa hay hôm nay là ngày thần đản Dược Vương, sáng sớm đã có tiểu thương chào mời buôn bán ở ngoài cửa miếu, thậm chí mấy kẻ bôn tẩu giang hồ bán thuốc tăng lực cũng tới góp vui khiến ngôi miếu Dược Vương nhỏ bé thoắt chốc náo nhiệt lạ thường.

Mặt trời lên cao quá ba con sào, một chiếc xe ngựa sang trọng chầm chậm dừng trước miếu Dược Vương, thiếu phụ mặc áo gấm bế một đứa bé xuống xe, đám đông ngoài miếu tò mò đổ dồn mắt nhìn, hai gia nô đi theo vội đuổi mấy người bán rong để lấy đường, thiếu phụ lúc này mới cùng a hoàn và nhũ mẫu vào miếu.

Trong miếu cũng có nhiều thiện nam tín nữ, nên khá đông đúc xô bồ. Hai gia nô thô bạo đẩy người, rốt cuộc cũng đưa được thiếu phụ vào điện Dược Vương, đồng thời đuổi sạch người khác ra ngoài.

Thiếu phụ giao đứa bé cho nhũ mẫu, sau đó dâng hương, dập đầu rồi xin quẻ. Nàng đem quẻ rút được đưa cho lão hòa thượng giải quẻ, lão hòa thượng lập tức nhíu chặt mày, hồi lâu không nói. Nàng bất giác lo lắng hỏi: “Đại sư, quẻ này có gì không ổn ư?”

“Đứa bé này có phải vừa sinh ra cơ thể đã suy nhược nhiều bệnh?” Lão hòa thượng hỏi.

“Đúng là như vậy, cho nên thiếp thân mới đưa nó đến bái Dược Vương, hy vọng nó có thể khỏe mạnh khôn lớn.” Thiếu phụ liền đáp.

Lão hòa thượng thở dài: “Kiếp nạn của đứa bé này e rằng không phải bái Dược Vương là có thể giải được.”

Thiếu phụ nghe vậy sợ hãi hỏi: “Con ta có kiếp nạn gì?”

Lão hòa thượng thoáng do dự, thấp giọng nói: “Phụ thân của đứa bé này đã gây ra không ít nghiệt nợ, vốn định sẵn tuyệt hậu, chẳng ngờ đứa bé này cứng số lại ra đời nghịch thiên mệnh. Nghiệt cha chắc chắn sẽ giáng lên người nó, cho nên đời này còn gặp nhiều kiếp nạn.”

Lão hòa thượng nói vẻn vẹn mấy câu, nhưng chẳng sai chút nào, thiếu phụ lập tức hai mắt ngấn lệ, lo sợ nói: “Xin đại sư chỉ điểm, làm thế nào mới có thể hóa giải kiếp nạn của con trai ta?”

Lão hòa thượng trầm ngâm chốc lát rồi than: “Không phải hết cách, chỉ sợ phu nhân không nỡ.”

“Cách gì?” thiếu phụ vội hỏi.

Lão hòa thượng nghiêm nét mặt nói: “Chỉ có cách đưa đứa bé này vào không môn tu hành ba năm, dựa vào ngã Phật từ bi hóa giải nghiệt nợ trên người nó.” Thấy thiếu phụ biến sắc, lão hòa thượng lại nói thêm: “Nhưng bây giờ nó vẫn còn nhỏ, chắc người làm mẹ như phu nhân cũng không nỡ. Lão nạp có thể làm lễ xuống tóc cho đứa bé này trước, để nó có thân phận đệ tử Phật Môn, có Phật tổ phù hộ, tất cả nghiệt nợ đều có thể tạm miễn. Đợi nó tròn sáu tuổi hãy đưa tới miếu tu hành đi.”

Đưa con cái vào không môn tu hành dăm ba năm, nhờ công đức Phật Môn để tránh tà quỷ xâm phạm đứa trẻ không phải chuyện hiếm ở các hộ lớn. Thiếu phụ thở phào, ngập ngừng nói: “Chỉ cần ghi danh ở Phật Môn trước là được ư?”

Lão hòa thượng gật đầu: “Sau khi làm lễ xuống tóc thì sẽ là đệ tử Phật Môn, tất cả nghiệt nợ đều có thể tạm miễn.”

Thiếu phụ sau thoáng do dự, hạ quyết tâm nói: “Xin đại sư xuống tóc cho con trai ta, thiếp thân sẽ quyên công đức thật hào phóng cho quý tự để báo đại ân!” Nói đoạn, thiếu phụ gỡ chiếc vòng vàng trên tay, hai tay dâng tới trước mặt lão hòa thượng, chẳng ngờ lão hòa thượng sa sầm mặt, nghiêm nghị nói: “Xin phu nhân hãy về đi, con của phu nhân lão nạp không dám thu nhận.”

“Tại sao?” thiếu phụ vội hỏi. Lão hòa thượng trầm giọng nói: “Nếu lão nạp thu nhận con của phu nhân, người khác sẽ tưởng rằng lão nạp tham tiền tài của phu nhân. Hơn nữa đệ tử Phật Môn nhận kim ngân cũng là tạo nghiệt cho mình, lẽ nào phu nhân muốn lão nạp vạn kiếp bất phục?”

Thiếu phụ đành thu lại vòng tay, áy náy nói: “Đại sư thứ tội, thiếp thân phải làm sao để báo đáp ân điển của đại sư?”

“Chỉ cần phu nhân có tấm lòng hướng thiện, như vậy là báo đáp lớn nhất rồi.” Lão hòa thượng cười nói. Thiếu phụ vội dập đầu, ra hiệu cho nhũ mẫu: “Vậy xin đại sư xuống tóc cho con trai ta đi!”

Nhũ mẫu vốn cho rằng lão hòa thượng là kẻ lừa đảo, nói lời hung hiểm như vậy là để gạt tiền phu nhân, giờ thấy lão không thu một đồng thì lấy làm kinh ngạc, đành bế đứa bé qua. Lão hòa thượng ra hiệu cho một tiểu sa di đón lấy đứa bé, đoạn nói với thiếu phụ: “Hôm nay vừa hay là ngày tốt, lão nạp sẽ đến hậu đường xuống tóc cho nó.”

Thiếu phụ toan theo vào, lão hòa thượng lại nói: “Phật Môn làm lễ xuống tóc thu nhận đệ tử, không thể có tục nhân quấy rầy, phu nhân hãy tạm thời đợi ở đây, lão nạp xuống tóc cho quý công tử xong lập tức sẽ đưa ra.”

Thiếu phụ cũng biết đó là quy tắc của Phật Môn nên đành chờ ở trong điện. Chẳng ngờ đợi mãi không thấy lão hòa thượng đưa đứa trẻ ra. Nàng đột nhiên bừng tỉnh, bất chấp tiểu sa di ngăn cản, lao thẳng vào hậu đường. Bên trong hậu đường không bóng người, lão hòa thượng và đứa bé không biết đã đi về hướng nào.

Thiếu phụ mềm nhũn người thiếu chút ngã quỵ, vội nói với nhũ mẫu và a hoàn: “Mau gọi A Phúc, A Lộc vào đây, hòa thượng đó bắt cóc con trai ta rồi!”

A Phúc, A Lộc là hai gia nô tháp tùng, thân thủ cũng không kém cỏi. Hai người vội vào hậu đường lục soát, không tìm thấy lão hòa thượng và đứa trẻ, nhưng phát hiện có hai hòa thượng lạ mặt đang bị trói dưới chân giường, miệng nhét vải. Họ giật vải trong miệng hai hòa thượng ra, rít giọng quát hỏi: “Lừa trọc! Các ngươi giấu thiếu gia nhà ta đi đâu rồi?”

Hai hòa thượng ngẩn mặt, một người trông già dặn hơn vội đáp: “Đêm qua hai chúng ta bị người ta đánh ngất, không biết đã xảy ra chuyện gì.”

Thiếu phụ nghe vậy chực ngất xỉu, bất giác lẩm bẩm: “Là huynh ấy! Nhất định là huynh ấy làm!”

“Phu nhân, là ai làm?” A Lộc, A Phúc vội hỏi. Thiếu phụ không đáp lại chạy như bay ra ngoài cửa miếu, nhao nhác nhìn quanh, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở một kẻ bán dạo đồ ăn vặt ngoài miếu. Nàng nhấc váy lao tới hất chiếc nón lá trên đầu tên bán dạo, để lộ ra khuôn mặt quen thuộc dưới lớp nón, quả nhiên chính là người nàng mãi mãi không thể nào quên!

“Trả con cho ta, mau trả con cho ta!” Thiếu phụ vừa khóc vừa đánh thùm thụp vào ngực gã bán dạo, sau đó lại không kìm được gục vào lòng gã gào khóc: “Nếu huynh đã đi rồi, tại sao còn trở về?”

Không nói cũng biết, tên bán dạo chính là Vân Tương giả trang, điều khiển lão thiên bắt cóc đứa trẻ. Gã không thể nào ngờ mình lại bị “kẻ thù” nhận ra trong thoáng chốc. Gã đã đánh giá thấp trực giác của nữ nhân, đặc biệt đánh giá thấp những ký ức về gã trong lòng nữ tử này. Dù gã có che kín mặt, trốn giữa nhiều người bán rong khác cũng không tài nào thoát khỏi cặp mắt của nàng. Gã mặc cho nàng ôm lấy tấm thân cứng đờ của mình, vẻ mặt phức tạp lạnh lùng nói: “Muội biết tại sao ta lại trở về mà.”

Thiếu phụ lập tức đẩy mạnh ngực gã rồi kéo tay áo gã, van xin: “Ta biết huynh muốn báo thù, nhưng huynh không thể làm hại con của ta! Mau trả con lại cho ta đi, xin huynh đấy!”

Vân Tương lạnh lùng lắc đầu, thiếu phụ bất giác lạc giọng trách cứ: “Tại sao huynh lại nhẫn tâm như vậy? Từ nhỏ đến lớn, huynh lúc nào cũng nhường nhịn ta, yêu thương ta, chưa từng khiến ta phải chịu ấm ức, tại sao bây giờ lại cướp con ta?”

Vân Tương lạnh lẽo đáp: “Vì tên tú tài ngu xuẩn mà muội quen đã chết từ lâu rồi!”

Hai người còn đang giằng co, A Phúc, A Lộc đã lao bổ tới, vung đao chém về phía Vân Tương, miệng quát: “Phu nhân tránh ra, để A Lộc bắt y.”

Hai tên vừa động thủ, một lão già bên cạnh đã vụt người tới chắn trước mặt Vân Tương, tay không chống đỡ A Phúc, A Lộc. Lão già vừa đánh vừa hô lớn: “Công tử mau đi đi!”

Vân Tương bị thiếu phụ níu chặt, nhất thời không thể thoát thân, một lão thiên giả thành người bán rong thấy vậy bèn nhấc đồn gánh quật vào giữa lưng thiếu phụ, miệng quát: “Buông tay!”

Vân Tương muốn quát ngăn thì đã muộn, vội lấy thân mình che cho thiếu phụ. Tên bán rong không kịp trở tay, chiếc đòn gánh chắc nịch đánh thẳng vào lưng Vân Tương. Gã đau nhũn người, lại càng bị thiếu phụ ôm chặt. Tên bán rong vội vứt đòn gánh tách hai người ra nhưng không sao cậy nổi tay thiếu phụ.

Cục diện hiện tại rối loạn, A Phúc, A Lộc thấy võ công lão già cao cường, vội hét lớn: “Phu nhân đừng sợ, chúng tôi đi gọi người đến giúp!” đoạn quay đầu bỏ chạy. Vì đông người hỗn loạn, lão già chỉ đuổi kịp một tên, đánh y ngã gục, tên còn lại đã lẩn vào đám đông chạy biến.

“Công tử mau đi thôi, còn không đi sẽ muộn mất!” Lão già vội lớn tiếng gọi. Đúng lúc này, mấy bổ khoái tức tốc chạy tới, bổ khoái dẫn đầu cao giọng quát từ đằng xa: “Kẻ nào gây chuyện ở đây?”

Lão thiên trước giờ đều sợ quan, vừa thấy vậy liền chạy trốn tán loạn. Lão già vung song chưởng toan đại khai sát giới thì Vân Tương vội quát ngăn: “Tiêu bá không được lỗ mãng, mau lui ra!”

Lão già còn đang do dự liền thấy Vân Tương nháy mắt, nhỏ giọng nói gấp: “Lão đi mau!”

Tiêu Bất Ly lập tức hiểu ý, mau mắn lẩn vào đám người đang xem náo nhiệt. Mấy bổ khoái lập tức bao vây Vân Tương và thiếu phụ, bổ khoái dẫn đầu râu ria xồm xoàm quát: “Có chuyện gì? Còn chưa chịu buông tay? Các người một nam một nữ lôi kéo nhau trước mặt nhiều người thế này thành thể thống gì?”

Thiếu phụ vội nói: “Quan sai đại ca, con ta bị người ta bắt cóc, các ngươi phải đòi lại công bằng cho ta!”

Bổ khoái dẫn đầu nghe vậy, lập tức lấy xích sắt trói Vân Tương, nói với thiếu phụ: “Phu nhân yên tâm, bản bổ đầu sẽ đưa y về nha phủ.” Đoạn y kéo Vân Tương đi thẳng.

Thiếu phụ đành buông Vân Tương theo sau mấy bổ khoái, chẳng ngờ họ đi quá nhanh, rẽ ngoặt mấy lần đã không thấy tăm hơi. Thiếu phụ đành một mình chạy tới nha phủ, hỏi ra mới biết bổ khoái Dương Châu hôm nay không đi tuần tra, nàng ngã khụy xuống đất, vừa lo vừa mệt cuối cùng ngất lịm.

Lại nói tới Vân Tương bị mấy bổ khoái dẫn tới nơi thanh vắng, kích động bước tới nắm chặt tay bổ khoái râu ria xồm xoàm kia hỏi: “Á Nam! Đúng là muội phải không? Thời gian qua muội đã đi đâu? Làm ta lo lắng mãi, không ngờ muội giả trang thành bổ khoái còn giống hơn cả ta.”

Thư Á Nam giằng khỏi tay Vân Tương, nhanh chóng tháo xiềng xích trên người gã, lãnh đạm nói: “Huynh đi mau đi, Nam Cung thế gia mất con sẽ nhanh chóng phong tỏa toàn thành!”

“Còn muội thì sao? Không đi cùng ta à?” Vân Tương vội hỏi. Thư Á Nam né tránh ánh mắt của Vân Tương, giọng nói đều đều: “Ta có các thúc thúc bá bá đây chăm nom, huynh không cần lo lắng.”

Vân Tương tưởng nàng ngại công khai quan hệ với mình trước mặt người quen, đành nói: “Vậy được, ta với Tiêu bá về Kim Lăng trước, đợi muội tới hội hợp.”

Thư Á Nam nhìn theo bóng Vân Tương và Tiêu bá xa dần, nét mặt phức tạp đầy tâm sự. Mấy bổ khoái trút bỏ quan phục, chớp mắt đã biến thành mấy hán tử bình thường, họ đều là huynh đệ sinh tử với phụ thân Thư Chấn Cương của Thư Á Nam lúc sinh tiền. Tuy Bình An tiêu cục đã mất, nhưng họ vẫn xem Thư Á Nam như chủ nhân của tiêu cục. Một hán tử tay trái chỉ còn bốn ngón nhỏ giọng nhắc: “Điệt nữ, chúng ta cũng phải nhanh chóng rời khỏi Dương Châu, đề phòng bất trắc!”

Thư Á Nam gật đầu, nàng lưu luyến quay đầu lại, trút bỏ lớp ngụy trang rồi bước đi. Nhưng hướng nàng đi trái ngược hoàn toàn với hướng Vân Tương.

Cơn phong ba thành Dương Châu lan rộng khắp Giang Nam, đương nhiên cũng lan tới cả Kim Lăng. Nam Cung thế gia đã phát thiệp khẩn trên giang hồ, treo tiền thưởng tới mười vạn lượng chỉ để người biết chuyện cung cấp manh mối về đứa bé. Tiêu bá nghe được tin này liền hấp tấp chạy tới hậu viện, thấy Vân Tương và Minh Châu đang chơi đùa với đứa bé. Nhờ có nhũ mẫu mới, đứa bé sau mấy ngày trời khóc quấy cũng đã dần quen với hoàn cảnh và con người mới.

“Công tử!” Tiêu bá biết Minh Châu mềm lòng, vội kéo Vân Tương sang bên, khẽ giọng nói: “Nam Cung thế gia đã treo thưởng đến mười vạn lượng, cứ tiếp tục như vậy không phải là cách. Chúng ta cần nhanh chóng chấm dứt hy vọng của Nam Cung Thụy.”

Vân Tương hiểu ý Tiêu bá, chỉ có nhanh chóng đưa thi thể đứa bé tới cho Nam Cung Thụy mới có thể chấm dứt hoàn toàn hy vọng của lão, triệt tiêu toàn bộ cơ hội kế thừa gia nghiệp của Nam Cung Phóng. Đây cũng là kế hoạch mà gã và Nam Cung Hào đã vạch ra. Thế nhưng, khi gã bế đứa bé ấy lần đầu tiên, ý định ban đầu lập tức bị dao động. Đây là con trai của người tình đã phản bội gã và kẻ thù hại chết mẫu thân gã, đoạt mất Lạc gia trang, gã vốn dĩ nên thống hận nó. Nhưng khi nhìn khuôn mặt bầu bĩnh của đứa bé, gã không thể nào hận. Khi đứa bé cười với gã, gã đã hạ quyết tâm không thể để sinh mạng nhỏ nhoi vô tội này bị làm hại vì thù hận của đời trước, mượn tay người khác cũng không được!

Tiêu bá thấy gã im lặng hồi lâu không đáp, sốt ruột nói: “Có không ít người tham dự vào hành động lần này, lỡ như kẻ nào thấy lợi quên nghĩa, chúng ta sẽ lập tức xong đời. Mười vạn lượng đấy, có thể khiến nhiều người bán đi cả mẹ ruột mình, công tử tuyệt đối không thể mềm lòng như đàn bà!”

Vân Tương lắc đầu, nghiêm mặt nói: “Đứa bé này vô tội, ta quyết không để nó chịu bất cứ tổn hại nào. Ta đã quyết định, lão không cần nói thêm gì nữa!”

Tiêu bá đi theo Vân Tương bấy lâu, đã quen với tính cách của gã, chuyện một khi đã quyết thì khó mà thay đổi. Lão đành thở dài, nói: “Nếu vậy, chúng ta phải lập tức thay đổi nơi ở, nơi này đã có nhiều người biết, lỡ như bị tiết lộ ra ngoài thì đúng là nguy hiểm.”

Vân Tương trầm mặc hồi lâu, khẽ thở dài nói: “Á Nam còn chưa về, ta rất lo lắng, tại sao nàng ấy lại không đến Kim Lăng hội ngộ với ta?”

Tiêu bá bèn đáp: “Chúng ta có thể để hạ nhân ở đây đợi Thư cô nương, những người khác tạm thời tránh đi. Ta đã tìm được một nơi kín đáo ở ngoại ô, hôm nay có thể chuyển ngay.”

Vân Tương nghĩ một lát rồi gật đầu nói: “Vậy được, chúng ta lập tức rời đi.”

Xế chiều, chiếc xe ngựa chở nhóm người Vân Tương lặng lẽ ra khỏi thành. Để bảo đảm an toàn, Vân Tương và Minh Châu chỉ đem theo đứa bé và nhũ mẫu cùng A Bố trước giờ không biết sủa lên đường, Tiêu bá đích thân đánh xe. Xe ngựa tới vùng hoang vu ở ngoại ô, Tiêu bá đột nhiên quay đầu nói: “Công tử, hình như chúng ta bị theo dõi rồi.”

Vân Tương quay lại nhìn vùng đất hoang vu trống trải, ngờ vực hỏi: “Phía sau không thấy bóng người nào, đâu có ai theo dõi?”

Tiêu bá nghiêm mặt đáp: “Công tử phải tin vào trực giác của một sát thủ.”

Vân Tương thoáng trầm ngâm: “Ta đánh xe tiếp tục đi về phía trước, lão kín tiếng trốn bên đường xem xem, không được đánh rắn động cỏ, chúng ta sẽ gặp lại ở ngã rẽ trước mặt.”

Tiêu bá lặng lẽ xuống xe ngựa, trốn vào lùm cỏ bên đường. Vân Tương đánh xe đi tiếp rồi dừng lại ở ngã rẽ cách đó mấy dặm, không bao lâu sau Tiêu bá đuổi kịp tới, lão hổn hển nói: “Quả nhiên chúng ta bị theo dõi, nhưng không phải người mà là chó.”

“Chó?” Vân Tương thoáng kinh ngạc. Tiêu bá gật đầu: “Không sai, là loại chó săn được huấn luyện, vô cùng nhạy bén, ta vốn định xử lý nó, ai ngờ con súc sinh này tinh quá, ngửi thấy mùi người là chạy, ta không thể nào đến gần nó.”

Vân Tương nghĩ ngợi rồi khẽ vỗ đầu A Bố, chỉ vào bụi cỏ bên đường rồi chỉ về bóng con chó thấp thoáng đằng xa: “A Bố, xử lý nó!”

A Bố hiểu ý, lập tức nhảy xuống xe ngựa trốn vào lùm cỏ. Vân Tương đánh xe đi tiếp, không lâu sau nghe thấy tiếng chó rú thảm phía sau, thêm lát nữa A Bố đã đuổi kịp, miệng nó dính đầy máu và lông chó khiến Minh Châu giật bắn mình.

Cách đó vài dặm ngoài tầm nhìn của xe ngựa, Lận Đông Hải đang dẫn mấy thị vệ thúc ngựa chạy chậm, tiếng kêu thảm của chó săn khiến y giật mình, mau chóng giục ngựa đuổi lên trước, thấy con chó săn quý được người Ngõa Thích huấn luyện đã nằm trong vũng máu, cổ họng bị xé nát, hiển nhiên đã bị một con chó dũng mãnh khác cắn chết. Y thầm than không hay, lập tức thúc ngựa đuổi theo, nhanh chóng phát hiện một chiếc xe ngựa ở vệ đường, có điều bên trong đã không còn ai.

Tiêu bá dẫn đám người Vân Tương theo đường mòn trong rừng rậm đến một thôn trang dưới chân núi. Thôn trang không lớn, chỉ có mấy chục hộ gia đình. Tiêu bá chỉ vào một căn nhà trúc dưới chân núi, nói: “Đây vốn là nhà trống của hộ gia đình trong thôn, ta đã tự ý mua lại cho công tử. Ở đây đi lại bất tiện, dân cư thuần phác, không có lai vãng với người giang hồ, rất thích hợp để ẩn cư.”

Vân Tương theo Tiêu bá tới nhà trúc, thấy bên trong tuy đơn sơ nhưng vẫn giữ được vẻ tao nhã thì vô cùng hài lòng. Sau khi họ sắp xếp xong xuôi, Tiêu bá lại hỏi: “Không biết công tử định làm gì tiếp theo?”

“Đợi!” Vân Tương ung dung đáp.

“Đợi? Đợi cái gì?” Tiêu bá gãi đầu nghi hoặc.

“Chính xác, hành động tốt nhất bây giờ chính là đợi.” Vân Tương bình thản giải thích: “Nam Cung Phóng không tìm được con, hy vọng kế thừa gia nghiệp của y sẽ hoàn toàn tan tành. Với tính cách cao ngạo từ nhỏ, y ắt không cam tâm mất đi đại quyền, chắc chắn sẽ sử dụng thủ đoạn đặc biệt. Chúng ta chỉ cần đợi Nam Cung thế gia tự rối loạn rồi đến thu dọn tàn cuộc. Thời gian này chúng ta phải cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, giấu kín bản thân chính là thắng lợi lớn nhất!” Nói tới đây, gã ngừng lại khẽ than: “Bây giờ điều ta lo lắng nhất chính là Á Nam.”

“Công tử không cần lo lắng,” Tiêu bá vội an ủi: “Với sự thông minh cơ trí của Thư cô nương chắc chắn sẽ không có chuyện gì. Hơn nữa, công tử đã dặn dò gác cửa ở nhà, thấy Thư cô nương thì bảo cô nương ấy đến hội ngộ tại nơi hai người gặp gỡ lần đầu, chắc chắn sẽ không sao đâu.”

Để bảo đảm an toàn, Vân Tương chỉ để lại cho gác cửa một địa chỉ mơ hồ, hẹn nàng đến nơi đầu tiên họ gặp nhau. Tin chắc rằng ngoài Thư Á Nam sẽ không ai đoán được đó là đâu. Biển người mênh mông, gã cũng chỉ có thể dùng cách này để hẹn gặp Thư Á Nam.

Vào lúc Vân Tương sống tĩnh lặng an nhàn nơi thôn trang, Nam Cung thế gia đã xảy ra biến động long trời lở đất. Nam Cung Thụy bị các trưởng bối trong tộc thúc giục, cuối cùng đành hạ quyết tâm. Vào một đêm không trăng không sao, lão cho gọi Nam Cung Phóng tới, định nói chuyện rõ ràng với y.

Nhìn thấy Nam Cung Phóng vì chuyện con trai bị bắt cóc mà bộ dạng tiều tụy, Nam Cung Thụy cũng nhói lòng. Nhưng giờ không phải là lúc an ủi con trai, lão dằn lòng chuẩn bị nói thẳng vào chuyện chính.

“Cha đã già rồi, gần đây thể trạng lại suy nhược nhiều bệnh, thường cảm thấy sinh lực không còn dồi dào, vì vậy muốn sớm buông tay hưởng phúc thanh nhàn mấy năm.” Nam Cung Thụy khẽ thở dài nói.

“Phụ thân có thể giao sự vụ trong gia tộc cho hài nhi lo liệu,” Nam Cung Phóng bèn cười bồi, nói: “Chia sẻ nỗi lo của cha là trách nhiệm tận hiếu của hài nhi.”

Nam Cung Thụy khẽ gật đầu, sau đó lại lắc đầu nói: “Phóng nhi, con biết cha luôn yêu thương nuông chiều con, thậm chí không màng tổ huấn lập trưởng không lập thứ đưa con lên làm người thừa kế Nam Cung thế gia. Kể cả sau khi con bị thương, cha cũng nỗ lực hết sức để con kế thừa gia nghiệp, nhưng hiện tại con trai con mất tích, con đã không thể nào nối tiếp hương hỏa cho Nam Cung thế gia, dĩ nhiên cũng khó tiếp tục làm người thừa kế. Tuy rằng cha rất đau xót, nhưng cũng không thể bỏ qua cảm nhận của người trong gia tộc, hy vọng con có thể hiểu cho cha.”

Nam Cung Phóng nghe vậy sợ hãi nói: “Con nhất định sẽ tìm được con trai trở về, xin cha cho hài nhi chút thời gian!”

Nam Cung Thụy chua xót đáp: “Cha đã cho con rất nhiều thời gian, nhưng tương lai của Nam Cung gia không thể gửi gắm cả vào một đứa bé không rõ sống chết, đúng không?”

Nam Cung Phóng mặt tái nhợt, im lặng hồi lâu mới chua chát hỏi: “Cha đã quyết định rồi?”

Nam Cung Thụy khẽ gật đầu: “Cha dự định ngày mai sẽ triệu tập người trong gia tộc bái tế tổ tiên, lập A Hào làm người thừa kế.”

Nam Cung Phóng thấy lòng lạnh ngắt, chỉ muốn ngã gục. Hiện giờ y và đại ca đã trở thành tử địch, một khi đại ca làm tông chủ, đợi lúc cha y trăm tuổi, e rằng y sẽ từ thiên đường ngã xuống địa ngục, chịu sự giày vò của đại ca. Nếu cha y lập nhị ca Nam Cung Giác làm người thừa kế, y còn có thể miễn cưỡng chấp nhận, còn nếu để đại ca làm tông chủ, bản thân y há chẳng phải cả đời nhìn đại ca mà sống nhục? Chuyện này còn khó chịu hơn cả giết Nam Cung Phóng. Nghĩ tới đây, y không còn kiêng kỵ gì, tức tối nói: “Đại ca vì muốn đoạt quyền thừa kế đã câu kết Thiên Môn công tử Tương đối phó hài nhi, từ chuyện Mục Mã sơn trang lụi bại đến việc con trai con mất tích đều là do đại ca và công tử Tương gây ra, xin cha minh xét!”

Nam Cung Thụy không ngạc nhiên trước lời tố cáo của con trai, chỉ thở dài: “Hai huynh đệ các con đấu đá tranh quyền đoạt lợi, cha lẽ nào không hay? Năm xưa con giết quan sai giá họa cho đại ca con, thủ đoạn cũng chưa chắc sạch sẽ hơn y. Con biết tại sao năm đó cha không vạch trần vở kịch của con, bảo vệ công đạo cho đại ca con không?”

Nam Cung Phóng mờ mịt lắc đầu, cha y lại than: “Giang hồ vốn dĩ là thế giới lừa người lừa mình, đấu tâm đấu trí, chỉ kẻ mạnh mới có thể sinh tồn. Vì vậy người thừa kế Nam Cung thế gia bắt buộc phải là kẻ mạnh. Năm đó đại ca con đã thất bại khi tranh giành với con, vì vậy y không xứng làm người thừa kế. Nhưng lần này, là con đã thua. Tuy luận tâm kế luận võ công, A Hào đều không phải đối thủ của con, nhưng y lại có thể lợi dụng được những nhân tài như Thiên Môn công tử Tương. Đây chính là chỗ y cao minh hơn con. Tuy trong ba đứa con, ta cưng chiều con nhất, nhưng vì tương lai của Nam Cung gia, ta bắt buộc phải truyền gia nghiệp cho đại ca con.”

Nam Cung Phóng mặt xám ngoét như tro, vừa rồi y còn nghĩ cách làm sao để vạch trần âm mưu quỷ kế của đại ca khiến cha y hồi tâm chuyển ý. Hiện giờ Nam Cung Phóng mới biết, phụ thân vốn không để tâm đại ca dùng thủ đoạn gì, chỉ quan tâm ai mới là kẻ chiến thắng cuối cùng. Nam Cung Phóng lao tâm khổ tứ tìm chứng cứ đại ca câu kết với công tử Tương đối phó mình, thì ra tất cả đều là vô ích. Y vội quỳ sụp xuống đất, khóc rống cầu xin: “Cha ơi! Tính cách của đại ca con cha không phải không biết, nếu huynh ấy làm tông chủ, đợi cha trăm tuổi cũng là lúc hài nhi chết không có chỗ chôn!”

Nam Cung Thụy nước mắt ngắn dài ôm con trai vào lòng, khóc nói: “Nếu con làm tông chủ, đại ca con cũng chưa chắc có thể yên ổn đến cuối đời. Phóng nhi, giang hồ này rộng lớn lắm, con thông minh tài cán chắc chắn có thể tạo ra một mảnh trời riêng cho mình, hà tất phải sống nhục dưới trướng đại ca con?”

Nam Cung Phóng sững người: “Cha muốn con đi?”

Thấy phụ thân gật đầu, Nam Cung Phóng nhảy dựng lên: “Con không đi! Tại sao con phải đi? Con đã tận tâm tận lực, dốc hết công sức vào cái nhà này, không ngừng mở rộng sản nghiệp gia tộc, có điểm nào đại ca bì kịp? Tại sao lại là con đi?”

Thấy phụ thân im lặng, nhưng nét mặt vẫn vô cùng kiên quyết, Nam Cung Phóng dần lấy lại bình tĩnh, lòng biết đã không thể thay đổi quyết định của đấng sinh thành. Y cúi đầu đứng dậy, nét mặt biến đổi bất thường. Lát sau, y nghiến răng hạ quyết tâm, lặng lẽ đến bên bàn đọc sách, rót đầy một tách trà, hai tay dâng tới quỳ trước mặt cha, nấc nghẹn nói: “Nếu hài nhi sớm muộn gì cũng phải đi, chi bằng đi ngay bây giờ. Xin cho phép hài nhi được dâng trà cho cha lần cuối, sau này e rằng cha khó có thể uống được trà của con nữa rồi.”

Nam Cung Thụy nuốt nước mắt nhận tách trà uống cạn. Lão khẽ đặt tách trà xuống, thở dài: “Xuất thân trong nhà thế gia, huynh đệ không thể hòa thuận, cha con không thể đoàn tụ, đúng là không biết may mắn hay bất hạnh đây!”

Nam Cung Phóng cung kính dập đầu ba vái, lệ rơi lã chã: “Cha tại thượng, con phải đi đây. Trước khi đi, hài nhi xin cha hãy dạy lại kiếm pháp, giống như lần đầu tiên cha dạy con.”

Nam Cung Thụy gật đầu, nhẹ nhàng rút bảo kiếm trên giá đỡ xuống, điều hòa khí tức, chậm rãi vung trường kiếm, giống như lần đầu tiên dạy con trai mình bộ kiếm pháp này.

Bảy mươi hai chiêu kiếm pháp đã qua hơn nửa, Nam Cung Thụy chảy ròng mồ hôi lạnh, xuất thủ càng lúc càng chậm. Kiếm pháp còn chưa thi triển xong, lão đột ngột thu kiếm đứng lại, lấy kiếm chống đất, chua chát hỏi: “Con đã bỏ gì vào trong trà?”

Nam Cung Phóng lùi về sau mấy bước, căng thẳng nhìn cha, run giọng nói: “Tô Cân Tán!”

Nam Cung Thụy mềm nhũn người ngã phịch xuống đất, ngửa mặt thở dài: “Thật không ngờ! Nam Cung Thụy ta cả đời anh minh lại trúng Tô Cân Tán của con trai ta!”

Nam Cung Phóng vội quỳ sụp xuống đất, dập đầu lia lịa: “Xin cha lượng thứ, Tô Cân Tán không phải thuốc trí mạng, hài nhi không dám hại cha.”

“Nhưng nó có thể khiến kẻ uống phải kiệt sức liệt người vĩnh viễn.” Nam Cung Thụy cười khổ nói: “Con vì muốn bảo toàn quyền thừa kế mà không tiếc báo đáp cha như vậy.”

Nam Cung Phóng ngẩng đầu căm hận nói: “Con từ nhỏ ăn ngon mặc đẹp, tiền hô hậu ủng, nhất hô bách ứng, sớm đã quen làm một công tử hào môn hưởng đầy vinh hoa phú quý. Chỉ vì bị thương, cha lại để con đi phiêu dạt giang hồ, nhường đường cho đại ca. Con nào chịu được cái khổ trên giang hồ, đành phải liều ván này. Cha yên tâm, Tô Cân Tán nhiều nhất cũng chỉ khiến cha liệt giường, không tổn hại tính mạng. Con sẽ đích thân chăm lo nơi ăn chốn ở cho cha, làm một người con hiếu thuận. Chỉ cần cha không lên tiếng thì không ai có thể phế quyền thừa kế của con, con sẽ tiếp nhận làm tông chủ tạm thời, cho đến khi ngồi vững mới thôi.”

Nam Cung Thụy mắt ngấn lệ, nhưng vì dược tính phát tác nên không thể mở miệng. Nam Cung Phóng bế lão nằm lên giường, khóc nói: “Là cha ép con phải ra hạ sách này, quả thực con bất đắc dĩ mới làm vậy. Con không muốn chịu nhục nhã trong tay đại ca, chỉ có thể vậy thôi!”

Đắp chăn lại cẩn thận cho Nam Cung Thụy, Nam Cung Phóng lau sạch sẽ tách trà đã bỏ Tô Cân Tán, xong xuôi mới lặng lẽ ra khỏi phòng, định nhân lúc đêm tối rời đi thì chợt nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng động lạ. Y quát hỏi: “Ai? Cút ra đây!”

Một bóng đen vạm vỡ lừng lững xuất hiện trong đêm tối, là Nam Cung Hào! Thì ra Nam Cung Hào đã nghe tai mắt báo chuyện phụ thân muốn gặp riêng lão tam, sợ tình thế gây bất lợi nên y mạo hiểm trốn ngoài cửa sổ để thám thính tình hình, chẳng ngờ lại chứng kiến toàn bộ quá trình Nam Cung Phóng hạ độc. Nam Cung Hào vốn định ra tay ngăn chặn, nhưng nghĩ lại nếu phụ thân trúng Tô Cân Tán nằm liệt giường, bản thân y lại xuất đầu lộ diện tiết lộ tội ác của Nam Cung Phóng, vậy y sẽ không cần làm người thừa kế nữa mà là tông chủ. Nghĩ tới đây, khát vọng quyền lực đã vượt quá lòng yêu thương cha già, cuối cùng Nam Cung Hào lựa chọn không hành động, đợi tới khi Nam Cung Phóng xong việc rời khỏi, y mới thôi bế khí bất cẩn để lộ bản thân.

Nhưng hiện tại, Nam Cung Hào đã nắm chắc phần thắng, không cần thiết phải tránh né, y bước ra khỏi chỗ ẩn nấp, đắc chí cười gằn: “Lão tam, không muốn người biết thì mình đừng làm, đúng là ông trời có mắt.”

Nam Cung Phóng thấy tội ác của mình bại lộ, đột ngột quỳ xuống đất, khóc lạy: “Đại ca, nể mặt chúng ta là huynh đệ, huynh đừng cáo giác đệ, cùng lắm đệ không tranh quyền thừa kế với huynh nữa!”

Lần đầu tiên thấy Nam Cung Phóng quỳ lạy trước mặt mình, Nam Cung Hào tự đắc cười ha hả. Tiếng cười vừa cất lên, Nam Cung Phóng ngay lập tức xoay cổ tay đâm thẳng một kiếm vô thanh vô tức. Nam Cung Hào tuy đã phòng bị, nhưng không ngờ kiếm của Nam Cung Phóng vượt xa dự tính của y, chỉ tạm tránh được chỗ yếu hại, song vẫn bị đâm trúng bụng. Y bịt vết thương bị kiếm đâm lui về sau, vẻ hoài nghi pha lẫn sửng sốt lồ lộ trên mặt.

Nam Cung Phóng đứng bật dậy, đắc chí cười khẩy: “Ngươi không ngờ kiếm pháp của ta lại nhanh hơn tưởng tượng của ngươi quá nhiều phải không? Nếu không phải bình thường ta giỏi giấu mình thì sao ngươi có thể dễ dàng trúng kiếm?”

Thấy Nam Cung Hào đột nhiên há miệng toan kêu lớn, Nam Cung Phóng một kiếm đâm thẳng vào yết hầu y, nào ngờ Nam Cung Hào lăn người trốn thoát mũi kiếm, cuối cùng lớn tiếng hô gọi: “Người đâu! Có thích khách!”

Nam Cung Hào có thể tránh được chiêu kiếm này khiến Nam Cung Phóng rất ngạc nhiên, không ngờ thân thủ của đại ca lại cao hơn y dự tính, xem ra đại ca cũng không phải hạng ngu xuẩn. Có điều chuyện tới nước này, bất luận thế nào y cũng phải giết người diệt khẩu.

Nam Cung Phóng xuất chiêu kiếm này nhanh hơn kiếm trước hòng truy đuổi đâm chết Nam Cung Hào. Nam Cung Hào đã bị thương từ trước, chỉ biết lăn lê né tránh, người y trúng kiếm liên tiếp, máu tươi bắn tung tóe khắp nơi. Nhưng tiếng kêu của y rốt cuộc đã kinh động đến người trong phủ, mấy đệ tử Nam Cung chạy tới xem xét hoàn toàn chết trân trước cảnh tượng đang diễn ra. Họ muốn ngăn cản, nhưng lại nghe tiếng quát điên loạn của Nam Cung Phóng: “Cút ra! Đừng ngăn ta!”

Nam Cung Hào đã trúng liền mấy kiếm, cuối cùng kiệt sức ngã xuống. Nam Cung Phóng toan một kiếm kết liễu đời y, chợt thấy kiếm quang vụt lóe bên cạnh gạt phăng đường kiếm tất sát của mình, tiếp đó y nghe thấy tiếng quát của nhị ca Nam Cung Giác: “Tam đệ, đệ điên rồi!”

Nam Cung Phóng đang không biết giải thích hành vi của mình với người khác thế nào, càng không thể truy sát đại ca ngay trước mặt nhiều người. Lời nói của Nam Cung Giác đã nhắc nhở y, y đột ngột vung kiếm chém loạn xạ, miệng kêu gừ gừ như con hổ phát cuồng, điên loạn chém xuống Nam Cung Hào đang nằm gục trên đất.

“Tam đệ dừng tay!” Nam Cung Giác vội chặn kiếm của y, nhưng vẫn không thể chặn hết hoàn toàn, Nam Cung Hào lại trúng thêm hai chiêu kiếm, cuối cùng thảm thiết kêu giãy chết: “Y muốn giết ta diệt khẩu!”

Nam Cung Giác đâm trúng cổ tay của Nam Cung Phóng, trường kiếm trong tay Nam Cung Phóng rơi xuống đất, Nam Cung Giác tiếp tục dụng kiếm phong bế huyệt đạo của y. Lúc này đám đệ tử Nam Cung mới có cơ hội đỡ Nam Cung Hào dậy, thấy y đã bị thương vào nơi yếu hại, không thể nói thêm lời nào. Nam Cung Giác sợ hãi hỏi: “Đại ca, chuyện này là sao?”

Nam Cung Hào mang theo sự nuối tiếc, uất hận trút hơi thở lìa đời. Nam Cung Giác đành giải huyệt đạo cho Nam Cung Phóng, chỉ thấy y vừa khóc lại cười, bộ dạng quái dị. Đám đệ tử bất giác thảng thốt kêu: “Tam công tử, tam công tử điên rồi! Mau bẩm báo với tông chủ!”

Ngày tháng trong sơn thôn vô vị dài đằng đẵng. Hai tháng sau, Vân Tương mới sai Tiêu bá đi Dương Châu dò la tin tức về Nam Cung thế gia, đồng thời cũng đi hỏi thăm tung tích của Thư Á Nam. Chẳng bao lâu sau Tiêu bá trở về, nhìn vẻ mặt đã đoán ra lão mang về tin tốt.

“Không ngờ công tử tọa sơn quan hổ đấu, vẫn có thể tinh tường nhìn thấu mọi chuyện!” Ánh mắt Tiêu bá lóe lên tia phấn khích hiếm hoi: “Nam Cung Phóng quả nhiên như công tử dự liệu, sau khi biết cha y định truyền ngôi tông chủ cho Nam Cung Hào đã đi vào ngõ cụt, ra tay ám toán huynh trưởng. Tuy y may mắn đắc thủ, nhưng bị người trong gia tộc bắt tại trận, theo gia pháp đáng ra y phải đền mạng cho huynh trưởng, chẳng ngờ y chịu phải đả kích đã hóa điên rồi. Nam Cung Thụy một lúc mất luôn hai người con, đã trúng gió nằm liệt giường, không biết sống chết. Hiện giờ Nam Cung thế gia trên dưới rối loạn, các trưởng bối trong gia tộc đành mời nhị công tử Nam Cung Giác trước giờ không màng thế sự ra mặt tạm thời gánh vác trọng trách tông chủ.”

Vân Tương không hề ngạc nhiên trước biến cố của Nam Cung thế gia. Nam Cung Thụy hết mực cưng chiều Nam Cung Phóng, không màng thị phi trắng đen khiến Nam Cung Phóng đã quen thói duy ngã độc tôn, lý nào có thể chịu thất bại mất đi đại quyền, rơi từ thiên đường xuống địa ngục? Thực chất sự cưng chiều quá độ của Nam Cung Thụy đã khiến con trai lão trở thành một mầm mống tội ác, những chuyện Vân Tương làm chẳng qua là để mầm mống tội ác này nảy mầm sinh trưởng, đơm hoa kết trái, cuối cùng nuốt chửng cả người thân của mình không chút lưu tình.

Vân Tương nhắm mắt nằm trên võng nghe Tiêu bá thuật lại đến chuyện Nam Cung Phóng hóa điên, gã đột ngột mở to mắt. Tiêu bá vừa dứt lời, gã đã gấp gáp hỏi: “Nam Cung Phóng sau đó thế nào?”

Tiêu bá nghĩ ngợi một lát rồi lắc đầu đáp: “Không nghe ngóng được tình hình sau này của y, một tên điên thiết nghĩ cũng chẳng có gì đáng để ý.”

Vân Tương thoáng biến sắc, ánh mắt mông lung lặng đi hồi lâu, sau đó đột ngột thở dài: “Nam Cung Phóng thật không đơn giản, có thể lừa được tất cả mọi người!”

Tiêu bá gãi đầu nghi hoặc: “Ý công tử là Nam Cung Phóng không hề điên?”

“Nếu y điên thật thì đã không phải Nam Cung Phóng!” Vân Tương lắc đầu ủ ê: “Đáng tiếc ta đã dốc công dốc sức như vậy, cuối cùng vẫn để y trốn thoát. Chỉ sợ sau này, y sẽ càng thông minh đáng sợ hơn!”

Tiêu bá an ủi: “Công tử không cần lo lắng, dù Nam Cung Phóng may mắn trốn thoát, y cũng không còn là tam công tử của Nam Cung thế gia. Chỉ cần y lộ mặt trên giang hồ, Nam Cung thế gia sẽ là người đầu tiên không tha cho y!”

Vân Tương lắc đầu, lòng ngổn ngang lo lắng, lại hỏi: “Có tin của Á Nam không?”

Tiêu bá đột nhiên lộ vẻ kỳ dị, chần chừ đáp: “Nghe nói Thư cô nương đã đi Hàng Châu, không hề về Kim Lăng tìm công tử.”

“Hàng Châu?” Vân Tương sững người: “Nàng ấy đi Hàng Châu làm gì?”

Thấy Tiêu bá lắc đầu, Vân Tương trầm ngâm chốc lát, ấp úng hỏi: “Còn ngũ di thái của Nam Cung Phóng… sau đó thế nào rồi?”

Tiêu bá thương xót nói: “Nghe nói Nam Cung Phóng được hai tên gia nô bẩm báo, sau khi biết tiểu thiếp của mình quen với công tử đã dụng hình tàn khốc ép hỏi thân phận và tung tích của công tử, nhưng vị phu nhân ấy nhất quyết không khai, cuối cùng không chịu nổi tra tấn đã nuốt vàng tự sát. Ta nghĩ mãi không thông, sao vị phu nhân ấy lại che giấu cho công tử?”

Sắc mặt Vân Tương đột ngột trắng bệch, người chao đảo như muốn ngã. Tiêu bá vội đỡ lấy gã, thấy Vân Tương rưng rưng nước mắt, luôn miệng lẩm bẩm: “Ta đã trách lầm nàng rồi, ta hoàn toàn trách lầm nàng rồi…” Gã vừa nói vừa loạng choạng đi vào phòng trong, quỳ sụp xuống trước giường, tay run run bế đứa bé trên giường trước ánh mắt kinh hãi của Minh Châu và nhũ mẫu, thất thanh gào khóc đến xé lòng: “Là ta hại chết mẹ con, là ta đã hại chết Di nhi…”

Đứa bé bị giật mình òa khóc, Minh Châu vội giành đứa bé khỏi lòng Vân Tương giao cho nhũ mẫu, nhưng lại không biết an ủi gã thế nào cho phải. Vân Tương đột nhiên lao vào trong phòng, gài chặt then cửa, mặc cho người bên ngoài hô gọi, chỉ nghe tiếng khóc trùm kín trong chăn văng vẳng vọng ra…

Không biết bao lâu sau, Vân Tương bước ra ngoài, đôi mắt đỏ hoen, bộ dạng thống khổ khó tả thành lời. Đối diện với ánh mắt quan tâm của Minh Châu và Tiêu bá, gã bình tĩnh nói: “Ta muốn đi Dương Châu, thắp hương trước mộ Di nhi, cũng để muội ấy thăm con mình.”

Tiêu bá biết không cản được Vân Tương, đành đáp: “Ta sẽ đi chuẩn bị ngay, trời sáng chúng ta sẽ lên đường.”

Hoàng hôn ngày hôm sau, Vân Tương được Tiêu bá đưa tới một ngôi mộ trơ trọi ở ngoại ô thành Dương Châu. Nhìn thấy hàng chữ “Nam Cung Triệu Thị” khắc trên bia mộ, mắt gã lóe lên tia phẫn nộ, chỉ chực đập nát tấm bia. Nhưng cuối cùng gã không làm gì mà lặng lẽ đốt hương cắm lên mộ, bế đứa bé tới trước, nói thầm trong lòng: “Di nhi, muội đã nhìn thấy chưa? Con của muội bình an vô sự. Ta sẽ không để bất cứ ai làm hại nó, ta sẽ dùng toàn bộ tâm huyết của mình để nuôi dưỡng nó trở thành một người lương thiện, chính trực và hữu dụng!”

Tiêu bá và Minh Châu đợi ở bên, đến khi Vân Tương bái tế xong, Tiêu bá mới bước tới nói: “Công tử, không còn sớm nữa, chúng ta về thôi.”

Chiếc xe ngựa lộc cộc trên đường, đến ngã rẽ, Vân Tương đột nhiên nói: “Đi Hàng Châu.”

Tiêu bá không hỏi nhiều, lập tức quay đầu xe sang hướng đi Hàng Châu. Lão biết tâm tư của Vân Tương, nhưng lại lo rằng khi Vân Tương tìm được người cần tìm, gã sẽ chỉ càng đau khổ.

Nhã Phong Lâu bên hồ Tây Tử ở Hàng Châu vốn là tòa lầu nổi tiếng nhất nhì Giang Nam. Nằm trên đoạn phong cảnh đẹp nhất bờ hồ Tây Tử, lầu cao ba tầng, bên ngoài cổ kính trang nhã, bên trong xa hoa tráng lệ, là một tòa lầu cổ trăm năm được quan nhân, cự phú, hào thân ưa thích lui tới. Vân Tương và Minh Châu đã từng ở đây lúc trước, trở lại nơi này, họ đều cảm thấy rất đỗi thân thuộc.

Mấy người vừa nhận phòng không bao lâu, tiểu nhị đã lên bẩm báo: “Dưới tầng có một vị cô nương họ Thư muốn tìm Minh Châu cô nương.”

Minh Châu nghe vậy vỗ tay vui mừng, nhấc tà váy chạy xuống. Nàng vừa xuống đến chân cầu thang đã thấy một nữ tử dùng mạng che mặt đang định đi lên, chẳng phải Thư Á Nam thì còn ai? Minh Châu mừng rỡ lao tới, ôm chặt Thư Á Nam hôn một cái thật kêu, tíu tít hỏi: “Tỷ tỷ làm muội nhớ muốn chết! Thời gian qua tỷ đã đi đâu? Tại sao không đến Kim Lăng tìm chúng ta? Sao tỷ lại biết muội đến Hàng Châu?”

“Tỷ tỷ cũng rất nhớ muội, vì vậy nghe nói muội tới Hàng Châu bèn cố tình tới đây tạm biệt muội.” Thư Á Nam cười đáp.

“Tạm biệt? Tỷ tỷ muốn đi đâu?” Minh Châu vội hỏi. Thư Á Nam không trả lời ngay, nàng kéo tay Minh Châu nói: “Vào phòng muội từ từ nói, lẽ nào muội muốn ta đứng đây mãi hay sao?”

Minh Châu le lưỡi dẫn Thư Á Nam vào phòng mình.

Vân Tương ở phòng bên nghe thấy tiếng hoan hô của Minh Châu, đã đi ra định gặp Thư Á Nam nhưng bị Minh Châu cản ở giữa, không cách nào lên trước hỏi han. Gã đành trơ mắt nhìn hai người họ vào phòng, biết họ đã lâu không gặp, chắc chắn có nhiều điều muốn nói, Vân Tương đành đứng đợi bên ngoài. Nghe hai thiếu nữ bên trong lúc thì thầm to nhỏ, lúc lại cười khanh khách, lòng Vân Tương cũng thấy vô cùng ấm áp.

Đợi tròn một canh giờ, hai thiếu nữ cũng mở cửa đi ra. Vân Tương vội bước tới chào hỏi: “Á Nam, muội… khỏe không?”

“Ta rất khỏe!” Thư Á Nam phớt lờ ánh mắt dịu dàng nồng thắm của Vân Tương, nàng ôm hờ quyền chào rồi bước xuống tầng. Vân Tương đi theo xuống, lấy làm lạ hỏi: “Muội định đi đâu vậy?”

“Đa tạ Vân công tử quan tâm, nhưng Á Nam không tiện nói.” Thư Á Nam không dừng bước, đi thẳng một mạch. Vân Tương ngỡ ngàng: “Muội gọi ta là Vân công tử? Cái gì mà không tiện nói? Muội không theo chúng ta về Kim Lăng sao?”

Thư Á Nam cuối cùng cũng dừng chân, quay đầu đáp: “Vân công tử, mỗi người đều có không gian cuộc sống riêng, tốt hơn đừng can thiệp lẫn nhau. Tuy chúng ta đã là bằng hữu, nhưng cũng không thể vì là bằng hữu mà vĩnh viễn đi cùng nhau chứ?”

Vân Tương quá sức kinh ngạc, chất vấn lại nàng: “Chúng ta chỉ là bằng hữu? Muội từng nói sẽ chăm sóc ta cả đời này, lẽ nào muội đã quên rồi?”

Thư Á Nam nhếch miệng cười chế nhạo: “Ta gạt huynh đấy được không? Lúc trước chẳng phải huynh cũng gạt ta đó sao? Giờ bị ta gạt xem như hòa nhé. Mọi người đều là lão thiên, ta lừa huynh huynh lừa ta bình thường lắm mà. Này, lẽ nào huynh coi là thật?”

“Muội đang nói dối!” Vân Tương nhìn chăm chăm vào mắt Thư Á Nam như muốn nhìn thấu nàng: “Tại sao muội lại nói dối?”

Thư Á Nam thản nhiên cười đáp: “Lúc trước ta nói dối, bây giờ thì không.”

“Muội nói dối!” Vân Tương mặt đỏ phừng phừng: “Tất cả những gì xảy ra giữa hai chúng ta ở Mục Mã sơn trang, lẽ nào đều là giả sao?”

Thư Á Nam cười khì đáp: “Không sai! Tất cả là giả, nếu huynh thấy đó là thật, vậy chỉ có thể chứng tỏ bản lĩnh lừa gạt người của ta cao minh hơn huynh một chút.”

“Tại sao? Tại sao lại gạt ta?” Vân Tương rít giọng hỏi. Thư Á Nam dửng dưng nhún vai nói: “Rất đơn giản, vì Nam Cung Phóng cũng là kẻ thù của ta. Ta muốn mượn tay huynh đối phó Nam Cung Phóng, vì vậy không hy vọng huynh ngã xuống. Bây giờ Nam Cung Phóng đã phát điên, Nam Cung thế gia cũng không thể khôi phục nguyên khí, ta báo được thù rồi, nên cũng không cần thiết phải gạt huynh nữa.”

“Muội…” Vân Tương giận run người, không thể nói thêm lời nào. Thư Á Nam lại bình thản như không: “Đúng rồi, quên chưa giới thiệu với huynh vị hôn phu của ta, thật ra huynh cũng từng gặp rồi, không cần ta phải giới thiệu nữa chứ?”

Vị hôn phu? Vân Tương cảm thấy đầu óc choáng váng, dường như cả thế giới này đều trở nên hoang đường. Gã nhìn theo hướng Thư Á Nam chỉ, thấy bên cạnh chiếc xe ngựa sang trọng ở vệ đường có một hán tử trung niên hùng dũng như hổ đang chắp tay sau lưng chờ đợi. Hán tử tuổi quá tứ tuần, mắt to mày rậm, không nộ mà uy, giữa trán hằn sâu ba đường vằn ngang, chính là nhân vật số một trong giới hắc đạo Giang Nam, Tùng Phi Hổ, lão đại của Tào Bang! Vân Tương lúc này mới hiểu vì sao gã vừa đến Hàng Châu thì Thư Á Nam cũng tìm tới, nơi này là địa bàn của Tào Bang, chẳng trách tin tức của nàng lại nhanh nhạy như vậy.

“Tùng Phi Hổ? Vị hôn phu của muội là Tùng Phi Hổ?” Vân Tương vẫn không dám tin. Thư Á Nam thản nhiên cười: “Có gì kỳ lạ? Nữ nhân nào lại không động lòng trước một anh hùng như Tùng Phi Hổ? Ta có thể tìm được một phu quân như vậy, huynh là bằng hữu của ta thì nên vui cho ta mới phải.”

Vân Tương đau đớn chỉ vào cổ Thư Á Nam, nhưng không thể nào nói nên lời. Thư Á Nam hiểu ra cười nói: “Huynh đang nói viên đá vũ hoa?” Nàng gạt cổ áo để lộ cổ mình: “Nó vốn không thuộc về ta, người có được nó mới là tình yêu đích thực của huynh, huynh phải biết trân trọng.”

Dứt lời, Thư Á Nam xua tay, quay người bước nhanh tới chiếc xe ngựa, Tùng Phi Hổ vội đỡ tay nàng dìu vào khoang xe. Cuối cùng, nàng thò tay ra khỏi khoang vẫy chào, xe ngựa bắt đầu chạy thẳng.

Vân Tương nhìn bóng xe ngựa xa dần, chợt cảm thấy họng mình lờm lợm, gã ngửa mặt phun ra búng máu tươi, đoạn ngã vật về sau. Gã mơ hồ cảm thấy mình được người khác đỡ dậy, bên tai văng vẳng tiếng gọi, đờ đẫn nhìn theo âm thanh ấy, thấy Minh Châu mặt mày lo lắng, trên cổ nàng đang đeo viên đá vũ hoa độc nhất vô nhị, hai mắt gã tối sầm lại rồi ngất lịm đi.

Xe ngựa đã đi rất xa, Thư Á Nam vẫn ngoái nhìn lại qua rèm cửa xe, nước mắt đã làm mờ hai mắt nàng. Nàng cắn chặt môi để ngăn mình khóc thành tiếng, đến nỗi môi rách toác cũng không hay biết. Máu tươi quyện nước mắt lã chả chảy xuống từ khóe miệng, loáng cái đã nhuốm đỏ vạt áo.

Tùng Phi Hổ gượng gạo buông tay nàng, nhìn Thư Á Nam máu hòa cùng lệ, muốn an ủi nhưng lại không biết nói thế nào cho phải. Xe ngựa chạy lòng vòng trong thành, Thư Á Nam ngồi trong xe đau đớn khóc không thành tiếng. Chẳng biết bao lâu sau, nàng cuối cùng cũng nghiến răng lau khô nước mắt, lấy lại bình tĩnh. Tùng Phi Hổ thấy vậy buồn bã thở dài: “Nếu nàng không buông bỏ được y, tại sao lại rời xa y? Còn để ta sắm vai ác khiến y tổn thương sâu sắc như vậy?”

“Ta chỉ cần huynh ấy buông bỏ ta,” Thư Á Nam bình tĩnh đáp. “Ta sắp đi tới một nơi không thể gặp lại huynh ấy nữa, vì vậy không hy vọng huynh ấy còn nhớ nhưng ta. Ta muốn huynh ấy quên ta triệt để, thậm chí hận ta, có vậy mới không vì ta mà đau lòng hay khổ sở.”

Tùng Phi Hổ tò mò hỏi: “Nàng định đi đâu?”

“Bắc Kinh!” Thư Á Nam lạnh nhạt đáp.

“Ta tiễn nàng!” Tùng Phi Hổ khảng khái gật đầu.

Xe ngựa chạy thẳng theo hướng Bắc, một mạch xuyên qua các châu phủ. Thư Á Nam co chân ôm gối ngồi trong xe, hai mắt đờ đẫn thất thần. Nếu không phải mí mắt thỉnh thoảng còn chớp chớp, người ta khéo đã lầm tưởng nàng là một cỗ xác sống biết đi.

“Để ta kể cho cô nương nghe một câu chuyện, câu chuyện về Thiên Môn chi hoa.” Câu nói này chẳng khác nào lời nguyền mãi văng vẳng bên tai Thư Á Nam. Nàng hối hận vì đã nghe câu chuyện này, không thể ngờ nó lại có thể tước đoạt hết mọi thứ của nàng.

Không ai biết khi Thư Á Nam về Dương Châu bái tế phụ thân đã xảy ra chuyện gì, nhưng bản thân nàng thì vĩnh viễn không thể nào quên. Thư Á Nam vốn thấy khó xử vì Minh Châu thầm yêu Vân Tương nên có lòng tác thành cho Minh Châu, để Minh Châu theo Vân Tương đi Hồ Châu thăm Mạc gia, còn nàng mượn cớ về Dương Châu bái tế phụ thân nhằm né tránh Vân Tương. Chẳng ngờ số phận của nàng cũng thay đổi từ đây. Nhưng nàng cũng hiểu rằng, dù bản thân không rời xa Vân Tương thì lần gặp mặt ấy vẫn đã được số phận an bài.

“Thư cô nương vẫn khỏe chứ?” vẫn là lão già áo xanh thần bí ấy, sau khi Thư Á Nam bái tế cha xong, lão lại xuất hiện trước mặt nàng. Thư Á Nam chào hỏi lão, nhưng lòng vẫn đề cao cảnh giác, có điều nể tình lão là đại ân nhân đã giúp mình khôi phục dung mạo, Thư Á Nam không tiện né tránh, đành đáp: “Đa tạ tiên sinh đã nhớ tới, ta rất khỏe. Sao lão tiên sinh lại ở đây?”

Lão già áo xanh mỉm cười hiền hòa, nói: “Chủ nhân nhà ta muốn gặp cô nương, vì vậy lệnh cho lão phu đến mời.”

Thư Á Nam từng chứng kiến bản lĩnh của lão già, nay biết lão chỉ là một nô bộc thì hết sức ngạc nhiên, thật không biết “chủ nhân” trong lời lão là nhân vật thế nào. Thư Á Nam lại càng thêm cảnh giác, bèn đáp: “Tiểu nữ tử chẳng qua chỉ là kẻ lưu lạc giang hồ tầm thường, không dám đi gặp thế ngoại cao nhân giống như tiên sinh.”

Lão già áo xanh nở nụ cười bí hiểm: “Những gì Thư cô nương đã trải qua không hề tầm thường. Xuất thân ở Bình An tiêu cục, là hòn ngọc minh châu trên tay tổng tiêu đầu Thư Chấn Cương. Sau khi Thư tổng tiêu đầu gặp nạn, Thư cô nương đêm khuya xông vào Tiêu Tương biệt viện, vì đả thương Nam Cung Phóng mà dính vào kiện cáo quan phủ, nếu không có Tô gia ở Kim Lăng ngầm giúp đỡ, e rằng đã bị Nam Cung thế gia ăn tươi nuốt sống từ lâu. Cô nương bị định tội đày đi khổ dịch ba năm, nhưng đã tự mình đào thoát, tiếp đó bị người ta lừa bán vào thanh lâu, sau lại gặp Tùng Phi Hổ cưỡng bức, trong lúc tuyệt vọng đã tự hủy dung mạo của mình, giả điên giả dại lẻn về Dương Châu, mượn các điển tịch Thiên Môn của Nam Cung Phóng tự học thành tài, cuối cùng thành một nữ hậu bối ưu tú của Thiên Môn…”

“Đủ rồi!” Thư Á Nam vội quát ngừng, lão già chỉ lược qua mấy câu đã khiến nàng thầm kinh hãi. Không ngờ những chuyện riêng tư như vậy lão cũng có thể nói không sai một li như tận mắt chứng kiến, làm người khác rùng mình. Nàng sợ chuyện xảy ra giữa mình và Vân Tương trong khách điếm ở Mục Mã sơn trang cũng bị lão biết, vì vậy vội ngăn lại, đanh mặt quát: “Rốt cuộc lão muốn thế nào?”

Lão già áo xanh ung dung cười: “Lão phu vừa nói rồi, chủ nhân nhà ta muốn gặp cô nương.”

“Được! Dẫn đường, ta đi với ông!” Thư Á Nam khảng khái nhận lời. Nếu họ đã biết rõ nàng như lòng bàn tay, nàng không thể không đi gặp vị “chủ nhân” ấy, xem thử y là nhân vật thế nào.

Lão già áo xanh đích thân đánh xe, xe ngựa chạy liền mấy ngày mới dừng lại, đích đến là thành Bắc Kinh! Sau đó Thư Á Nam bị bịt mắt, đưa đi vòng vèo trong thành khá lâu mới dừng lại. Nàng vừa xuống xe, một trạch viện hào nhoáng hiếm thấy hiện ra trước mặt. Thư Á Nam được lão già dẫn tới một thư phòng yên tĩnh, bên trong là vị “chủ nhân” lão già áo xanh nhắc đến - một lão già áo trắng thanh cao nho nhã.

“Thư cô nương, mời ngồi!” Lão già áo trắng ra hiệu mời Thư Á Nam ngồi xuống, hứng khởi quan sát nàng một hồi, ánh mắt dán chặt vào đóa hoa bên má nàng, lâu sau mới khẽ gật đầu nói: “Trong vẻ anh vũ vẫn không thiếu nét đẹp dịu dàng, kiều diễm mà đầy cá tính, quả nhiên là một đóa hoa tiên độc nhất vô nhị trên thế gian!”

Thư Á Nam thoáng đỏ mặt, lạnh lùng nói: “Tiên sinh nghìn dặm xa mời tới, chắc không phải để khen ngợi dung mạo của Á Nam chứ?”

Lão già cười khà khà: “Thư cô nương không có sự ngại ngùng e lệ của nữ tử tầm thường, quả là hiếm có! Lão phu rất tán thưởng. Đúng rồi, cô nương còn chưa biết danh tính của lão phu phải không? Lão phu Cận Vô Song, cái tên này chỉ những người ta tin tưởng mới biết.”

“Thật là vinh hạnh!” Thư Á Nam khẽ cười đáp: “Nhưng Á Nam và Cận tiên sinh chưa từng gặp mặt, tiên sinh lấy gì để tin Á Nam?”

Cận Vô Song cười nhạt nói: “Thư cô nương trước đây không biết lão phu, lão phu lại biết cô rõ như lòng bàn tay. Thậm chí có thể nói là thần giao đã lâu.” Đoạn lão lấy một phong thư trên bàn sách đẩy tới trước mặt Thư Á Nam: “Thậm chí còn biết thứ cô nương muốn có nhất là gì.”

Thư Á Nam tò mò cầm phong thư lên, ngờ vực mở ra xem, chợt biến sắc mặt. Đó là một tờ khế đất, khế đất của Bình An tiêu cục. Đây quả nhiên là thứ nàng nằm mơ cũng muốn đòi lại. Nó nằm trong tay Nam Cung thế gia, hiện giờ lại được Cận Vô Song lấy về như không, khả năng của lão quả không tầm thường. Nàng dằn lòng không để lộ thái độ, bình tĩnh đặt tờ khế đất lên bàn, lạnh nhạt hỏi: “Ông muốn ta làm gì?”

Cận Vô Song nghiêm túc nói: “Ta muốn chính thức thu nhận cô nương làm đệ tử nhập thất của ta.”

Thư Á Nam đột nhiên nhớ lại tình cảnh Mạc gia muốn thu nhận nàng làm đệ tử khi xưa, bất giác nhếch miệng cười, nàng cầm tờ khế đất trên bàn lên nói: “Tặng lễ cho người, ắt có điều cần nhờ. Tiên sinh đã đưa ra một lễ trọng như vậy thì không cần phải lấy tình cảm sư đồ để lung lạc ta. Có chuyện gì cứ lên tiếng, không cần phải vòng vo.”

“Thực ra cô nương đã là đệ tử Thiên Môn ta từ lâu, có nghi thức nhập môn hay không cũng vậy.” Cận Vô Song cười khẽ, thấy Thư Á Nam lộ vẻ hồ nghi, lão bèn giải thích: “Những thư tịch cô nương trộm ở chỗ Nam Cung Phóng chính là điển tịch Thiên Môn ta, trong đó có không ít quyển do lão phu đích thân soạn. Chúng ta tuy không có danh sư đồ, nhưng kỳ thực đã là sư đồ từ lâu rồi. Ngay cả bông hoa độc nhất vô nhị trên má cô nương cũng là kiệt tác qua bàn tay một lão tiền bối trong Thiên Môn ta tạo ra, bây giờ cô nương còn cho rằng mình không có bất cứ quan hệ gì với Thiên Môn không?”

Thấy Thư Á Nam không thể đối đáp, Cận Vô Song lại nói: “Cô nương nhận hay không nhận ta làm sư phụ, chuyện này không hề gì, chỉ cần cô nương nhớ kỹ, bản lĩnh hiện giờ của mình đều là kết tinh tâm huyết của các đời tiền bối trong Thiên Môn ta truyền lại, nhớ rằng mình mãi mãi là đệ tử Thiên Môn, như vậy đủ rồi.” Cận Vô Song vừa nói vừa đẩy lại tờ khế đất trên bàn đến trước mặt Thư Á Nam: “Ta trả cô nương khế đất này, hoàn toàn không yêu cầu cô nương làm chuyện gì để hoán đổi. Ta nhận cô làm đệ tử, cũng không cần cô phải báo đáp gì. Ta chỉ cần cô nương nghe ta kể một câu chuyện, nghe xong câu chuyện này, cô nương có thể đi ngay lập tức, chúng ta sẽ không còn dính dáng gì đến nhau.”

Thư Á Nam tò mò hỏi: “Câu chuyện gì?”

Cận Vô Song lộ ra vẻ chân thành kính ngưỡng, nhẹ nhàng nói: “Câu chuyện về Thiên Môn chi hoa!”

Bầu không khí nghiêm túc và nặng nề trong phòng đã ảnh hưởng đến Thư Á Nam, nàng bèn tập trung tinh thần chú ý lắng nghe. Cận Vô Song hớp ngụm trà, mắt nhìn vào hơi nóng nghi ngút bốc lên từ tách trà, khẽ nói: “Câu chuyện này cô nương cũng đã từng nghe, nhưng chuyện ta kể sau đây là phần người khác không thể biết.”

Thư Á Nam chăm chú nhìn Cận Vô Song, ánh mắt lão lạc vào hư không, dường như đang xuyên qua không gian và thời gian xa xôi, giọng nói trầm bổng vang vọng của lão nhanh chóng đưa nàng về thời kỳ bách gia tranh minh*, anh hùng nổi dậy.

“Thời Xuân Thu, hai nước Ngô Việt là kẻ thù nhiều đời, chiến loạn trăm năm. Sau trận chiến ở Cối Kê, Việt vương Câu Tiễn bị Ngô vương giam cầm làm nô lệ, ông không tiếc thân mình dắt ngựa nếm phân cho Ngô vương, chịu đủ khổ nhục mới được tha về nước Việt. Sau khi Câu Tiễn về nước lại nằm gai nếm mật, dốc lòng trị quốc, còn chấp nhận mỹ nhân kế của đại phu Phạm Lãi, dâng tuyệt đại mỹ nữ Tây Thi cho Ngô vương, cuối cùng báo được đại thù, tiêu diệt nước Ngô.” Nói tới đây, Cận Vô Song ngừng lại, khẽ thở dài: “Đây là lịch sử do Thái Sử Công ghi chép, nhưng sự tường tận còn kém xa với ghi chép trong điển tịch bí truyền của Thiên Môn, thậm chí không hề viết rõ, ai mới là anh hùng thực sự trong cuộc chiến tranh này.”

Cận Vô Song vừa nói vừa rút một quyển tập cũ kỹ trên giá sách, lật một trang đưa cho Thư Á Nam, nói: “Trong này ghi chép một số sự tích về cao thủ Thiên Môn các đời, cô nương có hứng thú thì cầm lấy xem xem.”

Thư Á Nam cầm xem, vừa nhìn đã thấy tên đại phu Phạm Lãi nước Việt hiện ngay trước mắt. Cận Vô Song thủng thẳng nói: “Phạm Lãi là đệ tử đích truyền của Thiên Môn, vì báo ơn tri ngộ của Việt vương Câu Tiễn đã tiếp nhận chức sĩ đại phu nước Việt. Để nước Việt không còn bị nước Ngô áp bức, ông ấy đã đi khắp nước Việt, cuối cùng tìm thấy mỹ nữ Tây Thi đang giặt giũ cạnh khe suối. Nhan sắc của Tây Thi ai ai cũng biết, nhưng sự thông minh của Tây Thi lại cực ít người nhắc tới. Thực ra đó mới là nguyên nhân Phạm Lãi nhận nàng làm đệ tử, truyền thụ tuyệt kỹ Thiên Môn. Ông đưa Tây Thi về kinh đô nước Việt, đồng thời mượn tay Việt vương dâng tặng Tây Thi cho Ngô vương. Để bảo đảm Tây Thi có thể nổi bật giữa dàn mỹ nữ ở hậu cung Ngô vương, Phạm Lãi đã đích thân cầm dao, sử dụng thuật xăm mình bí truyền của Thiên Môn để xăm lên một đóa hoa thủy tiên tinh xảo trên khuôn mặt diễm lệ của Tây Thi, biến nàng thành một mỹ nữ độc nhất vô nhị trên thế gian. Tây Thi cuối cùng nhờ vào nhan sắc khác biệt và thiên thuật cao minh của mình làm điên đảo một quốc gia hùng mạnh, trở thành Thiên Môn chi hoa độc nhất vô nhị được người người trong Thiên Môn kính ngưỡng!”

Thư Á Nam vốn đã nghe nhàm tai những câu chuyện về Tây Thi, nhưng không ngờ phía sau lại ẩn chứa bí mật đặc sắc như vậy. Nàng bất giác say sưa ngưỡng mộ, sau đó lại thầm rùng mình, lờ mờ đoán được ngụ ý của Cận Vô Song khi kể câu chuyện này. Có điều nàng cũng không dám khẳng định, đành đanh giọng hỏi: “Ông kể câu chuyện này rốt cuộc có ý gì?”

Cận Vô Song không trả lời mà hỏi lại: “Cô nương chắc vẫn còn nhớ một nam tử tên Lãng Đa.”

Lãng Đa? Cái tên này cũng khá quen nhưng Thư Á Nam nhất thời không thể nhớ ra. Cận Vô Song gọi lại: “Y từng gặp Thư cô nương ở sòng bạc Hồng Vận, không biết cô nương còn có ấn tượng không?”

Thư Á Nam sực nhớ ra nam tử dị tộc người nồng mùi dê và lần gã anh dũng ra mặt vì nàng, bất chấp động thủ với Nam Cung Hào. Nàng bèn gật đầu: “Nhớ ra rồi. Cận tiên sinh quen y?”

Cận Vô Song gật đầu: “Lãng Đa điện hạ là tứ vương tử của Ngõa Thích, lần này đi sứ triều ta là muốn thắt chặt hòa ước, liên minh với nước ta. Các điều khoản trong hòa ước đã bàn bạc ổn thỏa, nhưng trước khi đi y lại có yêu cầu, muốn tìm giúp một nữ tử tên Thư Á Nam, trên mặt có một đóa hoa.”

Thư Á Nam cười khẩy: “Thế là các người đồng ý, lấy ta làm một phần của hòa ước, đi đổi lấy cái gọi là hòa bình?”

Cận Vô Song lắc đầu: “Cô nương hiểu lầm rồi, theo hòa ước lần này triều đình ta sẽ cắt nhượng cho Ngõa Thích mấy vạn dặm đất, mấy chục vạn con dân, vàng bạc châu báu càng nhiều không đếm xuể. Một dân nữ bình thường như cô nương còn chưa đủ tư cách trở thành điều, khoản trong hòa ước.”

“Nếu đã như vậy, ông kể cho ta chuyện Thiên Môn chi hoa là có ý gì?” Thư Á Nam hỏi ngược lại. Cận Vô Song thản nhiên đáp: “Là ta muốn chủ động dâng tặng cô nương cho Lãng Đa, làm một Thiên Môn chi hoa đời nay!”

Thư Á Nam chế nhạo: “Triều đình hèn kém, lại để một dân nữ bình thường như ta đi chặn con sóng dữ, đúng là nực cười.”

Cận Vô Song chỉ vào tấm bản đồ sau lưng, ung dung nói: “Đại Minh phía Đông có giặc Oa quấy nhiễu, phía Tây có Ma Môn nhăm nhe chầu chực, phía Bắc lại có quân Ngõa Thích hùng mạnh lân la uy hiếp. Triều đình muốn bình loạn giặc Oa ở biển trước, sau đó sẽ càn quét Ma Môn, cuối cùng tập trung lực lượng tiêu trừ sự uy hiếp ở phương Bắc. Nhưng hiện tại Ma Môn đang ỷ thế câu kết với Ngõa Thích, muốn cùng xâm phạm Đại Minh ta, triều đình không có sức chiến đấu cả ba mặt, đành tạm thời hòa hoãn với Ngõa Thích cầu toàn. Đây không phải khiếp nhược mà là sách lược, là cố gắng hết sức giảm bớt hy sinh máu thịt, bỏ cái giá nhỏ nhất để giành thắng lợi toàn cục.”

Thư Á Nam bĩu môi không đồng tình: “Chuyện quốc sách cơ mật, tại sao ông lại biết rõ như vậy.”

Cận Vô Song thản nhiên đáp: “Vì ta chính là người vạch định kế hoạch, cũng chính là kẻ thi hành quốc sách này.”

Thư Á Nam thầm rúng động, quả thực không dám tin Cận Vô Song là nhân vật như vậy! Nhưng đầu óc tinh minh và khí chất của lão cùng nét tự tin và ung dung khi lão bàn về giang sơn khiến nàng không thể không tin. Thư Á Nam còn đang ngẫm lại lời lão, lại nghe Cận Vô Song ngạo nghễ nói: “Thiên Môn từ lúc khai sáng đến nay đã mấy nghìn năm, luôn coi vận mệnh của dân tộc đất nước làm trách nhiệm của mình, chưa từng giữ mình thanh thản, càng không né tránh đời mặc sức tiêu dao. Lão phu rất tự hào khi có thể vạch định sách lược cho quốc gia mình. Thư cô nương là hậu bối ưu tú hiếm thấy của Thiên Môn, trí tuệ và nhan sắc không thua kém Tây Thi trong truyền thuyết, lẽ nào cô nương cam tâm mãi đứng cùng lớp hạ lưu Thiên Môn đầu đường cuối chợ, vĩnh viễn sống trong cảnh phàm tục ấy sao? Tây Thi có thể dựa vào sức mình điên đảo một đất nước, với tài năng và cơ trí của cô nương, lẽ nào không muốn để lại một trang sử hiển hách cho mình, trở thành đóa kỳ hoa danh truyền thiên cổ tiếp theo của Thiên Môn?”

Thư Á Nam im lặng không đáp. Cận Vô Song nhẹ nhàng nhấp một ngụm trà rồi lại nói: “Thế lực của Ngõa Thích ngày càng lớn mạnh, sớm muộn cũng có trận chiến với triều đình ta. Lúc đó chắc chắn sẽ có trăm vạn người chết, máu chảy thành sông, sinh linh đồ thán không biết đi đâu về đâu. Thư cô nương đã từng theo cha mình áp tiêu qua biên ải, chắc không còn lạ sự hung tàn của người Ngõa Thích? Hiện giờ trời xanh cho ta một cơ hội tốt, để tứ vương tử Lãng Đa - kẻ có thực lực, có khả năng kế thừa ngôi vị Đại Hãn nhất, say mê Thư cô nương. Còn cô nương lại là đệ tử Thiên Môn ta, đây chẳng phải đến ông trời cũng đang giúp Đại Minh ta đấy ư? Đặc biệt là đóa hoa tiên bất đắc dĩ được xăm lên mặt cô nương, lẽ nào không phải ý trời đang gọi mở để cô nương trở thành Thiên Môn chi hoa giống như Tây Thi?”

Thư Á Nam lòng dạ rối bời, nàng từng chứng kiến sự hung tàn của người Ngõa Thích, nàng từng khóc ròng trong thôn trang bị người Ngõa Thích đuổi cùng giết tận, cũng từng thầm cầu nguyện cho những bách tính vô tội bị chết thảm ấy. Nếu có thể chấm dứt tấn bi kịch này, nàng bằng lòng cống hiến tất cả những gì mình có. Hiện nay, một cơ hội như vậy đang bày trước mắt, nàng bất giác sờ lên đóa hoa bên má, ngửa mặt nhìn trời, lòng thầm hỏi: Trời xanh trên cao, lẽ nào người trả lại dung nhan tuyệt thế này cho con chính là để con đem tất cả khả năng của mình cống hiến cho thiên hạ? Lẽ nào con chính là Thiên Môn chi hoa mà số phận an bài?”

Ngọn nến đỏ lặng lẽ cháy thỉnh thoảng lại nổ tí tách khiến cả gian phòng càng thêm tĩnh mịch. Hai người im lặng ngồi đối diện nhau, không biết bao lâu sau, Thư Á Nam chậm rãi đứng dậy, nói bằng giọng khàn khàn: “Ông… để ta nghĩ kỹ đã.”

Cận Vô Song nhét tờ khế đất vào tay Thư Á Nam, khẽ tiếng nói: “Bất luận cô nương quyết định thế nào, thứ lão phu đã tặng cô nương sẽ không thu lại.”

Thư Á Nam hoang mang bước ra đầu phố, ngơ ngẩn không biết đi đâu. Lòng nàng không ngừng kêu gào: “A Tương, muội nên làm thế nào? Huynh mau nói cho muội biết!”

Ba ngày sau, Thư Á Nam đến trước mặt Cận Vô Song, bình tĩnh nói với lão già thần bí này: “Ta còn chút ân oán chưa kết thúc, đợi ta giải quyết xong sẽ đến nói quyết định của mình cho ông.”

Cận Vô Song không ngăn cản, đích thân tiễn Thư Á Nam ra tận cửa thư phòng. Đợi nàng rời khỏi, lão già áo xanh túc trực bên ngoài lo lắng hỏi: “Chủ nhân, liệu cô nương ấy có bằng lòng đi Ngõa Thích không?”

“Thư cô nương nhất định sẽ đi!” Cận Vô Song mỉm cười tự tin, thấy ánh mắt lão già áo xanh lộ vẻ khó hiểu, lão nở nụ cười đầy ngụ ý: “Bởi vì, cô nương ấy không phải truyền nhân Thiên Môn đích thực.”

Thư Á Nam trở về Dương Châu, giao lại khế đất Bình An tiêu cục cho những huynh đệ của phụ thân lúc sinh tiền, đồng thời nhờ họ giúp làm một chuyện lớn. Nàng âm thầm để ý trận giao phong giữa Nam Cung Phóng và Vân Tương, khi Vân Tương gặp phiền phức, nàng lập tức xuất hiện, giả làm bổ khoái cứu gã thoát khỏi nữ nhân kia, sau đó lại lặng lẽ theo sau Vân Tương đến Kim Lăng. Thấy Minh Châu chăm sóc Vân Tương chu đáo, lòng nàng chua xót nhưng cũng được an ủi, Vân Tương có Minh Châu chăm sóc, như vậy nàng có thể hạ quyết tâm rồi.

Nhưng trước lúc đi, nàng còn phải làm một chuyện cuối cùng, bởi vậy Thư Á Nam đi Hàng Châu tìm Tùng Phi Hổ, nhờ y giúp nàng diễn một màn kịch. Màn kịch diễn quá thành công, khiến Thiên Môn công tử Tương danh tiếng lẫy lừng bị lừa đến thổ huyết, từ nay về sau, gã sẽ có thể buông bỏ nàng. Lòng Thư Á Nam đau đớn bội phần nhưng cũng mừng cho gã, có điều nàng hơi hối hận vì đã tặng viên đá vũ hoa cho Minh Châu, đó là vật kỷ niệm duy nhất của nàng với Vân Tương.

Xe ngựa xóc nẩy đột ngột dừng lại, thì ra đã đến thành Bắc Kinh. Thư Á Nam vẫy tay từ biệt Tùng Phi Hổ, nàng không ngờ bằng hữu tiễn mình nghìn dặm cuối cùng lại là một nam nhân khi xưa từng hại mình, chuyện đời đúng là khó dự liệu.

Sau khi chia tay Tùng Phi Hổ, Thư Á Nam đến nơi ẩn cư của Cận Vô Song như đã hẹn, nàng bình thản nói với lão già thần bí: “Ta bằng lòng bái ông làm sư phụ, học thuật Thiên Môn làm điên đảo nước địch, ta bằng lòng trở thành Thiên Môn chi hoa!”

Cận Vô Song không ngạc nhiên trước quyết định của Thư Á Nam, lão gật đầu, khẽ vỗ tay, một phu nhân áo quần sang trọng quý phái từ ngoài lướt vào, nhìn bộ dạng đã quá tứ tuần, nhưng vẫn rất yêu kiều diễm lệ. Cận Vô Song chỉ vào quý phụ đó giới thiệu: “Nàng ấy tên Ôn Nhu, là Thoát Tướng trong thượng tứ tướng Thiên Môn, nàng ấy sẽ dạy con một số bản lĩnh mà nữ nhân cần phải nắm bắt được, con hãy học theo Ôn Nhu trước đi.”

Quý phụ nở một nụ cười đầy mê hoặc, khẽ khom người với Cận Vô Song: “Chàng yên tâm, A Nhu nhất định sẽ dạy cô nương ấy trở thành một sát thủ khuê trung khiến nam nhân mê mẩn đến chết.”

Đợi Ôn Nhu dẫn Thư Á Nam rời khỏi, lão già áo xanh lặng lẽ bước vào bẩm báo với Cận Vô Song: “Chủ nhân, Nam Cung Phóng cầu kiến.”

Cận Vô Song thoáng ngạc nhiên, nhưng vẫn gật đầu. Lão già áo xanh lại lặng lẽ bước ra, lát sau dẫn một kẻ ăn mày che kín mặt mũi, người ngợm bẩn thỉu vào. Tên ăn mày vừa bước vào đã quỳ sụp xuống đất, thất thanh khóc lớn: “Sư phụ! Người phải báo thù cho đệ tử!”

Cận Vô Song lạnh lùng hừ một tiếng: “Câm miệng! Ngã xuống từ đâu thì phải đứng lên từ đó, nếu nhờ ơn người khác mới có thể báo thù thì ngươi không phải đệ tử của ta!”

Tiếng khóc lập tức ngưng bặt, tên ăn mày ngẩng đầu lên, dưới làn tóc rối bù chính là vẻ mặt hoang mang sợ sệt của Nam Cung Phóng. Nghe Cận Vô Song quát một tiếng, y dần lấy lại vẻ mặt âm hiểm thuở nào, gật đầu nói: “Sư phụ dạy phải lắm, đệ tử nhất định dựa vào sức mình để đòi lại những gì đã mất!”

Cận Vô Song lúc này mới dãn mặt ra phần nào: “Chuyện thế nào? Con kể tường tận lại cho ta, không được bỏ qua bất cứ chi tiết nào.”

Nam Cung Phóng vội kể lại ngọn ngành chuyện tranh đấu của y với Thiên Môn công tử Tương, Cận Vô Song nghe xong mặt lạnh tanh, gõ bàn nghĩ ngợi: “Sư phụ biết rồi, con lui xuống đi.”

Nam Cung Phóng rời đi rồi, lão già áo xanh chần chừ lên tiếng: “Chủ nhân, tiểu nhân có một chuyện không biết có nên hỏi không?”

“Chuyện gì?” Cận Vô Song hỏi. Lão già áo xanh do dự nói tiếp: “Chuyện giao tranh giữa Nam Cung Phóng và công tử Tương, chúng ta cũng có phát giác, tại sao chủ nhân không giúp y một tay? Nam Cung Phóng là ái đồ của chủ nhân, lại nắm giữa chiếc chìa khóa thao túng một lực lượng giang hồ lớn mạnh như Nam Cung thế gia, tại sao chủ nhân lại ngồi nhìn y mất đi ngôi vị thừa kế?”

Cận Vô Song không đáp, chỉ hỏi lại: “Công tử Tương danh tính là gì?”

“Nghe nói hình như tên Vân Tương.” Lão già áo xanh nói tới đây chợt kinh hãi kêu lên: “Con trai của Vân Tiếu Phong cũng tên là Vân Tương, nhưng đã chết nhiều năm rồi, sao lại có sự trùng hợp như vậy?”

“Ta chưa từng tin vào sự trùng hợp.” Cặp mắt Cận Vô Song lóe lên tia sắc lạnh: “Đây là con cờ của Vân Tiếu Phong, lão đang dùng cái tên này khiêu chiến với ta. Ta không nhúng tay vào tranh đấu giữa công tử Tương và Nam Cung Phóng chính bởi đang đợi đối thủ truyền kiếp Vân Tiếu Phong, đợi lão lộ sơ hở. Đối đầu với Vân Tiếu Phong ai mà dám lơ là? Sự được mất của một Nam Cung thế gia quả thực chẳng thấm vào đâu.”

Lão già áo xanh gật gù vỡ lẽ, sau đó lại nói: “Lận Đông Hải vừa gửi tin về đã mất dấu Minh Châu quận chúa. Ngoài ra Liễu Công Quyền cũng đang điều tra tung tích của công tử Tương.”

Cận Vô Song khẽ hừ một tiếng: “Cảnh cáo lão già đó, để lão đừng lo quá nhiều chuyện.”

Lão già áo xanh cười khổ lắc đầu: “Với tính cách của Liễu Công Quyền, e rằng sẽ không nghe lời.”

Cận Vô Song cười gằn: “Liễu Công Quyền chẳng qua chỉ là một con chó già mẫn cán nhưng nhận lầm chủ. Giờ là lúc nên cho lão ăn vài roi để nhận rõ chủ nhân là ai rồi.”

Lão già áo xanh hiểu ý gật đầu: “Tiểu nhân sẽ đi sắp xếp.”

Hai người đang bàn bạc bí mật, chợt bên ngoài có tiếng bẩm báo: “Nhận được tin, Tố Diệu Tiên của Thiên Tâm Cư vừa qua đời.”

Cận Vô Song đang định bưng tách trà, nghe tin này bất giác run tay, không cẩn thận làm đổ tách trà trên bàn, lão như không nhìn thấy nước trà lênh láng khắp nơi, tâm sự trùng trùng lẩm bẩm: “Thiên hạ này sắp loạn rồi.”

Lão già áo xanh cũng biến sắc mặt, gật đầu thở dài: “Cuối cùng Ma Môn đã không còn kiêng kỵ gì.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3