Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 39

6

Cầm

quân

Hoàng hôn, Vân Tương lết cơ thể mệt nhọc trở về nhà, Minh Châu vội chạy tới đón mà lòng xót xa, hết giúp gã bưng trà, bê canh rồi còn bóp vai cho gã. Nàng biết một thư sinh yếu ớt chưa từng tập võ lại luyện quân cả ngày trời thì vất vả thế nào.

Tiêu bá giơ ngón cái tán dương Vân Tương, trầm trồ thán phục: “Ngày đầu tiên cầm quân công tử đã có thể thiết lập quân uy, thật khiến người khác bội phục.”

Vân Tương nhíu mày: “Lão nhìn thấy?”

Tiêu bá vội cười nói: “Công tử đã dặn, lão nô vốn dĩ không được đi theo, nhưng Minh Châu sợ công tử có bất trắc gì, nên nhờ lão phu theo sau âm thầm bảo vệ.”

Minh Châu cũng nói: “Chuyện này không thể trách Tiêu bá, đều là chủ ý của muội. Những quân sĩ đó kẻ nào cũng thô lỗ cộc cằn, lỡ như nhất thời manh động đả thương công tử thì có hối cũng muộn!”

“Sao muội có thể nói về binh sĩ như vậy?” Vân Tương sa sầm mặt: “Giang sơn Đại Minh cùng sự bình yên của bách tính đều phải trông cậy họ bảo vệ, một khi có chiến sự, những người hy sinh đầu tiên chính là họ, sao có thể bất kính với họ thế chứ?”

Minh Châu thè lưỡi ngượng nghịu: “Được rồi được rồi, muội nói sai rồi, xin lỗi huynh là được chứ gì? Biết huynh ngày đầu tiên cầm quân đã yêu quân như con rồi.”

Tiêu bá cười nói: “Nhưng mà trên thao trường, công tử chỉ huy quân dữ dằn lắm! Lão nô lo đám binh tướng ấy sẽ sinh lòng oán hận, lúc huấn luyện cản trở công tử đã đành, chỉ sợ họ ngấm ngầm báo thù, công tử sẽ gặp nguy hiểm.”

Vân Tương thở dài: “Không lo được nhiều thế đâu. Ta nào không biết việc cầm quân phải kết hợp cương nhu, vừa lập uy lại vừa thi ân, nhưng mười ngày sau đã phải phân cao thấp với Du Trọng Sơn, lấy đâu ra thời gian từ từ huấn luyện. Ta đành phải đem uy tín của Du Trọng Sơn và kỷ luật của quân Du gia lập uy, cương trước nhu sau, để các tướng sĩ trong vòng mười ngày trở thành những thuộc hạ đích thực nghe hiệu lệnh của ta.”

Tiêu bá ngạc nhiên nhìn Vân Tương: “Công tử trước giờ chưa từng cầm quân, học được từ đâu những yếu quyết này?”

Vân Tương cười đáp: “Đọc làu sách sử thì có thể học được rất nhiều thứ. Năm xưa danh tướng của Nam Tống là Ngu Doãn Văn gấp rút ra trận chiến đấu ở Thái Thạch Cơ, là quan văn lại lần đầu cầm quân, chính là dùng thuật lập uy trước rồi mềm mỏng sau, trong thời gian ngắn đã thu nạp hơn một vạn tướng sĩ Giang Hoài dưới trướng, nhờ vậy mới có chiến thắng Thái Thạch Cơ lưu danh trong sử sách.”

Tiêu bá khẽ gật đầu: “Ta xem như đã biết các thiên tài binh pháp như Gia Cát, Hàn Tín, Ngu Doãn Văn xuất thân thế nào rồi. Thì ra những kẻ bàn binh trên giấy, đa số đều thành Triệu Quát*, nhưng cũng có số ít những thiên tài thông minh tuyệt đỉnh, có thể một bước lên trời! Ta thấy công tử chính là thiên tài như vậy.”

Vân Tương cười xua tay: “Lão đừng để ta quá tự phụ, như vậy sẽ hại chết ta. Đúng rồi, ngày mai ta phải dọn vào ở trong quân doanh, chỉ có chung sống cùng binh sĩ mới có thể thật sự trở thành thống soái của bọn họ.”

Minh Châu vừa nghe vậy liền khăng khăng đòi giả nam làm tùy tùng đi theo, Vân Tương hết lời khuyên giải mới được, nhưng buộc lòng phải đưa Tiêu bá theo xem như điều kiện thỏa hiệp, một là để bảo vệ an toàn cho gã, hai là có thể thường xuyên cung cấp tin tức và tình hình của gã cho Minh Châu.

Kinh thành, trong thư phòng của Cận Vô Song, tấu sớ mới nhất của tổng binh hai tỉnh Giang Triết Du Trọng Sơn đang được đặt trên bàn lão. Cận Vô Song gõ bàn suy tư, nhíu mày tự nhủ: “Tên Du Trọng Sơn này rốt cuộc định làm gì?”

Lão già áo xanh đứng bên cạnh cười trừ: “Y muốn chọn lựa tinh binh trong số quân đóng ở duyên hải để thành lập đội quân cơ động đối phó giặc Oa, không bị bó buộc bởi địa giới, quyền hạn, một khi có tung tích của giặc Oa sẽ chủ động xuất kích, xoay chuyển cục diện bị động đối phó với giặc Oa hiện giờ.”

Cận Vô Song than thả “Ta đâu phải không biết tính quan trọng của một cánh quân cơ động độc lập đối phó giặc Oa. Nhưng một đội quân tính nhuệ không bị bó buộc về địa giới giống như con dao hai lưỡi, có thể đả thương người cũng dễ tổn thương mình. Một khi nó lớn mạnh sẽ uy hiếp đến sự bình yên của địa phương, thậm chí cả triều đình. Tên Du Trọng Sơn này đúng là đã đặt ra cho ta một vấn đề khó.”

Lão già áo xanh trầm ngâm nói: “Nghe nói chủ ý thành lập nhánh quân mới này là của công tử Tương.”

“Công tử Tương?” Cận Vô Song sững người, xoay chiếc nhẫn ngọc màu đỏ trên ngón tay trầm ngâm một lúc: “Vậy thì đồng ý với y, nhưng quân số phải hạn chế, nhiều nhất không được vượt quá sáu nghìn người.”

“Không vượt quá sáu nghìn người?” Lão già áo xanh thoáng ngạc nhiên: “Chỉ riêng nhánh quân Đông Hương của giặc Oa đã không dưới vạn người, sáu nghìn người có phải ít quá không?”

“Không ít chút nào!” Cận Vô Song cười nói: “Nếu công tử Tương là đệ tử của Vân Tiếu Phong, với tài năng của y, lấy sáu nghìn đối phó một vạn đã là thừa sức. Ngày mai ta sẽ xin hoàng thượng hạ chỉ, chấp thuận yêu cầu của Du Trọng Sơn, thành lập Tiễu Oa Doanh, quân số hạn chế ở sáu nghìn người, để Du Trọng Sơn làm chủ soái, vẫn kiêm nhiệm tổng binh Giang Triết.”

Tiếng trống hiệu lệnh uỳnh uỳnh vang lên trên thao trường, tạo thêm bầu không khí thực chiến cho buổi diễn tập. Doanh một và doanh bảy của quân Du gia đã tập hợp đầy đủ, chỉ đợi chủ tướng động viên lần cuối.

Vân Tương thúc ngựa chạy qua trước mặt hơn ba trăm quân sĩ lực lưỡng đứng ngay hàng thẳng lối, cuối cùng dừng ngựa ở ngay trước hàng ngũ, nói lớn với quân sĩ: “Ta biết mười ngày ta cầm quân, các ngươi đã chịu khổ chịu tội không ít, trong lòng ắt không phục kẻ mọt sách như ta. Chưa biết chừng một số người còn ôm lòng oán hận, tìm cơ hội báo thù ta. Ta hứa với các ngươi, chỉ cần các ngươi có thể chứng minh doanh một là tinh binh của quân Du gia trong buổi diễn tập hôm nay, chứng minh ta đã đánh giá sai và sỉ nhục các ngươi, ta có thể để các ngươi đánh ta một trận, để các ngươi trút căm phẫn. Nhưng hiện tại, hãy dùng hành động chứng minh cho ta trước!”

Dứt lời, Vân Tương giục ngựa trở về bục chỉ huy, nghe tiếng trống phía bục trọng tài đằng xa đột nhiên im bặt. Đó là tín hiệu bắt đầu buổi diễn tập. Vân Tương gật đầu với Ngưu Bưu đứng bên cạnh: “Đánh trống!”

Tiếng trống vang rền giục giã đoàn quân tiến lên. Hơn ba trăm tướng sĩ doanh một bước đi thẳng tắp, từ từ áp sát đối thủ. Binh khí trong tay họ tuy đã được đổi thành thương gỗ, đao tre chuyên dùng khi diễn tập, nhưng vẫn toát ra sát khí trùng trùng.

Đội hình doanh bảy đột ngột thay đổi trong lúc tiến lên, tách thành hai nhánh quân trái phải, tạo thế gọng kìm bao vây doanh một. Vân Tương thấy vậy, dùng tay ra hiệu cho Ngưu Bưu, Ngưu Bưu vung cờ lệnh, tiếng trống lập tức dồn dập hơn, doanh một theo đó chia thành hai đội nghênh chiến đối thủ. Khi khoảng cách hai bên chỉ còn dưới trăm bước, đội hình doanh bảy lại biến đổi lần nữa, từ trận thế gọng kìm hợp lại thành trận thế mũi tên, trông như một thanh kiếm sắc đâm thẳng vào trái tim doanh một. Cùng lúc này, các tướng sĩ doanh bảy cũng hét lớn tăng tốc lao tới, phát động tấn công đối thủ.

Du Trọng Sơn ngồi trên bục trọng tài, nhìn xuống chiến trường gật gù, giải thích cho các tướng lĩnh ở bên: “Điểm quân Triệu Văn Hổ của doanh bảy đúng là một tướng tài, chỉ trong ba trăm bước ngắn ngủi đã biến trận hai lần mà đội ngũ không hề rối loạn, có thể thấy doanh bảy ngày thường rèn luyện chiến thuật rất kỹ lưỡng.”

Một tham quân cười nói: “Y cứ đổi đi đổi lại như vậy, ngoài đẹp mắt thì có ý nghĩa gì?

“Ý nghĩa trong đây lớn lắm!” Du Trọng Sơn vừa nhắc tới binh pháp giọng đã đầy hứng khởi: “Y giống như cao thủ võ lâm đối đầu với kẻ địch, xuất thử một chiêu thăm dò, xem kẻ địch ứng phó thế nào, đợi nhìn rõ thực hư và điểm yếu của đối thủ sẽ tìm cơ hội xuất kích. Chuyện này nói thì đơn giản, nhưng muốn thay đổi được trận thế tùy ý như vậy, ngày thường không biết đã phải tốn bao nhiêu công phu. Nếu so sánh trận thế với kiếm chiêu của kiếm thủ, xuất chiêu biến chiêu nhanh hơn kẻ khác chính là mấu chốt để phân định thắng thua cao thấp. Triệu Văn Hổ dùng trận thế gọng kìm chia tách binh lực doanh một, rồi vào đúng lúc quan trọng lại chuyển sang thế mũi tên đột kích, giống như kiếm khách sau khi phát hiện sơ hở của đối thủ bất chợt xuất chiêu tất sát. Thời cơ tung đòn tối hậu này được nắm bắt rất chuẩn xác, hiện giờ doanh một muốn biến trận cũng đã muộn, ta quả muốn xem thử tên họ Vân sẽ ứng phó thế nào?”

Du Trọng Sơn tuy biết cân nhắc thân phận, chẳng thiết so tài với một thư sinh quèn, nhưng vẫn rất xem trọng trận chiến này. Y ngồi trên bục trọng tài quan chiến, nhưng tâm trí đã hoàn toàn đặt vào chiến trường, tưởng tượng ra tình cảnh mình thống lĩnh doanh bảy phát động đợt công kích cuối cùng.

Tiếng trống bên phía doanh một đột ngột ngưng bặt khiến ai nấy kinh ngạc. Tiếng trống quân doanh bảy được đà càng thêm khí thế, quân sĩ doanh bảy toát ra đấu chí ngất trời, tiếng thét xung phong bao trùm toàn thao trường, áp chế hoàn toàn khí thế của đối thủ.

Tiếng trống vừa dừng, tiếng hò hét của doanh một cũng tắt lặng, đội hình theo đó phân tán, hơn ba trăm binh sĩ chưa kịp giao phong với đối thủ đã chạy nháo nhác tứ phía, không thành hình lối, chưa chiến đấu đã tự tan rã.

“Doanh một thua rồi!” Tham quân bên cạnh Du Trọng Sơn hứng chí reo lên, toan truyền lệnh dừng diễn tập, Du Trọng Sơn vội giơ tay ngăn lại: “Đợi đã! Doanh một chưa mất một binh một tốt, sao đã tính thua được? Chờ xem thế nào.”

Binh sĩ doanh một dạt xa khỏi mũi xung kích của doanh bảy, chạy tán loạn khắp nơi. Doanh bảy hừng hực khí thế tấn công bất ngờ mất đi mục tiêu đột kích, giống như đường kiếm tất sát của kiếm thủ đánh vào khoảng không, cực kỳ khó chịu. Tiếng trống vốn hùng dũng của doanh bảy lúc này nghe chỉ thấy tức cười, không hề có sát khí.

Binh sĩ doanh bảy bất giác khựng lại thôi hò hét, nhưng vẫn giữ nguyên đội hình hoàn chỉnh. Quân doanh một lúc này phân tán tứ phía, lớn tiếng chế nhạo chửi mắng họ, có kẻ còn giơ ngón tay thối từ xa: “Đến đánh ta đi, lũ ngốc doanh bảy.”

Binh sĩ doanh bảy tức nổ đom đóm mắt, nhưng vẫn giữ nguyên kỷ luật chiến thuật, không thể phân tán đội hình đi đánh đám người khốn kiếp doanh một. Nếu giữ nguyên đội hình đuổi theo tản binh thì chẳng khác nào dùng nắm đấm đánh muỗi, không có tác dụng gì. Tốc độ trốn chạy của từng binh sĩ chắc chắn sẽ nhanh hơn nhiều so với tốc độ truy kích của một đội ngũ.

Trên bục trọng tài, các tướng nhìn nhau bàn tán xồn xao: “Chuyện gì thế này? Doanh một đang làm trò gì vậy?” Có tướng giận dữ đập bàn mắng lớn: “Bậy bạ, đúng là bậy bạ! Một trận diễn tập tử tế lại để gã họ Vân làm loạn rồi.”

Giữa các tướng đang phẫn uất, chỉ Du Trọng Sơn vẫn tập trung nghiêm túc quan sát buổi diễn tập, lòng dần thấy cơn lạnh quen thuộc. Các tướng đổ dồn mắt nhìn y, hiển nhiên đang đợi Du Trọng Sơn cho dừng màn kịch này. Du Trọng Sơn lắc đầu vẻ khó khăn, chua chát nói: “Đây là cách chiến đấu với giặc Oa, e là doanh bảy không xong rồi.”

Lời nói vừa dứt, tiếng trống doanh bảy đột ngột thay đổi, doanh bảy theo đó phân tán đội hình truy sát quân địch. Hiển nhiên chủ tướng doanh bảy đã không nhịn được, hạ lệnh cho quân sĩ tự do xuất kích.

Đúng lúc này, chợt nghe tiếng trống doanh một vang lên khiến nhiệt huyết tướng sĩ dâng trào. Quân sĩ doanh một đang tản mác khắp nơi nhanh như cắt tập hợp thành mấy chục nhánh quân nhỏ, tốc độ khiến người ta phải tặc lưỡi, xông vào đánh tơi tả quân doanh bảy đang phân tán, khiến họ chạy trối chết. Chủ tướng doanh bảy thấy tình hình như vậy, vội đánh trống tập hợp đội ngũ, nhưng tốc độ tập hợp chậm hơn quân doanh một rất nhiều, không cách nào thay đổi cục diện. Tiếp đó lại nghe tiếng trống doanh một thay đổi, mấy chục nhánh quân nhỏ phân tán trong nháy mắt đã tập hợp thành ba cánh quân trăm người, phát động phản công đánh vào chủ tướng của đối phương. Đội hình doanh bảy đã vỡ, chỉ còn trung quân trăm người vẫn duy trì trận thế phòng ngự, dẫu vậy cũng không thể địch lại đợt công kích mạnh mẽ của ba cánh quân trăm người, thoáng chốc đã lại vỡ đội hình, chủ tướng chỉ huy chiến trường tuy dũng mãnh, nhưng vẫn bị quân doanh một bắt tại trận.

Quân sĩ doanh một áp giải chủ tướng trên chiến trường, cũng chính là phó điểm quân doanh bảy đến trước bục trọng tài, tay phó điểm quân lớn tiếng nói với Du Trọng Sơn: “Doanh một vi phạm quy tắc diễn tập, lão tử không phục!”

Điểm quân Triệu Văn Hổ của doanh bảy lúc này cũng phóng ngựa tới trước bục trọng tài, Du Trọng Sơn nhìn ái tướng có phong thái nho nhã trầm tĩnh, mày kiếm mắt sáng trước mặt, hỏi: “Triệu Văn Hổ, ngươi phục hay không?”

Triệu Văn Hổ xuống ngựa, chắp tay vái: “Chủ tướng chiến trường doanh bảy bị bắt, quân sĩ tổn thất nặng nề, thua tâm phục khẩu phục.”

Trong tiếng hoan hô của quân sĩ doanh một, Vân Tương hai tay dâng bội đao của Du Trọng Sơn tới trước bục trọng tài, giao lại bội đao cho phó tướng của y, sau đó chắp tay nói với Du Trọng Sơn: “Thời hạn mười ngày đã đến, tiểu sinh xin giao trả bội đao cho Du tướng quân.”

Du Trọng Sơn gật đầu, nhận lại bội đao từ phó tướng, lớn tiếng tuyên bố: “Buổi diễn tập hôm nay, doanh một toàn thắng!”

Tướng sĩ doanh một nổ tràng hoan hô dậy sấm, phấn khích ùa tới Vân Tương. Tiêu bá nhớ ra lời hứa trước lúc diễn tập của Vân Tương, toan gồng mình bảo vệ, nhưng hơn ba trăm người ập tới như nước triều dâng, sao lão có thể ngăn được? Các quân sĩ chẳng nói chẳng rằng xúm vào túm lấy Vân Tương, ném cao lên không trung rồi đỡ lấy, lại ném cao lên… Mặt ai nấy tràn đầy niềm vui, phấn khởi từ tận đáy lòng. Trận thắng lợi đầy kịch tính đã hóa giải lòng căm phẫn và thù oán mười ngày vừa rồi, họ giờ không còn hận thù hay bất mãn vót Vân Tương, mà chỉ một lòng chân thành kính phục gã.

Ngưu Bưu chen vào rừng người, giơ tay đỡ Vân Tương, cẩn thận hạ gã xuống, sau đó cúi đầu vái: “Vân công tử, Ngưu Bưu ta lúc trước có nhiều mạo phạm, xin công tử thứ tội!”

Vân Tương vội đỡ lấy Ngưu Bưu: “Là nhờ Ngưu tướng quân ngày thường bồi dưỡng được một đội binh hùng tướng mạnh mới có đại thắng hôm nay.”

Ngưu Bưu xua tay lia lịa: “Chúng ta đã nhiều lần giao thủ với doanh bảy, bình thường khó phân thắng bại, chưa bao giờ có chuyện đại thắng bắt tại trận chủ tướng chiến trường của đối thủ như hôm nay. Có thể thấy tài dụng binh của Vân công tử cao hơn lão Ngưu ta nhiều.”

Vân Tương vẫn khiêm nhường, chợt thấy điểm quân doanh bảy Triệu Văn Hổ chen tới, quan sát Vân Tương một lúc, đoạn lạnh lùng nói: “Vân công tử dụng binh như thần, có cơ hội mạt tướng vẫn muốn so tài cao thấp với công tử.”

“Lão thất, e rằng ngươi không có cơ hội ấy đâu.” Ngưu Bưu cười khà khà: “Với tài năng của Vân công tử mà chỉ huy mỗi một doanh quân đúng là giết gà dùng dao mổ trâu. Du tướng quân biết cách dùng người, chắc chắn sẽ không để Vân công tử chỉ huy có một doanh quân cỏn con.”

Giữa lúc họ đang nói chuyện, phó tướng của Du Trọng Sơn là Trương Vũ Nhiên đã thúc ngựa tới, ôm quyền nói với Vân Tương: “Vân công tử, Du tướng quân có lời mời!”

Vân Tương bèn theo Trương Vũ Nhiên vào trong đại trướng trung quân, Du Trọng Sơn đang ngồi một mình rong trướng. Thấy Vân Tương bước vào, y lập tức đứng dậy nghênh đón. Không đợi Vân Tương thi lễ, y đã chắp tay bái: “Vân công tử quả nhiên có tài cầm quân, Du mỗ lúc trước có điều khinh dễ, mong công tử lượng thứ.”

Vân Tương vội đáp lễ: “Du tướng quân không cần khách khí.”

Hai người chào hỏi xong xuôi, phân chủ khách ngồi xuống. Du Trọng Sơn đưa một tấu sớ trên bàn cho Vân Tương, nửa mừng nửa lo, than: “Bản tấu Du mỗ dâng lên triều đình đã có hồi đáp, thánh thượng đồng ý thành lập Tiễu Oa Doanh, nhưng lại giới hạn quân số ở sáu nghìn người.”

“Sáu nghìn người?” Vân Tương cau mày, trầm ngâm nói: “Tuy sáu nghìn người hơi ít, nhưng nếu là binh hùng tướng mạnh lại biết cách sử dụng thì cũng đủ dùng.”

“Đủ dùng?” Du Trọng Sơn lắc đầu cười khổ: “Giặc Oa đều là kẻ dũng mãnh liều mạng, sức chiến đấu đơn lẻ vượt xa quân sĩ Đại Minh ta. Tuy ta có thể tùy ý lựa chọn binh hùng tướng mạnh các tỉnh để tổ chức thành Tiễu Oa Doanh tinh nhuệ, nhưng một chọi một cũng chưa chắc chiến thắng được giặc Oa. Chưa kể chỉ tính riêng nhánh quân Đông Hương Bình Dã Lang của bọn chúng đã có cả vạn người, muốn tiêu diệt đâu dễ như vậy?”

Vân Tương ung dung nói: “Giặc Oa tuy toàn kẻ dũng mãnh, nhưng xét cho cùng vẫn là hải tặc, tính kỷ luật trên chiến trường và tu dưỡng chiến thuật không thể bằng tướng sĩ Đại Minh. Chỉ cần chúng ta nắm được điểm yếu của bọn chúng thì chưa chắc không thể chiến thắng.”

Du Trọng Sơn khẽ gật đầu, nhìn Vân Tương cảm thán: “Công tử am hiểu đạo dụng binh, quả thực là nhân tài hiếm có. Du mỗ nay đã nhận lệnh thành lập Tiễu Oa Doanh, công tử dĩ nhiên sẽ là đệ nhất tham quân dưới trướng ta.”

Vân Tương thản nhiên cười nhạt, đứng dậy chắp tay chào: “Đa tạ ý tốt của tướng quân, có điều Vân mỗ không thể chấp nhận, cáo từ!”

Du Trọng Sơn thấy Vân Tương bỏ đi vội bật dậy can ngăn: “Công tử xin dừng bước! Nếu ngươi muốn đích thân cầm quân, ta có thể tiến cử để ngươi làm thiên hộ, thống soái một nghìn hai trăm người của ba doanh, được chứ?”

Vân Tương quay đầu nhìn Du Trọng Sơn, cười nhếch miệng: “Nếu Du đại nhân đã quên lời hứa ban đầu, Vân Tương còn lời gì để nói? Chỉ biết cáo từ!”

Du Trọng Sơn sa sầm mặt mày: “Công tử Tương! Tuy ngươi chỉ huy doanh một giành được toàn thắng trong diễn tập, nhưng chỉ huy một doanh quân hơn ba trăm người khác hoàn toàn với chỉ huy cả đội quân Tiễu Oa Doanh sáu nghìn người, ta sao có thể dễ dàng khinh suất, giao tính mạng sáu nghìn tướng sĩ cho ngươi? Hơn nữa ngươi cũng chưa đánh bại bản tướng quân, ta làm vậy không thể coi là trái lời hứa.”

Vân Tương bật cười ha hả, nhìn Du Trọng Sơn, điềm nhiên nói: “Chỉ cần tướng quân cho Vân mỗ một cơ hội, Vân mỗ cũng có ý muốn thử sức!”

Trước lời thách thức này, Du Trọng Sơn dù có giỏi tiết chế tới đâu cũng tức đến đỏ mặt phừng phừng, y trợn trừng hai mắt nhìn thẳng vào Vân Tương, trầm giọng nói: “Được! Ta sẽ cho ngươi một cơ hội! Sau một tháng nữa Tiễu Oa Doanh sẽ được thành lập, tiếp đó chúng ta mỗi người dẫn một doanh thủy quân và hai doanh bộ binh phân cao thấp trên biển. Nếu ngươi có thể thắng ta, ta sẽ nhường quyền chỉ huy Tiễu Oa Doanh cho ngươi!”

“Quân tử nhất ngôn!” Vân Tương giơ tay phải đập tay lập thệ cùng Du Trọng Sơn. Một giao ước chưa từng thấy đã hình thành giữa cuộc chuyện trò qua lại như thế.

Vân Tương trở về nhà, kể lại cho Tiêu bá giao ước của gã và Du Trọng Sơn, lão ngay lập tức lo sốt vó bóp tay liên hồi: “Chỉ huy một doanh quân khác hoàn toàn với chỉ huy ba doanh quân, huống hồ công tử còn chưa từng chứng kiến trận thủy chiến nào, sao có thể chỉ huy thủy quân được? Trong khi đó, Du Trọng Sơn đã trải qua trăm trận chiến, có dũng có mưu, hơn nữa tướng sĩ thuộc hạ đều hết sức trung thành, nhất mực phục tùng, công tử thắng bằng cách nào?”

Vân Tương tự tín đáp: “Các tiền bối trong Thiên Môn như Gia Cát, Hàn Tín, Tôn Tân lúc trước cũng chưa từng cầm quân đánh trận, nhưng vừa xuống núi đã có thể thống lĩnh toàn quân giành chiến thắng, xoay chuyển cục diện, có thể thấy việc bàn binh trên giấy, dùng miệng luận chiến cũng chưa chắc vô dụng. Tuy ta không dám so sánh với các tiền bối Thiên Môn ấy, nhưng cũng phải thử một lần mới cam lòng. Có điều ta không dám lấy tính mạng quân sĩ ra để thử, vì vậy muốn khích Du Trọng Sơn so tài với ta trên thao trường, như thế vừa có thể lập uy trong quân, cũng xem như một lần kiểm nghiệm năng lực cầm quân của mình. Nếu ta thua Du Trọng Sơn, dù y có giao Tiễu Oa Doanh cho ta, ta cũng không dám đem tính mạng các tướng sĩ đi mạo hiểm. Chỉ khi thắng được Du Trọng Sơn, ta mới có lòng tin chỉ huy toàn quân. Vì vậy với ta lần diễn tập này là một cuộc khảo nghiệm tất yếu phải có.”

Tiêu bá ngẫm nghĩ gật gù, không còn can ngăn quyết định của Vân Tương, chỉ hỏi: “Công tử cần lão nô làm gì?”

Vân Tương trải bút giấy, viết vội một số tên sách, sau đó đưa cho Tiêu bá: “Lão mau đi mua số sách này về, ta phải xem xem cổ nhân huấn luyện và chỉ huy thủy quân như thế nào. Bắt đầu từ bây giờ cho đến lúc chính thức diễn tập còn một tháng, mong rằng vẫn kịp.”

Những cơn gió nghịch chiều sắc lẹm như dao tạt mặt, cuốn tung bụi mù khiến người ta khó mở to mắt. Dẫu vậy, Thư Á Nam chẳng buồn để tâm, nàng quất roi thúc ngựa liên tục, chạy một mạch về hướng Đông Nam, hoàn toàn không tiếc sức! Thư Á Nam đã trốn khỏi Ngõa Thích được ba ngày, trên thảo nguyên rộng lớn không còn nhìn thấy bóng doanh trại của người Ngõa Thích, nhưng nàng vẫn không dám dừng nghỉ, chỉ mong có thể phi nhanh hơn, nhanh hơn nữa.

Ở cuối chân trời sau lưng Thư Á Nam, có một thớt ngựa cô độc cứ đuổi riết theo nàng. Tuy không nhìn rõ bộ dạng, cách ăn bận của nài ngựa, nhưng nàng biết đó là ai. Lần đầu tiên trông thấy gã tùy tùng bên cạnh Lãng Đa nàng đã cảm thấy y giống một con sói, song lại hơn loài sói mấy phần cẩu tính, vì vậy y một mực trung thành với chủ nhân mình.

Thư Á Nam thấy ngựa của mình mệt đến sùi bọt mép, đành phải dừng ngựa lại. Quay đầu nhìn Ba Triết đang đuổi gần tới, nàng tự nhủ với lòng: “Cứ chạy trốn mãi cũng không ổn, phải làm sao để cắt đứt cái đuôi đáng ghét này!”

Ngay phía trước có một rừng cây vốn rất hiếm gặp trên thảo nguyên. Thư Á Nam xua ngựa vào rừng, quan sát cây cối um tùm rậm rạp, khóe miệng nhếch lên một nụ cười mơ hồ.

Ba Triết từ xa nhìn thấy Thư Á Nam chạy vào rừng, bóng người bị cây cối che khuất hoàn toàn, nhưng y không hề lo nàng có thể thoát khỏi sự truy đuổi của mình. Trời cho y một cái mũi thính, tuy không sánh được với loài chó săn, nhưng cũng chẳng kém hơn là bao. Y nhờ cái mũi thính ấy còn có thể tìm tới hang hồ ly, huống hồ đây chỉ là một nữ nhân ngu ngốc hơn loài hồ ly nhiều.

Rừng cây đã ở trước mặt, hương thơm dịu nhẹ phảng phất trong không khí càng lúc càng rõ rệt. Ba Triết cho ngựa đi chậm lại, khịt khịt hai cánh mũi, từ tốn đánh ngựa vào rừng. Y giống như loài chó săn lần theo chút mùi hương cơ thể mong manh, bám sát con mồi. Đi sâu vào trong rừng, y bắt gặp một góc áo lộ ra từ bụi cây tối. Ba Triết nhếch miệng nở nụ cười đắc ý, nhảy phốc khỏi yên ngựa, lao bổ về phía bụi cây. Trên đời này, những con mồi có thể thoát được cú vồ của y quả thực rất ít.

Ba Triết tóm chặt mảnh áo, cất một tràng cười dài: “Ngươi ra đây cho ta!” đồng thời dụng lực kéo mạnh. Gần như cùng lúc, sau lưng y có tiếng gió rít, tốc độ cực nhanh, hoàn toàn không thua kém đòn tập kích trí mạng của cao thủ tuyệt đỉnh. Ba Triết cả kinh vội rút đao xoay người đỡ chiêu, chỉ thấy một nhánh dây leo to xù xì từ thân cây bắn tới, y không kịp né, đành liều giơ đao chặn. Đao chạm vào dây, Ba Triết chỉ cảm thấy một lực đẩy cực lớn không thể kháng cự từ thanh đao truyền tới, y bị ngã bay đi, thanh đao trong tay cũng bị đòn tấn công bất ngờ đánh văng sang bên.

Cơ thể vừa chạm đất, Ba Triết toan bật dậy, chẳng ngờ trong đám cỏ dại lá khô đột nhiên bắn ra một cái thòng lọng, siết chặt lấy hai chân y, tiếp đó y thấy đất trời xoay vần, người bị nhấc bổng treo ngược trên không, muốn lên chẳng được, muốn xuống cũng chẳng xong.

“Khốn kiếp! Ả đàn bà thối tha! Mau thả ta xuống!” Ba Triết gào bới chửi rủa, Thư Á Nam lúc này mới ung dung bước ra từ sau thân cây, lạnh lùng nói với y: “Nếu còn theo ta nữa, lần sau sẽ không tha cho ngươi dễ như vậy đâu!” Nói đoạn, nàng dắt ngựa của Ba Triết chậm rãi ra khỏi rừng.

“Đứng lại! Đừng đi! Thả ta xuống!” Ba Triết vừa gọi vừa giãy giụa, y không ngờ một nữ nhân bề ngoài yếu đuối lại cơ trí như vậy, biết tận dụng lực đàn hồi của nhánh cây làm bẫy, y càng hận bản thân sa vào một cái bẫy đơn giản của cánh thợ săn.

Ba Triết rút chủy thủ trong giày ra, mãi cũng cắt đứt được sợi thừng đang treo ngược mình, rơi phịch xuống đất. Y không màng thương thế trên người, lập tức đuổi theo hướng Thư Á Nam bỏ đi. Chỉ thấy ngoài bìa rừng, Thư Á Nam cưỡi ngựa dắt theo chiến mã của Ba Triết, phi thẳng hướng Đông Nam. Lúc này muốn đuổi theo ngựa của nàng đã quá muộn. Ba Triết nhìn theo bóng lưng Thư Á Nam, căm phẫn hét lớn: “Ta nhất định sẽ giết ngươi! Ta nhất định bắt ngươi phải trả giá gấp bội!”

Mặt trời nhô dần trên mặt biển, nhuộm lên những đợt sóng cuộn không ngơi nghỉ một màu vàng óng ánh. Trên bờ biển gió thổi rì rào, hơn một nghìn quan binh thuộc hai doanh bộ binh và một doanh thủy quân đứng nghiêm trang như tượng, chờ đợi lời căn dặn cuối cùng trước khi diễn tập.

Vân Tương bước lên đài điểm tướng, cúi nhìn hơn một nghìn quân sĩ Du gia phía dưới, nói lớn: “Mọi người hẳn đều đã biết, đối thủ lần này của chúng ta là Du tướng quân. Ta biết địa vị của Du tướng quân trong lòng các vị ở đây, nhưng nếu các người vì điều này mà có lòng sợ sệt hay kính nhường thì chính là đang sỉ nhục Du tướng quân. Mỗi một anh hùng đích thực, trên chiến trường đều mong dùng thực lực để chứng tỏ bản thân, chứ không muốn đợi đối thủ ban cho thắng lợi. Vì vậy, nếu các ngươi tôn trọng Du tướng quân thì hãy tập trung tối đa tinh thần, lấy toàn bộ dũng khí để chứng tỏ với ngài ấy, các ngươi không làm hổ thẹn sự chỉ bảo và huấn luyện của tướng quân.” Vân Tương quét mắt qua hơn một nghìn quân sĩ tráng kiện, cuối cùng dừng lại ở điểm quân Ngưu Bưu đứng hàng đầu doanh một, gã đột ngột hô lớn: “Dũng sĩ ở đâu?”

Ngưu Bưu ngây người, nhưng lập tức hiểu ý, cũng lớn tiếng đáp: “Có ta!”

Vân Tương lại hô: “Dũng sĩ ở đâu?”

Tướng sĩ của doanh một đã lĩnh ngộ, đồng thanh hô lớn theo Ngưu Bưu: “Có ta!”

Vân Tương nhìn vào toàn quân, rút kiếm lại hỏi: “Dũng sĩ ở đâu?”

“Có ta!” Hơn một nghìn tướng sĩ đồng loạt rút binh khí, giơ đao nhất tề hô vang. Vân Tương chỉ kiếm vào chiến thuyền của Du Trọng Sơn ngoài biển xa, hỏi lớn: “Giặc Oa ở trên biển kia, có dũng sĩ nào muốn cùng ta diệt chúng?”

“Có ta!” Hơn một nghìn người thuộc thủy, bộ binh đồng thanh đáp, khí thế dâng trào lấn át cả tiếng sóng biển. Vân Tương gật đầu hài lòng, vung kiếm ra lệnh: “Lên thuyền!”

Chiến hạm nhấp nhô theo cơn sóng dữ trên biển lớn. Vân Tương đứng ở đầu thuyền, nhìn các chiến thuyền dàn hàng ngang trước mặt, trầm mặc không nói. Sau lưng gã là điểm quân Trương Long của doanh thủy quân cùng Triệu Văn Hổ, Ngưu Bưu của doanh bộ binh, ba người đều đang chờ đợi gã bố trí chiến thuật. Tuy Vân Tương đã chứng tỏ khả năng dụng binh lục chiến, nhưng lần này là chỉ huy hơn mười chiến thuyền và hơn một nghìn liên quân thủy, bộ binh tác chiến trên biển, hơn nữa đối thủ lại là Du Trọng Sơn, một người dày dạn kinh nghiệm bách chiến, giỏi cả đánh thủy, đánh bộ, lòng ba tướng đều nơm nớp thấp thỏm, không dám nghĩ đến chiến thắng, chỉ mong đừng thua quá khó coi để Du tướng quân trách phạt.

“Đại chiến ở trước mắt, ba vị có cao kiến gì không?” Vân Tương thôi nhìn xa, quay đầu lại hỏi. Thấy ba tướng đưa mắt nhìn nhau không đáp, gã cười nói: “Sao thế? Đối thủ là Du Trọng Sơn thì các người bó tay chịu trói luôn rồi?"

Ba người trầm ngâm một lát, điểm quân Trương Long mặt mày nhẵn nhụi của doanh thủy quân chắp tay nói: “Lần này Du tướng quân dàn trận cánh én, theo binh pháp chúng ta hoặc cũng dùng trận cánh én để đối kháng, hoặc dùng trận trường xà để đột phá, nhưng Du tướng quân trước giờ dụng binh đều thiện biến, tạm thời vẫn chưa nhìn ra ngài ấy sẽ dùng thủ pháp gì sau đó, vì vậy mạt tướng không dám có ý kiến.”

Vân Tương quay sang nhìn Ngưu Bưu, y lập tức nói: “Ta ghét nhất là cái trò biến đi biến lại, theo ta chúng ta cứ đưa thuyền tới gần, dùng móc sắt móc thuyền địch, giống như bọn giặc Oa ném thừng từ cột buồm đu sang thuyền địch, sau đó cướp luôn thuyền!”

Vân Tương cười gật đầu, lại quay sang nhìn Triệu Văn Hổ. Điểm quân trẻ tuổi mặt mày nho nhã này nghĩ ngợi một hồi mới chậm rãi nói: “Với uy tín trong quân và kinh nghiệm chỉ huy chiến trường của Du tướng quân, nếu tấn công trực diện chúng ta chắc chắn sẽ thua.”

Vân Tương gật đầu tán đồng, dùng ánh mắt khích lệ Triệu Văn Hổ nói tiếp. Trải qua hơn một tháng tập luyện, gã không chỉ lập uy tín trong quân, mà còn nắm bắt rõ tính nết của từng tướng lĩnh. Điểm quân thủy quân Trương Long tuy thạo hải chiến, nhưng là người không có chủ kiến, chỉ quen nghe lệnh chấp hành. Ngưu Bưu và doanh một của y dũng mãnh có thừa nhưng cơ mưu chưa đủ, là kẻ thích hợp để xung phong tiền tuyến, nhưng không phải chiến tướng giỏi vạch sách lược. Chỉ có Triệu Văn Hổ trầm mặc kiệm lời rất có cơ mưu chiến lược, vì vậy Vân Tương muốn nghe ý kiến của y nhất.

Được Vân Tương khích lệ, Triệu Văn Hổ nghĩ ngợi nói: “Du tướng quân dụng binh trước giờ chắc chắn thận trọng, hầu như không có sơ hở, vì vậy mạt tướng cũng không có sách lược nào hay phá địch. Hiện chỉ có một kế, hai chữ thôi… kéo dài!”

“Kéo dài?” Vân Tương gật đầu đồng tình: “Kéo dài tới lúc nào?”

Triệu Văn Hổ ngẩng đầu quan sát sắc trời: “Chí ít cũng phải tới lúc mặt trời lặn, trời vừa tối, mặt biển sẽ thành một dải mông lung, mà thủy quân vốn không được huấn luyện đánh đêm nhiều lắm. Như vậy có thể làm suy giảm phần lớn ưu thế của đối thủ.”

“Lão thất, thế chẳng phải giở trò vô lại sao?” Ngưu Bưu oang oang khinh thị: “Lần diễn tập này mục đích chính là muốn huấn luyện khả năng tác chiến kết hợp thủy lục quân, có phải đánh trận thật đâu. Ngươi kéo dài tới lúc trời tối, tất cả chiến thuật trên biển đều không dùng được thì còn huấn luyện cái nỗi gì?”

“Không!” Vân Tương trầm giọng nói: “Diễn tập cũng như thực chiến, không thể coi diễn tập là diễn tập. Giặc Oa giỏi nhất là đánh đêm và tập kích, lần này chúng ta phải học theo chúng, hẵng kéo dài thời gian tới tối rồi tìm sơ hở mà hành động.”

Ba tướng không còn ý kiến khác, Vân Tương bèn quay đầu truyền lệnh: “Lệnh cho đội thuyền xoay đầu về hướng Nam, lui về sau hai mươi dặm.”

Lính truyền lệnh lập tức chạy lên cột thuyền, dùng cờ phát lệnh cho đội thuyền. Chốc lát sau, mười mấy chiến thuyền từ từ quay đầu ngược chiều gió, lui dần về sau.

Trên chiến thuyền ngoài mười dặm, tiêu binh phụ trách quan sát động tĩnh từ trên cột thuyền lớn tiếng bẩm báo: “Thuyền địch đã quay đầu!”

Phó tướng Trương Vũ Nhiên nghi hoặc lầm bầm: “Tên công tử Tương này chưa chiến đã lui, đang giở trò gì đây?”

Du Trọng Sơn cười nói: “Tiểu tử này coi diễn tập như thực chiến rồi, lại chơi trò của bọn giặc Oa.” Y nhìn hướng gió, quan sát sắc trời rồi nói với lính truyền lệnh: “Lệnh cho đội thuyền dừng lại, ở nguyên chỗ đợi lệnh. Ngoài ra phái thuyền nhỏ theo dõi thuyền địch, hồi báo mọi lúc.”

Trương Vũ Nhiên không hiểu bèn hỏi: “Tại sao chúng ta không đuổi theo?”

Du Trọng Sơn lắc đầu đáp: “Hướng gió hiện giờ không hợp, dù có đuổi cũng không đuổi kịp, nhưng tối nay hướng gió sẽ thay đổi, đến lúc đó ta xem tiểu tử kia chạy thế nào! Khà khà, muốn chơi trò đánh trận đêm với ta, tiểu tử ngươi còn non lắm.”

Sắc trời dần tối, Vân Tương trùm chăn ngủ vùi trong khoang thuyền cuối cùng cũng mở cửa bước ra, không bận tâm đến ánh mắt nôn nóng của mấy tướng lĩnh, gã tiến thẳng tới bên một lão ngư dân đang ở cạnh mạn thuyền, hỏi: “Mạnh lão bá, lão thấy thời tiết, hướng gió đêm nay liệu thay đổi thế nào?”

Mạnh lão bá là lão ngư dân được Vân Tương đặc biệt mời tới, lão sống hơn nửa đời trên biển, những chiến hữu cùng thời đa phần đều đã vùi thân dưới đáy biển, chỉ có lão vẫn ngoan cường sống tiếp. Chuyện này ngoài may mắn, phần nhiều dựa vào trực giác và kinh nghiệm khó bì của lão về sự thay đổi thời tiết trên biển. Tuy Vân Tương không biết nhiều về khí tượng biển, nhưng gã hiểu rõ đạo lý dùng người, nên mới cố tình chuẩn bị lễ vật long trọng nhất mời vị thánh sống của biển cả là Mạnh lão bá lên thuyền, trở thành tham mưu dự đoán khí tượng trên biển cho mình.

“Công tử xem kìa!” Mạnh lão bá bắc tay che trán chỉ về phía đường chân trời đằng xa: “Trên biển ngoài chim yến bay thấp ra không còn thấy loài chim nào khác, biển đêm nay chắc chắn sẽ dậy sóng, vào khoảng giờ Sửu.”

“Sức gió và hướng gió thế nào?” Vân Tương liền hỏi.

Mạnh lão bá nhìn mây đen trên trời, ngẫm nghĩ đáp: “Gió thổi theo hướng từ Đông sang Nam, sức gió không dễ đoán, nhưng sóng chắc sẽ đánh cao quá ba người.”

Vân Tương gật đầu, vẫy tay gọi mấy tướng lĩnh đang sốt ruột chờ sau lưng: “Vào trong khoang thuyền nghị sự.”

Tấm hải đồ cực lớn được trải trên bàn, Vân Tương chỉ vào bản đồ nói: “Hôm nay có gió lớn thổi từ Đông sang Nam, đối thủ của chúng ta cũng đang đợi cơn gió này để mượn sức gió đuổi đội thuyền ta, chúng ta sẽ cho họ cơ hội đó.” Vân Tương miệng nói, tay chỉ vào một góc vịnh trên bản đồ: “Ta đã từng đi qua vịnh nhỏ này, khi sóng gió ập đến, đây chính là một cảng dừng chân tránh gió an toàn. Chúng ta sẽ đưa thuyền tới đó, Du Trọng Sơn vốn tính dụng binh thận trọng, chắc chắn sẽ không dám truy kích mà thủ ở ngoài cửa vịnh thám thính thực hư trước. Lúc này chúng ta sẽ ở trong vịnh yên tâm nghỉ ngơi chỉnh đốn, dùng khỏe ứng mệt. Đợi khi họ không chịu được sóng gió trên biển tiến vào vịnh, chúng ta sẽ phát động phản kích.”

Triệu Văn Hổ nhìn bản đồ trầm ngâm mãi, sau mới lẩm bẩm: “Dù là vậy, chúng ta cũng không nắm chắc phần thắng.”

Vân Tương cười nói: “Triệu tướng quân không cần lo lắng, ngoài việc nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta còn một chiêu cuối, đánh chìm thuyền!”

“Đánh chìm thuyền?” Các tướng nghe vậy thất kinh. Vân Tương bèn giải thích: “Dĩ nhiên không phải đánh chìm thật. Chúng ta chỉ cần lấy xích sắt nối liền ba thuyền lớn, sau đó chặn ở cửa vào vịnh, dùng đèn tín hiệu báo cho Du Trọng Sơn chúng ta chủ động cho chìm ba thuyền này, cả đội thủy quân của ông ấy sẽ bị nhốt trong vịnh. Ta đã hỏi ngư dân, cửa vịnh ở đây nhỏ hẹp, ba thuyền bị chìm đủ để bịt kín lối ra vào.”

Điểm quân thủy quân Trương Long gãi đầu hồ nghi: “Diễn tập lần này hình như không có chiến thuật đánh chìm thuyền.”

“Phải coi diễn tập như thực chiến. Trong thực chiến, bất cứ chiến thuật nào cũng có thể dùng.” Vân Tương vừa dứt lời, Triệu Văn Hổ liền gật đầu nói: “Đúng vậy, đây chính là cách duy nhất để nhốt được Du tướng quân. Nhưng dù là vậy, chúng ta cùng lắm cũng chỉ đánh hòa.”

Vân Tương nở một nụ cười cao thâm khó đoán: “Nếu tất cả quân ta đều bị nhốt trong vịnh, dĩ nhiên là chỉ hòa, nhưng nếu hai doanh bộ binh của chúng ta lên bờ trước, đồng thời mai phục ở những nơi địa thế hiểm yếu, vậy thì trận chiến này có thể phân định thắng thua rồi.”

Ngưu Bưu và Trương Long đưa mắt nhìn nhau, còn chưa hiểu được ý tứ của Vân Tương, chỉ có Triệu Văn Hổ hiểu ra, vỗ tay khen: “Cao minh! Đợi màn đêm buồng xuống, chúng ta sẽ lén chở hai doanh bộ binh đến vịnh mai phục trước, sau đó dùng thủy quân làm mồi nhử, dụ Du tướng quân vào vịnh, cuối cùng cho đánh chìm thuyền bịt cửa vịnh. Lúc này hai doanh bộ binh của ta đã hoàn toàn chiếm cứ được các cứ điểm hiểm yếu, đội thuyền của Du tướng quân tiến thoái lưỡng nan, tự khắc sẽ thua.”

Vân Tương lắc đầu nói: “Trong diễn tập mà chúng ta làm được tới bước này đã xem như thành công về chiến thuật. Nhưng khi lâm trận thật sự, đối thủ có thể bỏ thuyền lên bờ, tập trung lực lượng đột kích tại một chỗ, như vậy chỉ có binh lực hai doanh sẽ không vây chết được họ.”

Triệu Văn Hổ cười đáp: “Công tử khiêm tốn rồi, nếu đối thủ là giặc Oa mà chúng ta làm được điểm này thì xem như toàn thắng ấy chứ.”

Vân Tương thấy mặt Ngưu Bưu và Trương Long bừng sáng, hiển nhiên đã hiểu được ý đồ của mình, bèn nói: “Các tướng nghe lệnh!”

“Có mạt tướng!” Ba người lập tức chắp tay đứng nghiêm. Vân Tương cầm lệnh tiễn hạ lệnh: “Khi màn đêm buông xuống, thủy quân đưa hai doanh bộ binh vào vịnh mai phục trước, đợi trời nổi gió thì giả vờ vòng cánh bên tập kích quân địch, đến khi thuyền địch phát hiện nghênh chiến thì dựa theo chiều gió rút lui, lái chiến thuyền vào vịnh. Chờ cho đội thuyền của đối thủ vào vịnh tránh gió, tiến hành đánh chìm ba chiến thuyền lớn, sau đó bỏ thuyền lên bờ. Làm được chuyện này xem như công đầu!”

Trương Long nhận lệnh tiễn, chắp tay thưa: “Mạt tướng tuân lệnh!”

Vân Tương lại cầm một lệnh tiễn khác nói với Ngưu Bưu và Triệu Văn Hổ: “Hai người dẫn quân mai phục ở nơi địa thế hiểm yếu, đồng thời đốt đuốc lửa trước trận địa làm nghi binh, nếu quân địch bỏ thuyền lên bờ thì toàn lực xuất kích.”

Ngưu Bưu nhận lệnh tiễn, vẫn còn băn khoăn hỏi: “Nếu chúng ta mai phục những nơi địa thế hiểm yếu thì đáng ra phải đốt lửa nghi binh ở nơi rộng rãi mới đúng chứ. Đốt lửa trước trận địa của mình há chẳng phải để lộ quân mai phục của chúng ta sao?”

Vân Tương giải thích: “Bờ vịnh địa thế thoáng rộng, chỉ dựa vào binh lực hai doanh quân không thể nào để ý được hết, vì vậy chỉ có thể chọn lọc. Đốt lửa ở điểm mai phục có địa hình hiểm yếu sẽ khiến nơi rộng thoáng trở nên tối hơn. Đối thủ không biết hư thực, theo lẽ thường sẽ bỏ chỗ tối chạy chỗ sáng, thiêu thân lao vào lửa cũng vì lẽ này. Ta đã nghiên cứu qua các trận chiến trong quá khứ của Du tướng quân, nắm chắc chín phần ông ấy sẽ lên bờ ở những nơi đốt lửa sáng.”

Ngưu Bưu bán tín bán nghi lẩm bẩm: “Đốt lửa ở nơi mình mai phục, để lộ hoàn toàn điểm mai phục trước mặt đối thủ, thế thì mai phục còn ý nghĩa gì nữa. Lão Ngưu đúng là chẳng hiểu, nhưng ta đã phục sát đất tài dụng binh của Vân công tử, lần này tất nhiên cũng sẽ thực hiện y lệnh.” Nói đoạn, y cầm lệnh tiễn chắp tay ra ngoài không chút do dự.

Đợi ba tướng rời khỏi, trong khoang chỉ còn Vân Tương và Tiêu bá, thoáng chốc đã vắng lặng như tờ. Ngập ngừng bao lâu sau, Tiêu bá mới nhỏ giọng hỏi: “Trận chiến này công tử có nắm chắc không?”

“Không,” Vân Tương thản nhiên đáp. “Ta giống như một lão thiên, dốc lòng sắp đặt cục diện. Ta chỉ có thể cố gắng sắp đặt sao cho cục diện này hoàn hảo nhất có thể, nhưng không dám chắc người ta có mắc bẫy hay không. Có điều ta đã nghiên cứu thói quen dụng binh của Du Trọng Sơn, với sự hiểu biết của ta về ông ấy, phần nhiều là cá sẽ cắn câu.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3