Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 53

6

Thần

tích

“Mời sư phụ dùng trà.” Ba Triết hai tay cung kính dâng tách trà Phổ Nhĩ trong veo tới trước mặt Tôn Diệu Ngọc. Hơn năm năm qua sống cùng bà ta, thái độ của y đối với sư phụ đã hoàn toàn thay đổi, hiện giờ y giống như bất cứ tên đệ tử ngoan ngoãn hiếu thuận nào, dốc lòng hầu hạ, nịnh bợ sư phụ ra mặt.

Tôn Diệu Ngọc nhận tách trà, nhấp một ngụm nhỏ, khẽ gật đầu nói: “Ừm, khá lắm, có tiến bộ hơn trước, biết dùng độc không xong, còn biết dùng vị trà Phổ Nhĩ để át đi vị chát của cỏ đoạn trường. Từ lần trước ngươi thất thủ đến giờ đã bao lâu rồi nhỉ?”

Ba Triết ỉu xìu đáp: “Nửa năm.”

“Nhẫn nhịn được tận nửa năm, cho thấy lòng kiên nhẫn cũng đã có bước tiến rõ rệt.” Tôn Diệu Ngọc gật gù khen ngợi, uống cạn một hơi tách trà Phổ Nhĩ đã bỏ thuốc như không có chuyện gì, sau đó đặt tách trà xuống, im lặng tủm tỉm nhìn tên đệ tử. Ba Triết ủ rũ cúi đầu, lặng lẽ đi sang bên cầm cây roi trúc to bằng ngón tay cái, hai tay giơ cao quá đầu, quỳ xuống trước mặt sư phụ. Tôn Diệu Ngọc tao nhã cầm lấy cây roi, cười hỏi: “Đây là lần thất thủ thứ mấy của ngươi rồi?” “Bẩm sư phụ, lần thứ mười tám.” Ba Triết hổ thẹn như thể luyện võ công chưa tới bị sư phụ trách phạt.

“Đã thất thủ mười tám lần mà vẫn giậm chân tại chỗ, ngươi nói có đáng bị ăn roi không?” Tôn Diệu Ngọc tủm tỉm cười hỏi, thấy Ba Triết xấu hổ gật đầu, bà giơ tay lên quất roi vào đầu y. Tuy động tác xuất thủ cực kỳ thanh thoát, thần thái ung dung tựa cầm sư gảy đàn, họa sư vẽ tranh, nhưng mỗi một roi đều đánh đúng vào chỗ yếu hại của Ba Triết, chẳng bao lâu mặt Ba Triết đã toác máu. Y vẫn thẳng lưng quỳ, không nhúc nhích.

“Tổ sư bà bà lại đánh Ba Triết sư thúc à?” Trong gian nhà gỗ trơ trọi phía sau hai người, một cô bé chừng bốn, năm tuổi nghe thấy tiếng roi lanh chanh chạy ra, luôn miệng cầu xin Tôn Diệu Ngọc: “Tổ sư bà bà, để Hương Hương đánh hộ cho lão nhân gia đỡ mệt nhé.”

Công tâm mà nói, trông bề ngoài Tôn Diệu Ngọc vô cùng trẻ trung, tuyệt đối không quá ba mươi tuổi, cách xưng hô “bà bà” quả thực không tương xứng với diện mạo ấy, nhưng bà cũng chẳng lấy làm phiền, ánh mắt nhìn đứa bé gái tràn đầy vẻ ấm áp hiếm thấy. Bà ném rơi xuống đất, cười mắng: “Ta còn không biết trò vặt này của nha đầu lém lỉnh nhà cháu sao? Cháu xót sư thúc, lần nào cũng ra mặt bảo vệ tên ngốc này!”

Cô bé đỡ Ba Triết đứng dậy, trợn tròn cặp mắt đen lay láy, cãi: “Sư thúc không ngốc chút nào, thúc ấy có thể bắt cho cháu con chim non đẹp nhất, còn dạy cháu cách bắt rắn rết độc, thậm chí biết làm thế nào mới tóm được hồ ly giảo hoạt nhất.” Cô bé nói xong lại quay sang Ba Triết dịu giọng khuyên nhủ: “Sư thúc, thúc đừng nghĩ cách giết tổ sư bà bà nữa, thúc không giết được bà bà đâu.”

Ba Triết ậm ừ đáp, vẻ mặt tiu nghỉu. Nếu nói lúc trước y muốn giết Tôn Diệu Ngọc vì lòng thù hận, thì hiện tại hoàn toàn là vì thói quen. Từ lâu y đã khuất phục trước võ công quỷ khốc thần sầu của bà ta, cam tâm tình nguyện bái bà ta làm sư phụ. Hiện giờ y tìm cách giết Tôn Diệu Ngọc chỉ vì muốn chứng minh với sư phụ, bản thân không phải là tên đệ tử ngu dốt, thế nhưng đến nay y vẫn thất bại.

Tôn Diệu Ngọc vẫy tay gọi đứa bé: “Hương Hương qua đây.” Đoạn quay sang Ba Triết, hỏi: “Quyền pháp lần trước vi sư dạy ngươi luyện đến đâu rồi?”

Ba Triết không nói không rằng, xuống tấn bắt đầu một mình luyện quyền. Tôn Diệu Ngọc dắt đứa bé đứng bên quan sát, thấy Ba Triết đã rũ sạch vẻ hung hãn và ác độc như loài sói trước đây, quyền pháp trở nên nhẹ nhàng mau lẹ, thân hình linh động thoăn thoắt như cánh bướm dập dờn. Luyện đến đoạn nhanh, chỉ thấy thân hình y biến hóa thành hàng chục bóng người, hư hư thực thực cơ hồ ở khắp mọi nơi, khiến người khác hoa mắt.

“Hay quá!” Cô bé phấn khởi vỗ tay hô lớn, Tôn Diệu Ngọc cũng khẽ gật đầu. Lúc sau, Ba Triết thu quyền dừng lại, người không thấy một hạt mồ hôi, hơi thở vẫn trầm ổn như cũ.

“Khá lắm! Ngộ tính luyện võ của ngươi hơn hẳn cái đầu ngốc nghếch kia đấy!” Lời Tôn Diệu Ngọc không biết là khen hay chê. Cô bé đứng bên cạnh theo dõi cũng thấy ngứa ngáy tay chân, hào hứng nghếch mặt lên: “Tổ sư bà bà, bộ quyền pháp lần trước bà dạy cháu, cháu cũng luyện được rồi.” Nói đoạn, cô bé hấp tấp chạy ra giữa sân, xuống tấn, nghiêm túc luyện quyền. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng bộ pháp và thân hình đều thoăn thoắt như én nhỏ, chưởng pháp thi triển có lề có lối, nhẹ nhàng như gió.

Lát sau, cô bé thu chưởng dừng lại, không đợi đứng vững đã vui vẻ nhảy tới kéo tay Tôn Diệu Ngọc: “Tổ sư bà bà, cháu luyện thế nào?”

Tôn Diệu Ngọc trìu mến quẹt mũi cô bé: “Giỏi giỏi giỏi! Giỏi hơn mẹ cháu nhiều, ta cứ lấy làm lạ, mẹ cháu thông minh là thế mà sao luyện võ lại ngốc như vậy?”

“Sư phụ lại đang chê trách Thanh Hồng phải không?” Sau lưng vang lên tiếng hỏi như hờn như dỗi, Tôn Diệu Ngọc và cô bé quay đầu lại nhìn, thấy Thư Thanh Hồng bận áo trắng như tuyết đang mở cửa gian nhà gỗ bước ra. Hơn năm năm trôi qua, nàng có phần đậm người hơn trước, đóa thủy tiên bên má vẫn rực rỡ như xưa, có điều vầng trán đã thêm nét điềm tĩnh dửng dưng, khiến nàng có vẻ trưởng thành lên nhiều.

“Mẹ!” Cô bé vui vẻ chạy tới chỗ Thư Thanh Hồng, sau đó lập tức quay sang Tôn Diệu Ngọc khoe thành tích: “Bộ chưởng pháp này con luyện ba lần đã thuộc hết rồi, mẹ luyện ba mươi lần cũng không ăn thua, ngốc hơn con.”

“Chỉ con thông minh đấy!” Thư Thanh Hồng vờ tức trợn mắt nhìn con gái, nhưng ánh mắt lại chan chứa yêu thương.

“Thanh Hồng, con có nhiều tâm tư quá,” Tôn Diệu Ngọc than phiền về nữ đệ tử: “Luyện võ cần phải có cái tâm trong sáng vô tư như trẻ nhỏ mới có thể hoàn toàn quên đi bản thân và nhập tâm vào đó. Chỉ như vậy mới thật sự lĩnh ngộ được sự tinh diệu trong võ công của bản môn.”

Thư Thanh Hồng buồn bã đáp: “Sư phụ dạy phải, hiềm nỗi bản tính của đệ tử như vậy, e rằng phải khiến sư phụ thất vọng rồi. May mà Hương Hương ngộ tính cao, tương lai không chừng có thể thay đệ tử kế thừa y bát của sư phụ.”

Tôn Diệu Ngọc nhìn nữ đệ tử hồi lâu, đột nhiên thở dài: “Con vẫn chưa thể đạt được cảnh giới lòng sáng lặng như gương.”

Thư Thanh Hồng cúi đầu, nhẹ nhàng hỏi: “Liệu lòng sư phụ có thật sự lặng như gương không?”

Tôn Diệu Ngọc nín lặng, hồi lâu không nói nên lời. Trên gương mặt hai sư đồ đều phảng phất vẻ trầm lắng, biểu cảm cô quạnh và lạc lõng ấy có mấy phần tương tự. Cơn gió núi buốt lạnh, thổi tung tà áo và mái tóc dài của Tôn Diệu Ngọc, trông bà tỏa ra khí chất siêu phàm thoát tục.

Một thớt khoái mã vun vút phi tới thu hút ánh mắt hai người, khiến họ lấy làm kỳ lạ. Vì muốn tránh xa hồng trần thế tục, Tôn Diệu Ngọc đã cố tình chọn vùng rừng núi hẻo lánh này, bình thường ngoài tiều phu nông dân ra thì hiếm khi trông thấy bóng người. Lát sau, khoái mã chạy tới gần, hai người mới nhìn rõ, trên lưng ngựa là một đệ tử Thiên Tâm Cư đeo Thiên Tâm Kiếm. Nàng thúc ngựa tới trước mặt họ, rồi chẳng đợi ngựa dừng hẳn đã nhảy phắt xuống, móc trong ngực áo ra một lá thư, ôm quyền vái chào Tôn Diệu Ngọc: “Tôn sư bá, Sở sư tỷ có thư gửi tới.”

Tôn Diệu Ngọc nhận thư, xé ra xem qua, sau đó gật đầu bảo nàng: “Ta biết rồi, về nói lại với cư chủ các ngươi, đến lúc đó ta nhất định sẽ đi.”

Thiếu nữ thở phào, lập tức cáo từ rời đi. Thư Thanh Hồng thấy sắc mặt sư phụ nghiêm trọng, vội hỏi: “Trong thư viết gì vậy ạ?”

Tôn Diệu Ngọc hờ hững nói: “Tháng sau, Ma Môn sẽ tổ chức nghi thức Thiên Giáng Thánh Hỏa gì đó ở đỉnh Tung Sơn, mời võ lâm đồng đạo tới xem lễ. Thiên Tâm Cư cũng nhận được lời mời, vì vậy Sở Thanh Hà gửi thư mời chúng ta cùng đi. Chúng ta đã ẩn cư ở đây hơn năm năm, Hương Hương cũng sắp năm tuổi rồi mà vẫn chưa thấy thế giới bên ngoài. Lần này chúng ta sẽ cùng đi Tung Sơn một chuyến, dắt theo nó ra ngoài mở mang tầm mắt.” Nói tới đây, bà quay đầu nhìn thẳng vào mắt đệ tử: “Thời gian tới chắc chắn sẽ gặp phải một số người con muốn quên, lúc đó con định ứng phó thế nào?”

Thư Thanh Hồng chỉ biết cười khổ: “Sư phụ yên tâm, lòng phàm này đã chết, đệ tử sẽ không bị rối lòng vì bất cứ ai.”

“Nếu gặp phải cố nhân đeo bám, con xử trí ra sao?” Tôn Diệu Ngọc lại hỏi. Thư Thanh Hồng bình tình đáp: “Tuy ngộ tính võ học của đệ tử không cao, nhưng ứng phó mấy chuyện nhỏ này vẫn thừa sức, sư phụ không cần lo lắng.”

“Vậy được, ngày mai chúng ta sẽ xuất phát đi Tung Sơn, xem thực hư Thiên Giáng Thánh Hỏa của Ma Môn,” Tôn Diệu Ngọc quay đầu gọi Ba Triết: “Ngươi mau đi thuê một cỗ xe ngựa về đây, sáng sớm mai chúng ta lên đường.”

Ba Triết đáp một tiếng, lập tức phi xuống núi. Bóng y lao người đi đã không còn giống một con sói cô độc mà càng lúc càng giống một con chim ưng tung cánh bay nhẹ nhàng.

Bóng chiều đã tàn, sắc trời đỏ như máu, Vân Tương áo trắng phấp phới, chắp tay đứng bất động trên đỉnh núi, ngửa mặt nhìn bầu không mênh mông. Bên cạnh gã có một đứa trẻ chừng năm, sáu tuổi - Triệu Giai, con trai của Nam Cung Phóng và Triệu Hân Di.

“Vân thúc thúc, thúc đang nhìn gì vậy?” Đứa trẻ mở to cặp mắt đen láy, nhìn vẻ mặt cô quạnh tịch mịch của Vân Tương, lại nhìn bầu trời mênh mông vô tận, ánh mắt đầy tò mò.

“Thiên tâm.” Vân Tương khẽ khàng thốt ra hai chữ, vẻ mặt trang nghiêm thành kính. Đứa trẻ nhìn kỹ lại bầu trời, tò mò hỏi: “Trời cũng có tâm sao?”

“Có! Đương nhiên là có!” Vân Tương xoa đầu đứa trẻ, dịu dàng nói: “Mẹ con đang sống trên đó, rất nhiều người lương thiện như mẹ con đều đang ở đó, âm thầm phù hộ cho chúng ta.”

Đứa trẻ ồ một tiếng, chăm chú nhìn lên bầu trời. Nó cảm thấy ánh mắt mình như xuyên qua tầng mây, nhìn thấy người mẹ nó ngày đêm mong nhớ.

Sau lưng chợt vang lên tiếng bước chân lịch bịch, Vân Tương quay đầu nhìn, thấy A Bố đủng đỉnh chạy tới, đứng lại cách gã ba thước, bủn xỉn khẽ ve vẩy đuôi. Gã cầm tay dắt đứa trẻ, nói: “Tiêu bá về rồi, đi xem ông ấy mang thứ gì hay về cho con.”

Đứa trẻ reo vui, kéo tay Vân Tương chạy thẳng xuống núi. A Bố theo sát phía sau hai người.

Trở về gian nhà trúc thanh vắng giữa lưng chừng núi, đứa trẻ nôn nóng buông tay Vân Tương, huỳnh huỵch chạy tới đẩy cửa gọi lớn: “Tiêu bá! Con quay của con có mua được không?”

Trong nhà vọng ra tiếng cười đùa hỉ hả của hai người già trẻ. Vân Tương nở nụ cười ấm áp, chậm rãi bước lên nhà, còn chưa vào cửa đã thấy Tiêu bá ra đón, vui vẻ nói: “Công tử, công tử xem ai tới này!”

Một thiếu niên cao lớn rắn rỏi bước ra, trông trạc mười bảy mười tám, mặt mũi sáng sủa, cử chỉ ung dung, nhưng có vẻ hơi ngượng nghịu, mang nét non nót rụt rè đặc trưng của tuổi thiếu niên. Cậu vừa nhìn thấy Vân Tương, mắt ánh lên mừng rỡ, vội vã ôm quyền vái: “Vân đại ca!”

Vân Tương nhìn kỹ một hồi, cuối cùng cũng nhận ra thiếu niên trước mặt, bất giác reo lên: “Đệ là A Nghị? La Nghị?” Thấy thiếu niên cười gật đầu, Vân Tương vội đỡ cậu dậy, luôn miệng cảm khái: “Mấy năm không gặp đã lớn như vậy rồi? Tĩnh Không sư phụ trên trời có linh nhất định sẽ rất vui.”

Thì ra thiếu niên không phải ai khác mà chính là đệ tử tục gia La Nghị của Thiếu Lâm Tĩnh Không đại sư. Tĩnh Không đại sư trước lúc viên tịch đã giao phó cậu và Tế Sinh Đường cho Vân Tương. Nhưng từ lúc chia tay La Nghị ở chân núi Thiếu Thất đến nay hai người chưa từng gặp lại, Vân Tương chỉ biết cậu đang giúp sức cho Tế Sinh Đường. Mấy năm không gặp chẳng ngờ cậu đã lột xác từ một đứa bé choai choai thành một thiếu niên cao lớn có phần rụt rè.

Vân Tương dẫn cậu vào nhà, Trương Bảo vội dâng trà lên. Y là đệ tử của Phong Lăng Vân, từ lần chống giặc Oa mấy năm trước đã cùng sư phụ đi theo gã, sau này lại cùng gã rời khỏi Tiễu Oa Doanh. Sau khi Phong Lăng Vân chết trong tay Liễu Công Quyền, y học theo sư phụ ở lại bên cạnh, dốc sức làm việc cho Vân Tương.

Vân Tương và La Nghị hỏi han tình hình nhau từ sau lần cáo biệt năm nào, lòng cảm khái vô cùng. Vân Tương thấy trán La Nghị hằn vẻ âu lo, lòng như đang đè nén tâm sự, thì nóng ruột hỏi: “A Nghị, có phải Tế Sinh Đường gặp chuyện gì không? Đệ từ năm mười ba tuổi đã phải giúp lo liệu công việc của Tế Sinh Đường, quả thực làm khó cho đệ quá.”

La Nghị bẽn lẽn cười: “Tế Sinh Đường không chỉ từng cứu sống gia đình đệ, mà còn là tâm nguyện lớn cả đời của sư phụ, đệ hy vọng Tế Sinh Đường có thể cứu được nhiều người hơn nữa.” Nói tới đây, cậu thoáng ngập ngừng: “Tế Sinh Đường thì không xảy ra chuyện gì, có điều Ma Môn gần đây hoạt động mạnh ở vùng Hà Nam, từ sau đợt hạn hán năm ấy, Ma Môn đã lợi dụng chiêu bài cứu tế nạn dân để cắm rễ ở đây, thu hút không ít người dân không hiểu chuyện vào giáo phái. Mấy năm nay chúng hết lần này đến lần khác gõ cửa Tế Sinh Đường, ý đồ chiêu mộ Tế Sinh Đường về dưới trướng, hòng mua chuộc lòng người. Tháng sau chúng còn định cử hành nghi thức dẫn lửa trời gì đó ở đỉnh Tung Sơn, để khuếch trương thứ gọi là thần tích nhằm mê hoặc dân chúng. Thiếu Lâm không dám đứng ra vạch trần sự giả dối bên trong, thật khiến người ta chỉ biết thở dài.”

“Dẫn lửa trời?” Vân Tương lấy làm hồ nghi: “Đó là trò gì vậy?”

La Nghị trầm ngâm đáp: “Hằng năm Ma Môn đều tổ chức nghi thức này để chứng minh chúng được thần linh phù hộ, kết hợp thu nạp thêm giáo đồ. Đệ đã trà trộn vào xem không chỉ một lần, kể cũng kỳ lạ, một tòa tháp lưu ly được gọi là thần khí, mỗi lần đến chính Ngọ, thời điểm nắng chói chang nhất, chất cháy trong tháp sẽ tự nhiên bốc cháy mà không cần châm lửa, giống như là lửa trời giáng xuống nhân gian thật vậy. Tuy đệ biết đó chẳng qua chỉ là trò lừa bịp, nhưng nghĩ mãi không hiểu chúng thực hiện thế nào, đâu là bí mật ẩn chứa bên trong?”

Vân Tương thoáng ngạc nhiên: “Không lửa mà tự cháy? Kỳ diệu như vậy thật sao?”

La Nghị gật đầu: “Đệ tận mắt chứng kiến, mỗi lần người chủ tế Ma Môn bỏ văn tụng vào trong tháp lưu ly, sau đó các giáo đồ đồng thanh tụng kinh, vào lúc mặt trời giữa trưa gay gắt nhất, tia sáng chiếu thẳng vào tháp lưu ly, văn tụng sẽ từ từ bốc khói, bùng lửa, cuối cùng đốt cháy dầu trong tháp. Tháp lưu ly còn tỏa ra ánh sáng chói lọi trong ánh lửa, đó cũng là lúc nghi thức đến hồi cao trào nhất. Các giáo đồ đồng loạt vái lạy, đồng thanh ca tụng trời giáng lửa thần, rạng danh thánh giáo. Tên Bái Hỏa giáo chắc bắt nguồn từ đây.”

Vân Tương nghĩ ngợi một lát, rồi bỗng nhiên cười phá lên: “Nghe đệ nói ta quả có chút tò mò, trên đời này lại có chuyện thần kỳ như thế sao? Ta cũng muốn đi xem thử.”

La Nghị cười nói: “Lễ Thánh Hỏa lần này Ma Môn còn mời các đại môn phái tham gia, có lẽ muốn chính thức tuyên bố sự trở lại của mình với võ lâm. Vân đại ca nếu muốn đi xem cũng không cần giả dạng thành giáo đồ lẻn vào giống đệ lúc trước.”

Vân Tương trầm ngâm nói: “Tung Sơn đứng đầu ngũ nhạc, lại ở phía trên Thiếu Lâm Tự. Hành động lần này của Ma Môn hiển nhiên là muốn lập uy trên giang hồ, dã tâm cuồng vọng thống lĩnh thiên hạ đã bộc lộ rõ ràng. Chỉ không biết giang hồ phản ứng thế nào?”

La Nghị than: “Thiếu Lâm vốn là trụ cột của võ lâm, Ma Môn giở trò ngay trên đỉnh Tung Sơn mà Thiếu Lâm không ra mặt thì người khác hơi đâu lo chuyện bao đồng?”

Vân Tương ngẫm nghĩ hồi lâu, đột nhiên cười nhạt nói: “Thế lực Ma Môn một khi lớn mạnh, thiên hạ ắt không được yên ổn. Khấu Diệm dã tâm trùng trùng, hễ mọc đủ vây cánh chắc chắn sẽ kéo cả Trung Nguyên vào cảnh chiến loạn. Xem ra lần này ta không thể không đi rồi, tuy chưa chắc đã ngăn cản được hành động của Ma Môn, nhưng chí ít cũng phải nghĩ cách vạch trần thủ đoạn mị dân của chúng.”

“Hay quá!” La Nghị vỗ tay nói: “Vân đại ca thông minh tuyệt đỉnh, chắc chắn có thể vạch trần màn kịch của chúng để những giáo đồ bị lừa phỉnh kịp thời tỉnh ngộ, trở về nẻo chính!”

Tiêu bá ở bên cạnh lo lắng xen vào: “Công tử, Ma Môn hành sự tàn bạo, nhân tài trong giáo lại đông, thất đại trưởng lão ai nấy có tuyệt kỹ sở trường riêng, bốn vị Quang Minh sứ cũng văn võ song toàn, cộng thêm môn chủ Khấu Diệm nhất đại kiêu hùng, bất luận võ công mưu lược đều hiếm có đối thủ. Chúng ta tùy tiện công khai đối địch với chúng, quả thực là…” Tiêu bá nói tới đây chợt ngừng lại, nhưng ý tứ phía sau ai cũng hiểu.

Vân Tương khẽ than: “Ta nào phải không biết thế lực của Ma Môn, chỉ dựa vào sức lực nhỏ bé của chúng ta, giống như kiến đòi giết voi, quả là hơi xa vời. Nhưng dã tâm nhiễu loạn thiên hạ của Ma Môn đã bộc lộ rõ, Vân Tương ta nếu không đứng ra ngăn cản thì e rằng chẳng còn ai đứng ra nữa. Trên đời này có những chuyện biết không thể nhưng vẫn phải làm!”

La Nghị nhìn Vân Tương bằng ánh mắt ngưỡng mộ, ôm quyền nói: “Lúc trước chỉ biết Vân đại ca nhân hậu, cơ trí hơn người, giờ mới hay tấm lòng Vân đại ca hoàn toàn không kém các bậc nghĩa hiệp xưa kia. Có Vân đại ca bày mưu vạch kế, La Nghị sẽ liên lạc với các võ tăng nhiệt huyết trong Thiếu Lâm Tự, xung phong vào hiểm trận cùng đại ca!”

Vân Tương gật đầu cảm động, xua tay cười nói: “Chúng ta đâu phải đi đánh trận, không cần huy động nhiều người như vậy. Lần này Ma Môn chỉ muốn thị uy với các môn phái võ lâm, chúng ta chỉ cần vạch trần trò lừa đảo Thiên Giáng Thần Hỏa của chúng thì có thể lột được cái vỏ thần thánh phù hộ chúng khoác lên người. Tất cả những tà giáo mượn danh thần thánh lừa gạt dân chúng, đều có nhược điểm lớn nhất chính là tính chất thần bí siêu tự nhiên. Chỉ cần vạch trần được điểm này, bản chất của chúng sẽ bị phơi bày hết.” Nói tới đây, Vân Tương quay sang hỏi Tiêu bá: “Ta đã đọc qua các điển tịch của Ma Môn, trong đó có nói thần Quang Minh chúng tôn sùng có bốn đức tính tiêu biểu, là thanh tịnh, quang minh, đại lực, trí tuệ, danh hiệu của bốn Quang Minh sứ có phải bắt nguồn từ đây không?”

Tiêu bá gật đầu đáp: “Công tử đoán rất phải, tên của bốn Quang Minh sứ bắt nguồn từ chính bốn đức tính của thần Quang Minh. Họ lần lượt là Tịnh Phong, Minh Nguyệt, Lực Hoành, Tuệ Tâm. Nhưng trên giang hồ đến nay mới chỉ nghe qua tên chứ chưa từng gặp người thật. Nghe nói chủ trì nghi thức dẫn lửa trời sắp tới chính là bốn Quang Minh sứ này.”

Cặp mắt Vân Tương lóe lên thần thái khác lạ, gã nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ, lạnh lùng nói: “Tiêu bá chuẩn bị đi, ngày kia chúng ta sẽ xuất phát đi Tung Sơn, gặp thử tứ đại Quang Minh sứ Ma Môn trí dũng song toàn trong truyền thuyết.”

“Hay quá!” La Nghị phấn khởi nhảy cẫng lên, ôm quyền nói với Vân Tương: “Đệ sẽ về trước liên lạc với võ tăng Thiếu Lâm Tự, tiếp ứng cho công tử!”

Xe ngựa chậm rãi chạy trên đường cái ngoằn ngoèo, Trương Bảo thật thà chất phác ngồi trên càng xe đang quất roi cho ngựa chạy thong dong, vẫn còn một thời gian nữa mới đến lễ Thánh Hỏa của Ma Môn, vì vậy y cũng không gấp gáp gì. Kỹ thuật dùng roi của y tuy không bì được với sư phụ Phong Lăng Vân, nhưng vẫn thừa sức đánh xe.

Trong xe, Vân Tương nhàn nhã nửa nằm nửa ngồi, uể oải lật quyển Lã Thị thương kinh trong tay. Gã đã thuộc làu quyển sách này và áp dụng những tinh túy bên trong vào việc kinh doanh. Ở Kim Lăng, Dương Châu, Mẫn Nam, Sơn Tây… hiện đang có mấy chục tiền trang và cửa hiệu do gã bí mật mở, đem ngân lượng kiếm được từ việc bán trí tuệ bước đầu đặt chân vào lĩnh vực kinh thương, đồng thời chiêu mộ những văn nhân có đầu óc làm ăn nhất làm chưởng quầy, giúp mình lo liệu chuyện buôn bán ở mỗi nơi. Gã biết các khoản chi khổng lồ của Tế Sinh Đường bắt buộc phải có nguồn tiền dồi dào để duy trì, chỉ dựa vào thiên thuật kiếm tiền không phải là kế lâu dài.

Trong quá trình bước chân vào thương trường, Lã Thị thương kinh đã chỉ dẫn và giúp đỡ gã rất nhiều, thêm vào bản tính thông minh và ngộ tính trời sinh, chỉ trong năm năm ngắn ngủi, đế chế thương nghiệp của gã đã bắt đầu có quy mô. Những mối quan hệ tốt đẹp với hắc đạo Giang Nam và các hào môn Giang Nam như Nam Cung gia, Tô gia khiến chuyện làm ăn ở Giang Nam của gã thuận buồm xuôi gió. Hiện giờ, gã đang suy tính mở rộng đường biên giới đế quốc thương nghiệp của mình ra phúc địa Trung Nguyên. Luận công hay tư, gã đều buộc phải đối mặt với sự uy hiếp của Ma Môn.

Đến lúc quyết chiến với Ma Môn ở Trung Nguyên rồi! Vân Tương buông sách, mắt lóe sáng. Sau khi Minh Châu và Thư Á Nam lần lượt bỏ đi, gã bắt đầu vùi mình vào sự nghiệp, chỉ có đắm chìm trong những hoạch định tính toán, những cân nhắc đắn đo hay vắt óc suy nghĩ bất kể ngày đêm, gã mới có thể tạm thời quên đi nỗi đau trong lòng. Với sách lược gã vạch ra, đế chế thương nghiệp của Vân Tương phát triển lớn mạnh ở Giang Nam với tốc độ kinh người, đồng thời không ngừng vươn ra tứ phía, trở thành một đế chế bí mật không thua kém bất cứ bang hội nào, thậm chí có không ít bang hội đã được bí mật thu nạp về dưới trướng gã, trở thành người bảo vệ cho sản nghiệp của gã. Chỉ là thủ lĩnh của những bang hội này phần lớn đều không biết lão đại thật sự của họ chính là Thiên Môn công tử Tương mấy năm trước hô mưa gọi gió trên giang hồ, giờ lại đang im hơi lặng tiếng, mai danh ẩn tích.

Việc làm của con người, lấy lợi làm đầu! Câu nói mở đầu vạch rõ tôn chỉ trong Lã Thị thương kinh đã vạch trần bản chất của xã hội loài người. Hành động của con người, trong hầu hết mọi hoàn cảnh, đều vì muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân. Điều này dẫn tới hợp tác, liên minh, tranh đấu thậm chí giết chóc, đằng sau những hành vi xã hội này đều không tránh khỏi chữ “lợi”. Lã Thị thương kinh đã thẳng thừng chỉ ra, còn Vân Tương lại lợi dụng điểm này cực tài tình. Thủ đoạn gã dùng để khống chế nhiều bang hội trong tay không phải bạo lực hay trung nghĩa như những người khác, mà dựa vào lợi ích, gã tin chắc rằng chỉ có lợi ích chung mới có thể hợp tác lâu dài.

Tiêu bá thấy Vân Tương bỏ sách xuống thì lo lắng hỏi: “Công tử, chúng ta muốn đi vạch trần bí mật Thiên Giáng Thần Hỏa của Ma Môn, sao công tử không tranh thủ tra cứu cổ thư mật lục tìm lời giải từ ghi chép của người xưa, mà còn có tâm tư đọc quyển Lã Thị thương kinh sắp giở đến nát bấy này chứ?”

Vân Tương nhếch miệng cười, đó là vẻ mặt khi gã đã nắm chắc một chuyện gì đó. Trước ánh mắt nghi hoặc của Tiêu bá, Vân Tương thong dong nói: “So với việc tra cứu cổ thư mật lục, ta còn có cách hay hơn.”

“Cách gì vậy?” Tiêu bá vội hỏi.

“Treo thưởng!” Vân Tương cười nhạt đáp: “Chiếu cáo thiên hạ, ai có thể dẫn ánh sáng mặt trời xuống đất đốt cháy bất cứ thứ gì, ta sẽ thưởng mười vạn lượng bạc.”

Thấy Tiêu bá vẫn lộ vẻ mông lung, Vân Tương cười giải thích: “Trí tuệ của ta so với người khắp thiên hạ quả thực chẳng thấm vào đâu. Nếu được treo thưởng đến mười vạn lượng bạc mà người trong thiên hạ vẫn không tìm ra bí quyết dẫn lửa trời thì e Vân Tương này cũng bó tay. Kể cả tra cứu cổ thư thì cũng cứ để thiên hạ giúp ta làm việc đó, chắc chắn hiệu quả hơn tự ta làm.”

Tiêu bá sực hiểu, giơ ngón tay cái luôn miệng tấm tắc: “Cao minh! Đúng là cao minh! Chẳng trách công tử chắc chắn như vậy. Chỉ cần màn kịch dẫn lửa trời của Ma Môn không phải thần tích thật sự, nhất định có người biết bí quyết bên trong. Lấy lợi ra dụ, nói không chừng ngay cả giáo đồ nắm được bí mật trong nội bộ Ma Môn cũng sẽ động tâm vì tiền thưởng.”

Vân Tương khẽ than: “Lã Thị thương kinh không chỉ là thánh điển kinh thương mưu lợi, mà còn là một tuyệt tác vô tiền khoáng hậu đi sâu vào cốt lõi xã hội. Ta chẳng qua cũng là được gọi mở từ nó. Lão có biết cảnh giới cao nhất của đạo kinh thương là gì không?” Thấy Tiêu bá ngơ ngác lắc đầu, Vân Tương cười nói: “Không phải bất cứ ý tưởng kiếm tiền kỳ diệu nào, cũng không phải bản tính quả cảm và quyết đoán phát hiện cơ hội, mà là thuật dùng người.”

“Dùng người?” Tiêu bá mông lung.

“Đúng vậy, dùng người!” Vân Tương gật đầu: “Dùng những người tài giỏi nhất kiếm tiền cho ta, đây là cảnh giới cao nhất của thương đạo được Lã Bất Vi nói tới trong Lã Thị thương kinh. Thực ra đây không chỉ là đạo kinh thương, mà còn là đạo quân vương! Lã công từ mấy nghìn năm trước đã có tầm nhìn và kiến thức như vậy, quả thật là thánh nhân!”

Tiêu bá gật gù ngẫm nghĩ, nhìn Vân Tương bằng ánh mắt lạ thường, đến tận khi chính gã cũng cảm thấy khó hiểu, lão mới thở dài nói: “Lão nô phát hiện, khí độ và cách thức cân nhắc vấn đề của công tử đã khác xa lúc trước, dường như đạt đến cảnh giới cao hơn nhiều.” Nói đoạn, lão đứng đậy: “Lão nô sẽ đi công bố treo thưởng, để người trong thiên hạ cùng bóc trần vỏ bọc thần tích của Ma Môn.”

“Không cần đâu.” Vân Tương vội ra hiệu cho lão ngồi xuống: “Ta đã sai Trương Bảo thông qua Vọng Nguyệt Lâu bí mật treo thưởng trên giang hồ rồi, đợi khi chúng ta đến Tung Sơn có lẽ cũng thấy được kết quả.”

“Tại sao lại sai Trương Bảo? Công tử không tin lão nô sao?” Tiêu bá lộ vẻ không vui. Vân Tương vội cười xòa nói: “Tiêu bá đừng suy nghĩ nhiều, lão tuổi tác đã cao, những việc chạy vặt này sớm muộn cũng phải giao cho người khác. Trương Bảo đã theo chúng ta nhiều năm, cũng là người thật thà đáng tin, những chuyện nhỏ này từ sau Tiêu bá cứ giao cho y làm đi.”

“Đúng vậy, Tiêu bá!” Trương Bảo ngồi ngoài khoang xe cười nói: “Trương Bảo tuy hơi đần, nhưng làm chân chạy chuyển lời thì vẫn được, sau này phải nhờ Tiêu bá chỉ bảo nhiều.” Vừa nói y vừa tiện tay quất một roi. Xe ngựa lắc nhẹ rồi dần tăng tốc chạy về phía Tây.

Thành Bắc Kinh. Trong thư phòng u ám tĩnh lặng, Cận Vô Song vẻ mặt trầm tĩnh một tay vân vê ngọc như ý, tay kia lật xem tin mật báo mới được gửi về. Lão già áo xanh Châu Toàn khúm núm đứng bên cạnh, im lặng đến mức người khác gần như không cảm nhận được sự tồn tại cửa lão.

“Ma Môn sắp tổ chức lễ Thánh Hỏa dẫn lửa trời trên đỉnh Tung Sơn, ngươi thấy thế nào?” Cận Vô Song đặt tin báo sang bên, không buồn ngẩng đầu.

Châu Toàn trầm ngâm đáp: “Hành động này của Ma Môn hiển nhiên là muốn uy hiếp Thiếu Lâm, ra oai ở Trung Nguyên. Dù triều đình không phái binh trấn áp cũng phải điều cẩm y vệ bí mật tham gia buổi lễ này, quăng lưới bắt sạch các nhân vật đầu não của chúng!”

Cận Vô Song mỉm cười lắc đầu. Thấy Châu Toàn băn khoăn nhìn mình, lão giải thích: “Ma Môn dã tâm trùng trùng, Khấu Diệm lại là nhất đại kiêu hùng, nếu mặc cho lão mọc đủ vây cánh ắt thiên hạ khó tránh đại nạn. Nhưng lão trong mắt ta không có sự uy hiếp lớn như Vân Tiếu Phong, càng không quan trọng bằng Thiên Môn Mật Điển.”

Châu Toàn như vỡ lẽ, vội hỏi: “Ý chủ nhân là, cứ tạm thời mặc lão lớn mạnh.”

Cận Vô Song hừ giọng, cặp mắt lóe lên tia sắc lạnh: “Chim bắt sạch thì cất cung, thú săn hết thì thịt chó. Hiện giờ nạn giặc Oa đã yên, Ngõa Thích tạm thuần phục, đám ngôn quan trong triều đang sàm tấu bên tai thánh thượng, nói ta nắm đại quyền lộng hành, thâu tóm triều chính, muốn ta phân quyền. Hừ, hiện giờ ta cứ để mặc Ma Môn lớn mạnh, không những thế, ta còn ngấm ngầm giúp chúng một tay, xem đám ngôn quan chỉ biết nói xàm kia có kế sách gì ứng phó?” Lão nói tới đây thì ngừng lại, bình thản hỏi: “Nghe nói Ma Môn lần này vào quan nội, bề ngoài cũng đã có đổi mới, muốn liên minh giao hảo cùng hai phe Phật, Đạo. Ngươi nói Phật, Đạo, Ma nếu buông bỏ hiềm khích kết thành liên minh, sẽ gây ra chấn động thế nào khắp trong triều ngoài nội đây?”

Châu Toàn rùng mình, biến sắc đáp: “Nếu như vậy, e là trên dưới sẽ dao động sợ hãi! Nhưng Phật Môn và Đạo Môn thề không đội trời chung với Ma Môn, sao có thể giao hảo liên minh được?”

Cận Vô Song vuốt râu đủng đỉnh cười nói: “Lần này Khấu Diệm trở lại Trung Nguyên đã lão luyện hơn trước nhiều. Lão từng nhiều lần tỏ ý với Thiếu Lâm và Võ Đang, muốn cùng họ giao hảo liên minh. Chỉ cần lão phu nhắc phương trượng Viên Thông của Thiếu Lâm một tiếng, y thuận nước đẩy thuyền liên minh với Ma Môn sẽ rất tự nhiên. Còn về Võ Đang, hiện giờ danh tiếng đã không còn như xưa, chỉ cần Viên Thông khuyên giải thêm, chắc chắn họ cũng không dám đơn độc chống lại hai thế lực Phật, Ma đâu. Bởi vậy, việc Phật, Đạo, Ma bắt tay liên minh không phải là chuyện khó. Lúc đó đám ngôn quan sàm tấu kia ngoài việc dựa vào lão phu ra thì còn ai ứng phó được tình cảnh hỗn loạn này?”

Châu Toàn hiểu ý gật đầu như bổ củi: “Không sai, nếu thiên hạ không loạn thì sao thể hiện được tầm quan trọng của chủ nhân? Người thiên hạ sao có thể biết chủ nhân còn cần thiết hơn cả hoàng thượng?” Nói tới đây, lão ngập ngừng: “Nhưng dã tâm của Ma Môn là thiên hạ, Khấu Diệm muốn thâu tóm giang sơn xã tắc này, nếu mặc chúng lớn mạnh, không khéo sẽ thành đốm lửa đốt cháy cả thảo nguyên, lúc đó cục diện khó lòng khống chế.”

Cận Vô Song tự tin mỉm cười, hỏi ngược lại: “Ngươi có biết cảnh giới cao nhất của thiên đạo là gì không?”

Châu Toàn bèn đáp: “Đại tượng vô hình, đại âm hy thanh*! Mưu lược ở chỗ không để lại vết tích.”

Cận Vô Song lại hỏi: “Làm thế nào không để lại dấu vết?”

Châu Toàn nghĩ một hồi, sau cùng lắc đầu mù tịt. Cận Vô Song cười nói: “Giống như luyện Thái Cực Quyền, phải hết sức che giấu sức mạnh bản thân, cố gắng mượn sức người khác để dùng cho ta, khéo léo duy trì cán cân sức mạnh giữa các phía, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ thì chưa giáng đòn sấm sét. Điều này trong thiên đạo được gọi là mượn thế.”

“Tiểu nhân đã hiểu!” Châu Toàn vỡ lẽ gật gù: “Chủ nhân muốn mượn thế lực giang hồ để kiềm chế Ma Môn!”

Cận Vô Song gật đầu cười: “Hiện giờ thế lực của công tử Tương đã âm thầm ngóc đầu, chúng ta lại chưa tìm ra tung tích của Vân Tiếu Phong và Thiên Môn Mật Điển, nếu đã vậy, sao không để con cờ Vân Tiếu Phong và Ma Môn tranh đấu lưỡng bại câu thương? Xem thử Vân Tiếu Phong muốn bỏ con, hay muốn bảo vệ y. Cần đợi Vân Tiếu Phong ra tay trước, chúng ta mới có thể lựa thời cơ khống chế lão. Nếu không tìm được Vân Tiếu Phong, thì dù có diệt sạch công tử Tương và Ma Môn cũng không thể xem là thắng lợi!”

Châu Toàn gật đầu hiểu ý, cười nói: “Tiểu nhân sẽ đi sắp xếp ngay, nhất định không để công tử Tương đứng ngoài chuyện này.”

“Không cần đâu.” Cận Vô Song cười nói: “Công tử Tương và Sở Thanh Hà của Thiên Tâm Cư đang trên đường đến Tung Sơn rồi. Chuyện ngươi cần làm là phái người bí mật theo dõi động tĩnh của hai bên, nhanh chóng báo lại tất cả tình hình cho ta.”

“Tuân lệnh! Tiểu nhân lập tức đi sắp xếp.” Châu Toàn nói xong toan bước ra cửa thì sực nhớ ra một chuyện, bèn quay đầu lại bẩm báo: “Đúng rồi, đại công tử Võ Thắng Văn của Trấn Tây tướng quân hôm qua gửi thư từ phủ Đại Đồng đến, báo rằng quận chúa Minh Châu đã bình an hạ sinh một thiên kim, xin chủ nhân đặt tên.”

“Biết rồi.” Cận Vô Song lạnh nhạt gật đầu, tiện tay trải một tờ giấy tuyên lên trên bàn, cầm bút thoáng trầm ngâm, sau đó múa bút như rồng bay phượng múa, viết ra ba chữ lớn có cương có nhu - Võ Thiên Kiều.

“Hay! Nhất đại thiên kiều, thiên kiều chứ không phải thiên kiêu, quả là cái tên hay!” Châu Toàn luôn miệng tấm tắc, hai tay nhận lấy tờ giấy, cẩn thận cuộn tròn lại rồi vui vẻ nói: “Tiểu nhân sẽ sai người đưa tới Võ gia!”

Châu Toàn vừa đi khỏi, Ôn Nhu mặc áo gấm, khoan thai đài các đẩy cửa bước vào, thiếu phụ trước giờ vốn hay nói cười lúc này mang vẻ mặt canh cánh lo âu khó diễn tả thành lời, bà quên cả hành lễ vội vàng nói với Cận Vô Song: “Vô Song, muội muốn đi thăm Minh Châu.”

Cận Vô Song sầm mặt: “Muội đường đường là vương phi, sao có thể tùy tiện rời kinh?”

Ôn Nhu nước mắt lưng tròng, gắt: “Minh Châu nói thế nào cũng là con gái muội, hiện giờ nó lần đầu vượt cạn, người làm mẹ như muội đi thăm nom có gì mà không được?”

Cặp mắt Cận Vô Song thoáng vẻ đau đớn, lão lạnh nhạt đáp: “Nhưng nó không phải con gái ta.”

Ôn Nhu rùng mình, nhìn Cận Vô Song bằng ánh mắt khác thường: “Huynh… sao huynh có thể nói vậy? Muội… muội như vậy không phải vì nghe theo huynh sắp đặt sao?”

Niềm đau âm ỉ trong ánh mắt Cận Vô Song vụt biến mất, vẻ mặt lão dần dịu lại. Lão đi tới đỡ lấy Ôn Nhu, mỉm cười ấm áp nói: “A Nhu, hãy quên muội từng có một đứa con gái như vậy đi, nó chẳng qua là một chuyện ngoài ý muốn.”

“Quên?” Ôn Nhu lệ tuôn như suối: “Cốt nhục chính mình đẻ ra, sao có thể nói quên là quên?”

Cận Vô Song thở dài ngao ngán, dịu dàng khuyên nhủ: “Hoặc để một thời gian nữa, đợi sức khỏe Minh Châu tốt hơn, ta sẽ bảo Võ công tử đưa nó về Bắc Kinh thăm người thân, để nó bế con đến thăm muội.”

Ôn Nhu chỉ biết rưng rưng gật đầu. Cận Vô Song thấy vậy lập tức vỗ tay gọi: “Người đâu! Đỡ vương phi về nghỉ ngơi.”

7

Bái

hỏa

Tung Sơn tuy là ngọn núi đứng đầu ngũ nhạc, nhưng lại không cao lớn hùng vĩ như Thái Sơn, không chót vót hiểm trở như Hoa Sơn, xét về yên tĩnh tao nhã không bằng Hành Sơn, bàn đến hình thế uốn lượn không bằng Hằng Sơn. Tung Sơn là ngọn núi bình thường nhất trong ngũ nhạc, nhưng với dáng vẻ cổ kính uy nghi, nó đã trở thành ngọn núi đứng giữa bình dị nhất mà lại trang nghiêm nhất.

Đỉnh Tung Sơn cũng không hiểm trở như các ngọn núi danh tiếng khác, chỉ là một bãi đất thoáng đãng không quá gồ ghề. Dường như nơi này sinh ra là để những người trong giang hồ ngạo nghễ gào núi hô rừng tụ hội, lễ Thánh Hỏa của Ma Môn cũng được tổ chức chính tại đây.

Đầu tháng Sáu, hào kiệt giang hồ nhận lời mời của Ma Môn cũng như nghe hơi nồi chõ đều lục tục kéo về Tung Sơn. Phần lớn bọn họ chỉ háo hức xem náo nhiệt, muốn xem thử Bái Hỏa giáo lập uy trước cửa nhà Thiếu Lâm thế nào; cũng có người hoàn toàn xuất phát từ lòng hiếu kỳ, muốn chứng kiến thần tích Thiên Giáng Thần Hỏa trong truyền thuyết của Ma Môn; chỉ có số ít kẻ giàu lòng hiệp nghĩa, muốn vạch trần âm mưu Ma Môn khuấy đảo thiên hạ trong buổi lễ lần này, góp chút sức mọn cho sự bình yên của xã tắc. Dịp võ lâm tụ hội này tưởng chừng yên bình, thực chất đầy rẫy những âm mưu, các lộ nhân sĩ giang hồ đều ùa về, khiến ngọn Tung Sơn vốn thanh tịnh cổ kính dần trở nên ồn ào náo nhiệt.

Mười ba tháng Sáu, ngày lễ Thánh Hỏa của Bái Hỏa giáo. Lúc này là giữa hè, nhưng bầu không khí trên Tung Sơn vẫn thoáng mát dễ chịu. Hôm nay trời còn chưa sáng đã có hàng nghìn nhân sĩ giang hồ tụ hội trên đỉnh núi. Đến khi trời sáng bảnh, con số ấy cộng thêm những kẻ rỗi việc nghe tin đến hóng hớt cùng đám bán hàng rong mò tới kiếm ăn, đã lên đến cả vạn, đỉnh Tung Sơn thoáng đãng rộng rãi là thế cũng nhung nhúc người là người.

Trong rừng người ấy có gần một nghìn giáo đồ Bái Hỏa giáo mặc áo bào đen, nổi bật giữa đám đông. Họ không tự do tản mát, ồn ào huyên náo như người giang hồ bình thường, mà đứng trang nghiêm ở vị trí của mình, im lặng bảo vệ bục cao được dựng bằng các súc gỗ tròn nằm chính giữa đỉnh núi. Bục chia làm hai tầng, tầng thứ nhất rộng bốn trượng, dài sáu trượng, bề mặt phủ thảm đỏ dày cộm khiến người ta vô thức liên tưởng đến lôi đài; tầng thứ hai là bục nhỏ vuông vắn rộng một trượng, bên trên có một vật hình tháp cao ngang đầu người, được phủ mảnh lụa trắng phau không mảy may dính bụi, trông vô cùng thần bí.

Vừa qua giờ Mão, trời đã sáng rõ, một nam tử áo trắng chậm rãi bước lên bục cao dưới sự tháp tùng của mấy giáo đồ áo đen. Y từ tốn bước ra trước bục, ánh mắt lơ đãng lạnh lẽo quét qua đám đông phía dưới, tiếng ồn ào náo loạn bất giác lắng xuống, mọi người bắt đầu rì rầm to nhỏ: “Người đó là ai?”

Kẻ hiểu chuyện lập tức nhỏ giọng đáp: “Hình như là thiếu chủ Ma Môn Khấu Nguyên Kiệt, danh tiếng nổi như cồn trên giang hồ mấy năm gần đây.”

Năm năm trôi qua, Khấu Nguyên Kiệt đã bớt vẻ ngông cuồng âm độc hồi niên thiếu mà thêm phần bình tĩnh ung dung, cùng đôi nét điềm đạm chín chắn. Y cúi nhìn quần hùng dưới bục, chậm rãi ôm quyền vái một vòng, cất giọng sang sảng: “Hoan nghênh chư vị không ngại đường xa đã tới tham dự lễ Thánh Hỏa của bản giáo, đồng thời chứng kiến đại điển Thiên Giáng Thần Hỏa. Thế nhưng gia phụ hiện giờ đang ngao du tận Tây Cương, tạm thời không về kịp, đành để Khấu Nguyên Kiệt ta thay mặt gia phụ, đa tạ mọi người!” Nói đoạn, y khom người vái dài, bộ dạng vô cùng chân thành.

Đám đông lại rộ lên xì xào, rất nhiều người trẻ tuổi đến đây vì đại danh môn chủ Ma Môn Khấu Diệm, muốn tận mắt trông thấy vị tuyệt thế cao nhân tung hoành thiên hạ cơ hồ không có đối thủ hơn hai mươi năm về trước. Người trẻ tuổi đều sùng bái anh hùng, Khấu Diệm hơn hai mươi năm trước đã có khí thế và danh vọng của người đứng đầu võ lâm, bất luận chính đạo hay tà đạo, trong con mắt người trẻ tuổi hiện giờ vẫn là bậc anh hùng đáng được sùng bái. Nghe tin lão không tới, đám đông thi nhau la ó: “Khấu môn chủ không tới thì lần tụ hội này còn có ý nghĩa gì, giải tán đi thì hơn!”

Khấu Nguyên Kiệt đợi tiếng la ó ngơi bớt mới điềm đạm nói: “Đại điển lần này vốn là đi đến tự do, chư vị có thể ra về bất cứ lúc nào. Nhưng nếu lựa chọn ở lại xem lễ thì xin tôn trọng tập tục của bản giáo. Nghi thức Bái Hỏa vốn không để người ngoài tham dự, nhưng xét thấy trên giang hồ có nhiều hiểu lầm với bản giáo, trước một số nghi thức bí mật của chúng ta thường sinh lòng khiếp sợ, suy đoán vô căn cứ, vì vậy gia phụ quyết định công khai tổ chức nghi thức Bái Hỏa năm nay để chứng tỏ sự quang minh lỗi lạc của bản giáo.” Nói tới đây y dừng lại, quét ánh mắt sắc lạnh nhìn quần hùng: “Ai có hiềm khích hoặc bất mãn với bản giáo, đều có thể lên bục này khiêu chiến trước hoặc sau khi xem lễ. Bản giáo sống ở Tây Cương nhiều năm, mối giao thiệp với võ lâm Trung Nguyên cũng bị gián đoạn đã lâu, những muốn thông qua thánh điển lần này cọ xát chứng thực cùng võ lâm Trung Nguyên, để thánh điển lần này của bản giáo đồng thời có thể trở thành thánh điển võ lâm.”

Tuy Khấu Nguyên Kiệt nói nhẹ bẫng, nhưng âm thanh vang vọng truyền khắp tứ phía, hẳn nhiên tu vi đã tăng tiến hơn trước rất nhiều. Y vừa dứt lời, phía dưới lập tức nhao nhao như ong vỡ tổ, quần hùng oang oang bàn tán không buồn kiêng dè. Ai nấy căm phẫn trước thái độ ngông cuồng khiêu chiến võ lâm Trung Nguyên của Ma Môn, nhưng nghĩ tới những thủ đoạn trong quá khứ của chúng, họ tuy bàn nhiều song chẳng ai dám bước lên bục. Kẻ võ công kém không dám đưa chân, người võ công cao tự trọng thân phận, dĩ nhiên không bằng lòng xuất đầu lộ diện sớm.

Khấu Nguyên Kiệt đợi tiếng bàn luận lắng xuống mới nhìn quanh một lượt, nói: “Hôm nay, bất kỳ ai đến xem lễ đều là khách quý của bản giáo, chúng ta sẽ cung kính tiếp đón. Nhưng nếu có ai không tôn trọng tập tục bản giáo, dám vô lễ chê cười la ó thì đừng trách bản giáo coi người đó là kẻ địch.” Y ngừng lời, rồi đột ngột cao; giọng hô: “Chúng hộ pháp nghe lệnh, nếu phát hiện có người gây rối lập tức bắt lại cho ta!”

Mấy trăm giáo chúng xung quanh bục lập tức đồng thanh ứng tiếng, khí thế sục sôi. Tuy mấy trăm giáo đồ này so với hơn vạn người chẳng khác nào muối bỏ bể, nhưng khí thế nghiêm túc, trịnh trọng của họ đương nhiên uy vũ hơn nhiều so với quần hùng võ lâm đang náo loạn.

Đám đông bị khí thế của giáo đồ Ma Môn trấn áp, đồng thời cũng do tính tò mò thôi thúc, dần bớt huyên náo, trật tự đợi chứng kiến nghi thức dẫn lửa trời thần bí của Bái Hỏa giáo.

Một chủ tế mặc áo bào trắng bước lên bục cao, vái mấy vái trước vật hình tháp đặt bên trên, sau đó vẫy tay ra lệnh hai thiếu niên áo trắng theo sau. Hai thiếu niên lập tức nhảy phóc lên tầng hai của bục, gỡ tấm lụa đang che vật đó xuống. Quần hùng chỉ thấy trước mắt sáng lòa, cuối cùng đã được chiêm ngưỡng pháp khí thần bí nọ - Tháp lưu ly ngũ sắc dẫn lửa trời!

Tháp lưu ly có chín tầng, dưới ánh mặt trời tỏa ra những tia sáng ngũ sắc chói lọi khiến người ta nhìn mà mê mẩn. Chỉ dựa vào kích thước và độ trong suốt của lưu ly cũng đã xứng đáng được liệt vào hàng bảo vật hiếm thấy! Huống hồ đây còn là pháp khí chí cao vô thượng của Ma Môn, dùng để dẫn lửa thánh do thần Quang Minh chiếu xuống nhân gian!

Các giáo đồ thi nhau quỳ hướng về tháp lưu ly, nhất tề rạp người sát đất. Lúc này chủ tế bắt đầu tụng kinh, các giáo đồ đồng thanh đọc theo, ai nấy hết sức nghiêm trang, khiến những người đứng bên theo dõi cũng buộc lòng nghiêm túc hẳn lên. Lúc sau kết thúc màn đọc kinh, chủ tế bèn bỏ cuộn kinh vào trong tháp, hai thiếu niên áo trắng mở nắp tháp lưu ly, các giáo đồ dưới sự dẫn dắt của chủ tế bắt đầu rì rầm nhẩm kinh, đợi lửa trời giáng xuống.

Ngoại trừ giáo đồ Ma Môn, những người theo dõi xung quanh tin thì ít, tò mò thì nhiều trước truyền thuyết thần Quang Minh trên trời giáng lửa thánh. Nhưng thấy các giáo đồ nghiêm túc như vậy, họ cũng cố nhẫn nại chờ xem kỳ tích xảy ra. Bầu không khí nhất thời tĩnh lặng hẳn, chỉ nghe tiếng đọc kinh rì rầm của giáo chúng Ma Môn khiến buổi tụ hội náo nhiệt thêm mấy phần thần bí quỷ dị.

Nghi thức dẫn lửa trời kéo dài tới chính Ngọ, lúc này mặt trời đã dần lên tới đỉnh đầu, ánh nắng cũng bắt đầu chiếu thẳng từ đỉnh tháp lưu ly xuống đáy tháp. Qua lớp kính nửa trong suốt có thể nhìn thấy ánh nắng hội tụ thành cột sáng chói lòa, thực đáng kinh ngạc.

Lúc này, chủ tế áo trắng đột nhiên quỳ sụp xuống đất, cao giọng hô: “Hỡi thần Quang Minh chí tôn vô thượng, xin hãy ban cho chúng con lửa Quang Minh xóa tan tất cả tội ác và tăm tối của thế gian!”

Lời vừa dứt, chợt thấy văn tế được bỏ vào tháp dần bốc khói trắng, cuối cùng nghe tiếng lửa bùng lên đốt cháy dầu trong tháp lưu ly, ngọn lửa bập bùng cháy trong tháp được khúc xạ, tỏa ra ánh sáng cầu vồng huyền ảo mê đắm lòng người.

Các giáo đồ được chủ tế áo trắng dẫn dắt, nhất tề hoan hô, hò reo vang dội, nhiều người rưng rưng nước mắt, kích động vì bản thân may mắn được chứng kiến quá trình thần Quang Minh truyền lửa thánh; cũng không ít giáo đồ không kiềm chế nổi cảm xúc nhảy múa vui sướng, mừng lửa thánh Quang Minh giáng xuống nhân gian. Bầu không khí náo nhiệt của lễ Thánh Hỏa lúc này cũng được đẩy lên cao trào!

Quần hùng tuy không tin vào thần thoại Thiên Giáng Thánh Hỏa, nhưng sau khi tận mắt chứng kiến quá trình thần kỳ này cũng đều cảm thấy chấn động. Lẽ nào Ma Môn thật sự có thần linh phù hộ? Lẽ nào thần Quang Minh thật sự giá lâm đại lễ Bái Hỏa? Nếu không tại sao dầu trong tháp lưu ly lại có thể tự nhiên bốc cháy? Vẻ mặt bọn họ lúc này đã không còn chút coi thường cười cợt, mà nặng nề không nói thành lời.

Khấu Nguyên Kiệt chậm rãi bước lên bục cao trong tiếng hoan hô của giáo đồ, y vái hai lượt trước tháp lưu ly đang rực cháy, sau đó mới xoay lại nhìn xuống quần hùng. Thấy y giơ tay ra hiệu, các giáo đồ lập tức dừng hoan hô, im lặng chờ đợi lời huấn thị.

Khấu Nguyên Kiệt ung dung đưa mắt nhìn khắp lượt, đợi ánh mắt của mọi người tập trung cả vào mình mới lớn tiếng nói: “Đa tạ chư vị không ngại đường xa tới tham gia nghi thức của bản giáo, đồng thời tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình thần Quang Minh đích thân truyền lửa thánh cho các giáo đồ. Bản giáo nhiều năm không đặt chân tới Trung Nguyên, khiến người trong thiên hạ nảy sinh không ít hiểu lầm, hy vọng thông qua nghi thức công khai lần này, bản giáo có thể hóa giải hiểu lầm với các phái võ lâm Trung Nguyên, chung tay cùng làm chuyện lớn!”

“Không biết Ma Môn và võ lâm Trung Nguyên chúng ta có chuyện lớn gì cùng làm?” Có người cao giọng hỏi.

Khấu Nguyên Kiệt nhìn về hướng phát ra tiếng nói, đáp lớn: “Võ lâm Trung Nguyên trước giờ rời rạc, như quần long vô thủ. Thiếu Lâm, Võ Đang tuy giữ vai trò dẫn dắt võ lâm, nhưng đều là người xuất gia, vốn không màng sự vụ thế tục, dẫn tới võ lâm Trung Nguyên không ngừng tranh đấu. Các môn phái không quan tâm đến việc công nghĩa trong thiên hạ, nghĩ đủ mọi cách trục lợi riêng, đây là nguyên nhân cơ bản của mọi cuộc tranh đấu giang hồ!” Nói tới đây, y chợt cao giọng hơn: “Bản giáo đã trở thành một phần trong võ lâm Trung Nguyên, muốn thay đổi tình trạng này, vì vậy muốn kết hợp tất cả bang hội, môn phái lại thành một liên minh lớn. Mọi người trong liên minh thân như một nhà, giải quyết các tranh chấp bằng hòa bình. Như vậy, võ lâm Trung Nguyên sẽ không còn xung đột máu chảy đầu rơi, không còn những trận phân tranh đồ sát, chấm dứt tình trạng lộn xộn hàng trăm năm nay, để thiên hạ hưởng thái bình!”

Khấu Nguyên Kiệt vừa dứt lời, quần hùng lập tức nhao nhao chất vấn. Có người cao giọng quát hỏi: “Hành động này của quý giáo chẳng phải muốn toàn bộ võ lâm Trung Nguyên quy về dưới trướng mình sao?”

Lại có người nhỏ tiếng xì xào: “Lời này nghe ra thì có vẻ hay, chỉ không biết làm thế nào mới khiến các bang phái võ lâm như chậu cát rời cam tâm tình nguyện kết thành liên minh?”

Khấu Nguyên Kiệt dường như đã đoán trước nghi vấn của quần hùng, cất giọng sang sảng: “Xin chư vị không cần lo lắng, bản giáo tuy là một trong những giáo phái lớn đếm trên đầu ngón tay của Trung Nguyên, nhưng cũng không dám ngông cuồng tự đại nhận mình là lãnh tụ võ lâm. Thiếu Lâm, Võ Đang trước giờ vẫn thống lĩnh quần hùng, chuyện lớn như này dĩ nhiên cũng phải do họ đứng đầu.”

“Thiếu Lâm, Võ Đang đều là người xuất gia, muốn họ chấp chưởng võ lâm, e rằng không thỏa đáng.” Có người lớn tiếng.

Khấu Nguyên Kiệt cười nhạt: “Vừa rồi chư vị đã tận mắt chứng kiến thần tích Thiên Giáng Thánh Hỏa, bản giáo có thần Quang Minh đích thân truyền lửa thánh, dĩ nhiên sẽ coi việc thiên hạ là trọng trách của mình, dũng cảm đón nhận trọng trách này. Bản giáo bằng lòng cùng đại diện tối cao hai phái Phật, Đạo là Thiếu Lâm và Võ Đang cống hiến sức lực nhỏ bé của mình cho việc duy trì hòa bình và ổn định của võ lâm.”

Quần hùng nghe tới đây mới hiểu ra mục đích thật sự của Ma Môn. Hai danh phái Thiếu Lâm, Võ Đang đều đứng ngoài thế sự, dĩ nhiên không tiện tham dự nhiều vào chuyện tục gia, nếu võ lâm Trung Nguyên do Thiếu Lâm, Võ Đang và Ma Môn cùng chấp chưởng, trên thực tế sẽ trở thành cục diện Ma Môn một mình nắm đại quyền lộng hành, dã tâm xưng bá của Ma Môn đã lộ rõ từ đây!

Trong quần hùng không ít người hiểu được mấu chốt vấn đề, lập tức quát lớn: “Thiếu Lâm, Võ Đang đều là những người không màng thế sự, thế chẳng phải Ma Môn sẽ thống lĩnh võ lâm Trung Nguyên sao?”

Cũng có người to tiếng sách động: “Chúng ta trước giờ tự do quen rồi, dựa vào gì mà để người khác quản thúc? Giang hồ vốn là nơi tự do tự tại, nếu cũng giống như triều đình, mọi người dựa vào võ công cao thấp, năng lực lớn nhỏ mà chia thành tam lục cửu đẳng, để các ngươi làm hoàng đế của chúng ta, thì giang hồ còn ý nghĩa gì nữa? Nếu vậy, lão tử sẽ là người đầu tiên ra khỏi giang hồ!”

Lời vừa dứt, lập tức được vô số người đồng thanh phụ họa. Khấu Nguyên Kiệt đợi cho tiếng nhao nhao của quần hùng lắng xuống mới sang sảng nói: “Chúng ta không muốn ép buộc ai, liên minh võ lâm này là tự nguyện gia nhập, phàm những người gia nhập liên minh, bản giáo sẽ xem họ như bằng hữu, huynh đệ.” Ý ám chỉ người nào không gia nhập, Ma Môn sẽ xem như kẻ thù!

Quần hùng chợt nhớ ra hai nhân vật quan trọng trong lần tụ hội này, đại diện của Thiếu Lâm và Võ Đang! Ma Môn dù bai bải tôn Thiếu Lâm, Võ Đang là lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên, chỉ cần hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang không đồng ý, vậy thì dã tâm vọng tưởng khống chế võ lâm Trung Nguyên của Ma Môn cũng không thể trở thành hiện thực. Mọi người bất giác nhao nhao hỏi nhau: “Thiếu Lâm có phái người đến dự lễ không? Võ Đang đâu rồi?”

Trong tiếng ồn ào của đám đông, chợt nghe tiếng Khấu Nguyên Kiệt hô lớn: “Mời chưởng môn Thiếu Lâm Viên Thông đại sư, và chưởng giáo Võ Đang Phong Dương chân nhân!”

Lời vừa dứt, tiếng pháo chào mừng cùng tù và đồng loạt cất lên. Bốn bề vang rền hai mươi mốt tiếng pháo với từng tràng tù và hào hùng trầm bổng khiến ai nấy giật mình. Trong tiếng pháo nổ, một hòa thượng sắc mặt hồng hào, mình khoác cà sa đỏ và một lão đạo sĩ thân hình thấp bé gầy gò, đạo bào rách rưới bẩn thỉu sánh bước đi từ dưới núi lên, sau lưng họ là hai hàng tăng lữ áo xám và đạo sĩ áo xanh, ai nấy túc mục trang nghiêm, bước đi trầm ổn.

Quần hùng không hề xa lạ với Viên Thông đại sư phía trước, nhưng lại không biết lão đạo sĩ tướng mạo nhếch nhác, ánh mắt lờ đờ đi bên cạnh là nhân vật thế nào. Nếu lão chính là chưởng giáo Võ Đang Phong Dương chân nhân thì quả thực khiến người ta quá thất vọng. Trước ánh mắt chăm chú của đám đông, lão vừa đi vừa xỉa răng, khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn còn có màu đỏ lựng sau khi uống rượu, bộ dạng giống như tên tửu quỷ cơm no rượu say bước ra khỏi quán ăn, nào đâu uy nghi của chưởng giáo danh môn chính phái?

Đoàn người bước lên bục cao chính giữa trong ánh mắt kinh ngạc của quần hùng, Khấu Nguyên Kiệt lập tức bước tới nghênh đón, vái chào hai người: “Hai vị chưởng giáo dù bận trăm công nghìn việc vẫn đích thân tới tham dự buổi lễ của bản giáo thế này, quả thực là may mắn cho võ lâm Trung Nguyên. Vãn bối lấy làm vinh hạnh.”

“Khấu công tử không cần khách sáo.” Viên Thông vội đỡ Khấu Nguyên Kiệt: “Sự kiện trọng đại nhường này, lại tổ chức ngay trước cửa bản tự, Thiếu Lâm lý nào lại không tới?”

Lão đạo sĩ ậm ờ gật gù: “Nên đến! Nên đến!”

Khấu Nguyên Kiệt thi lễ với hai người xong, bèn quay sang quần hùng phía dưới: “Cho phép tại hạ giới thiệu tới chư vị, hai chưởng giáo tối cao của hai phái Phật, Đạo, cũng là những đại môn phái đứng đầu võ lâm Trung Nguyên hiện giờ, Viên Thông đại sư của Thiếu Lâm và Phong Dương chân nhân của Võ Đang!” Đoạn y quay sang để hai người bước lên trước, mời họ phát biểu trước quần hùng.

Trong tiếng xì xào to nhỏ của đám đông dưới bục, Viên Thông khách khí nhường qua nhường lại với Phong Dương Tử rồi mới chắp tay niệm A Di Đà Phật, cao giọng nói: “Buổi tụ hội hôm nay, không chỉ là lễ Bái Hỏa của Ma Môn mà còn là đại hội giữa ba phái Phật, Đạo, Ma của võ lâm Trung Nguyên. Thân là chủ nhà, Thiếu Lâm xin cảm tạ chư vị đã tới dự lễ.”

Lời vừa dứt, quần hùng còn nhao nhao hơn trước, có người lớn tiếng hỏi: “Viên Thông phương trượng, Thiếu Lâm không phải trước giờ đều tự xưng là Phật môn chính thống, lấy diệt ma vệ đạo làm bổn phận sao? Từ lúc nào Thiếu Lâm đã cùng Ma Môn uống chung một dòng nước rồi?”

Viên Thông bình thản cười, trầm giọng hỏi lại: “Thế nào là ma? Thế nào là Phật?”

Có người đáp ngay: “Hành thiện là Phật, hành ác là ma!”

Viên Thông lại hỏi: “Thế nào là hành thiện? Thế nào là hành ác?”

Thêm nhiều người hô vang: “Cứu người là thiện, giết người là ác!”

“Nói hay lắm!” Viên Thông thi triển chiêu Sư Tử Hống của Phật môn, át hẳn tiếng ồn ào của đám đông. Mắt long sòng sọc nhìn xuống quần hùng, lão trầm giọng nói: “Đợt hạn hán lớn ở Hà Nam mấy năm trước, Ma Môn phát chẩn cứu dân, xin hỏi hành động này là thiện hay ác?”

Quần hùng lập tức câm nín. Cách đây mấy năm, Ma Môn trở lại Trung Nguyên đã phát chẩn cứu đói ở Hà Nam, quả thực khiến người trong thiên hạ lấy làm bất ngờ. Nhưng vẫn có người lớn tiếng: “Ma Môn làm vậy là muốn mua chuộc lòng người, dụ dỗ nạn dân gia nhập giáo phái. Cứu người là giả, lôi kéo ngu dân mới là thật!”

Viên Thông thở dài: “Nói như vậy thì, người thiên hạ hành thiện tích đức đều là vì mưu đồ tích công đức cho bản thân ư? Đã vậy, chúng ta có quyền gì chỉ trích Ma Môn tư lợi?”

“Viên Thông đại sư, trước giờ Phật, Ma không đội trời chung, sao ông lại nói giúp cho Ma Môn?” Có người cao giọng chất vấn.

Viên Thông lớn tiếng đáp: “Phật dạy: phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật. Dù Ma Môn trong quá khứ đã làm vô số chuyện bạo ngược khiến người và thần đều phẫn nộ, nhưng trải qua mười tám năm hối cải quay đầu, năm năm trước quay trở lại Trung Nguyên, hành vi của họ đã hoàn toàn khác xưa. Đặc biệt lần này họ còn chủ động giao hảo với hai phái Phật, Đạo ta, nhằm duy trì nền hòa bình của võ lâm, tấm lòng và khí độ như vậy lẽ nào không đáng cho chúng ta noi theo? Người ta hay nói Phật, Ma không đội trời chung, nếu Phật, Đạo, Ma có thể hóa giải ân oán trăm nghìn năm nay vậy thiên hạ còn có ân oán gì không thể hóa giải nữa? Lẽ nào tấm lòng của ngã Phật không bằng giáo chúng Ma Môn sao?”

Lời Viên Thông tuy câu nào cũng có lý, nhưng vào tai quần hùng lại trở nên vô cùng kệch cỡm. Phật, Ma không đội trời chung, đây là quy ước có từ trăm, nghìn năm nay trên giang hồ, hiện giờ quy ước này lại bị Viên Thông phá bỏ ngay tại đây khiến quần hùng ít nhiều hoang mang. Có người cao giọng chất vấn Phong Dương Tử: “Phong chưởng giáo, sao ông không nói gì vậy?”

Phong Dương Tử được Viên Thông nhường lên trước, lão hơi căng thẳng, hắng giọng lắp bắp: “Chuyện… chuyện hóa giải ân oán, kết minh bảo vệ hòa bình trên giang hồ… là… là chuyện tốt. Khụ khụ… bần đạo… bần đạo dĩ nhiên hoàn toàn tán thành.”

Viên Thông tiếp lời: “Trên đời này thế nào gọi là ma? Trước những thứ không thể hiểu, cũng không hợp lý lẽ thường tình, con người đều chỉ trích đó là ma. Ví dụ như đại lễ Bái Hỏa của Bái Hỏa giáo, chúng ta vốn khiếp sợ và có nhiều phỏng đoán về truyền thuyết Thiên Giáng Thánh Hỏa, luôn cho rằng đó là nghi thức tội ác của tà ma ngoại đạo. Hiện tại sau khi may mắn được tận mắt chứng kiến thần tích Thiên Giáng Thánh Hỏa này, còn ai cho rằng đó là chiêu trò, thủ đoạn tà ma ngoại đạo dùng để mê hoặc giáo đồ nữa hay không?”

Quần hùng im bặt. Trước kia nghe nói Thiên Giáng Thánh Hỏa trong lễ Bái Hỏa của Ma Môn là quang cảnh thần kỳ hiếm gặp, mọi người phần nhiều cho rằng đó là màn che mắt Ma Môn dùng để mê hoặc giáo đồ. Nay tận mắt chứng kiến sự thần kỳ của nó, ai nấy bất giác sinh lòng sợ hãi khó tả trước sự việc không hiểu rõ này. Hiện giờ Thiếu Lâm, Võ Đang đều ủng hộ việc liên minh với Ma Môn, quần hùng tuy thấy không thỏa đáng, nhưng cũng không biết phản đối thế nào. Có người lại cao giọng hỏi: “Không biết sau khi liên minh, ai sẽ lãnh đạo võ lâm Trung Nguyên?”

Viên Thông cười nói: “Dĩ nhiên sẽ do ba bên Phật, Đạo, Ma cùng nhau duy trì trật tự võ lâm.”

Có người lớn tiếng: “Thiếu Lâm, Võ Đang trước giờ là thái sơn bắc đẩu của võ lâm Trung Nguyên, võ công Trung Nguyên phần nhiều đều có mối liên hệ với hai phái, để hai phái lãnh đạo, chúng ta tất nhiên không ý kiến. Nhưng Ma Môn có tài đức gì? Dựa vào đâu mà đòi lãnh đạo chúng ta?”

“Hỏi hay lắm!” Viên Thông chưa kịp đáp lời, Khấu Nguyên Kiệt đã bước ra, sang sảng nói với quần hùng: “Ma Môn lâu nay ở vùng Tây Cương xa xôi, nhiều năm rồi không có dịp giao lưu với võ lâm Trung Nguyên, khó tránh mọi người ít nhiều nghi ngờ thiên hạ đệ nhất đại giáo phái chúng ta liệu có phải hữu danh vô thực? Vừa hay bốn vị Quang Minh sứ của bản giáo cũng có mặt ở đây, võ công của họ đều được gia phụ đích thân truyền thụ, có thể cùng hào kiệt Trung Nguyên cọ xát chứng thực, xem thử Ma Môn chúng ta liệu có tư cách cùng Thiếu Lâm, Võ Đang chung sức lãnh đạo võ lâm Trung Nguyên hay không.”

Trước lời khiêu chiến của Khấu Nguyên Kiệt, quần hùng bên dưới sục sôi lên. Có người không nhịn được nhảy phốc lên bục, ôm quyền nói với Khấu Nguyên Kiệt, Viên Thông và Phong Dương Tử: “Tại hạ Trương Tùng thuộc phái Thanh Thành, bằng lòng đi trước mở đường lĩnh giáo tuyệt học của Ma Môn. Xin hai vị làm chứng!”

“Thì ra là đại đệ tử của chưởng giáo Thanh Thành!” Viên Thông gật đầu, cười nói: “Mọi người đều thuộc cùng mạch võ lâm Trung Nguyên, thi đấu cọ xát là con đường chính để nâng cao võ nghệ, nhưng mong chư vị biết điểm dừng!” Dứt lời, lão bèn cùng Khấu Nguyên Kiệt và Phong Dương Tử lui ra sau, nhường lại lôi đài.

Trương Tùng lạnh nhạt hừ một tiếng, ánh mắt đầy sát khí. Chưởng môn đời trước của phái Thanh Thành cách đây hơn hai mươi năm từng bị Khấu Diệm xem như bia sống, trong vòng ba chiêu đã bỏ mạng dưới tay lão. Chuyện này vẫn luôn bị xem là mối nhục lớn của toàn phái Thanh Thành. Nay có cơ hội hiếm gỡ lại thể diện, Trương Tùng dĩ nhiên không thể bỏ qua. Hắn lạnh lùng nhìn xuống giáo chúng Ma Môn đang ngồi xếp bằng, trầm giọng hỏi: “Trên dưới Ma Môn lẽ nào không ai dám ra ứng chiến?”

Lời vừa dứt, phía sau chợt vang lên tiếng thở dài ủ dột. Trương Tùng thất kinh, vội quay đầu lại nhìn, sau lưng hắn không biết từ lúc nào đã xuất hiện một người trẻ tuổi áo trắng bay bay, trông chỉ hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, nhưng phong thái toát ra vẻ hờ hững trầm ổn khó tả, đặc biệt là khuôn mặt trắng như ngọc, sáng sủa như tiên gia của y khiến Trương Tùng bất giác thấy hổ thẹn, hắn nhìn chằm chằm ánh mắt mơ hồ của đối phương, quát hỏi: “Ngươi là ai?”

“Quang Minh sứ của Bái Hỏa giáo, Minh Nguyệt!” Người trẻ tuổi từ tốn đáp, cơn gió núi lạnh căm thổi bay tà áo y, làm y trông càng siêu trần thoát tục. Trước ánh nhìn đầy thù hận của Trương Tùng, y tiếc nuối thở dài: “Năm xưa chưởng môn quý phái bại dưới tay môn chủ chúng ta, chẳng trách các hạ lại ôm lòng thù hận với bản giáo. Để hóa giải thù hận hai mươi năm trước, Minh Nguyệt nguyện thay môn chủ chịu ba chưởng của các hạ.”

Năm xưa, chưởng môn phái Thanh Thành vì lĩnh ba chưởng của Khấu Diệm mà trọng thương, chẳng bao lâu sau thì qua đời. Trương Tùng nghe Minh Nguyệt bằng lòng thay mặt Khấu Diệm chịu ba chưởng của mình, bất giác gật đầu: “Được! Chỉ cần ngươi chịu ba chưởng của ta, ân oán hai mươi năm trước xem như khép lại từ đây!”

Minh Nguyệt thoáng mỉm cười, giơ tay mời hắn động thủ. Trương Tùng không khách sáo, nhảy vọt tới trước mặt đối phương, vỗ một chưởng vào điểm yếu hại trên ngực y. Trương Tùng dùng mười thành công lực xuất thủ, chưởng lực đủ để đập vỡ bia đá. Chỉ thấy thân hình Minh Nguyệt bị đánh bay, sau đó y nhẹ nhàng đáp xuống cách đó vài trượng, mặt không đổi sắc ra hiệu cho Trương Tùng tiếp tục.

Quần hùng hò reo vang rền, cổ vũ cho Trương Tùng. Trương Tùng sắc mặt lúc tái xanh lúc trắng bệch, lồng ngực nhấp nhô không yên. Thì ra chưởng vừa rồi của hắn còn chưa kịp đánh thật, thân hình Minh Nguyệt đã đột ngột thuận theo chưởng thế bay đi, khiến đòn tấn công hắn dốc toàn lực tựa hồ đánh vào không khí, Trương Tùng rất đỗi khó chịu. Vì Minh Nguyệt thoái lui vừa khéo, người ngoài trông vào đều thấy như y bị chưởng phong của Trương Tùng đánh bay đi.

Trương Tùng không dám thừa nhận chưởng thế của mình không đuổi kịp thân hình đối thủ, đành cắm đầu tiếp tục đánh. Lần này hắn dùng chút kế vặt, trước tiên tay trái tung hư chiêu vờ đánh vào ngực Minh Nguyệt, tiếp đó tay phải theo sau đột ngột vỗ vào bụng y. Nhưng chưởng này vẫn đánh vào không khí, chỉ thấy Minh Nguyệt thuận theo chưởng thế dạt xa ba bước, môi nở nụ cười nói: “Còn một chưởng cuối cùng, các hạ phải dùng hết sức rồi.”

Trương Tùng rống lớn một tiếng, song chưởng đánh ra liên hoàn, nhằm thẳng ngực Minh Nguyệt. Thân hình Minh Nguyệt lại lui hẳn mấy thước, y mỉm cười như không có chuyện gì, nói với Trương Tùng: “Đa tạ các hạ thủ hạ lưu tình, ba chưởng vừa rồi đều không dùng hết sức, Minh Nguyệt mới có thể may mắn sống sót. Xem ra các hạ cũng có lòng hóa giải ân oán với bản giáo nên mới rộng lượng nương tay như vậy. Minh Nguyệt thay mặt Khấu môn chủ đa tạ các hạ đã khoan hồng đại lượng.” Dứt lời, Minh Nguyệt cung kính vái, thái độ vô cùng thành khẩn.

Trương Tùng biết rõ võ công của mình kém xa Minh Nguyệt, nhưng đối phương đã giữ thể diện cho hắn như vậy, hắn cũng không tiện nói thêm gì, xấu hổ ôm quyền vái, rồi vội vàng nhảy xuống bục cướp đường bỏ đi.

Minh Nguyệt vuốt lọn tóc mai nhìn quanh, thủng thẳng cười nói: “Ân oán hơn hai mươi năm giữa bản môn và các phái võ lâm, hy vọng hôm nay có thể đến hồi kết. Tại hạ bằng lòng thay môn chủ chịu quyền cước của chư vị để hóa giải ân oán xưa. Qua hôm nay, võ lâm Trung Nguyên sẽ thân như một nhà, không còn những trận cừu sát và xung đột không đáng có, xin chưởng giáo hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang làm chứng cho chúng ta.”

Quần hùng quay sang nhìn nhau, nhất thời im bặt. Không ít người đã nhìn ra Minh Nguyệt vừa rồi tiếng là chịu ba chưởng nhưng thực chất đều nhờ thân thủ cực nhanh lui về sau đúng khoảnh khắc chưởng lực đánh tới. Thân thủ và bộ pháp nhanh gọn cùng với tài nắm bắt thời cơ tiến lui ấy đủ để họ há mồm trợn mắt. Mà y mới chỉ là một trong bốn Quang Minh sứ của Ma Môn, có thể thấy thực lực của Ma Môn không hề tầm thường.

Thế nhưng chẳng bao lâu sau lại có người lên bục khiêu chiến với Minh Nguyệt. Chẳng ngờ Minh Nguyệt vẫn dựa vào ân oán giữa Bái Hỏa giáo và họ năm xưa, lấy thân mình chịu quyền cước của quần hùng nhằm hóa giải ân oán cũ. Trước sau đã có bốn, năm người bước lên bục, nhưng ai nấy đều giống Trương Tùng phái Thanh Thành, dốc toàn lực cũng không đánh trúng nổi Minh Nguyệt lấy một chưởng, chỉ biết xấu hổ đi xuống.

Đám đông thảy đều kinh ngạc trước võ công của Minh Nguyệt, không khỏi sinh lòng sợ hãi, bầu không khí tức thì lắng xuống. Đúng lúc này, một giọng nói lạnh lẽo thoát tục từ tốn cất lên: “Khấu môn chủ của quý giáo năm xưa từng đả thương sư muội ta, khiến sư muội ta nằm liệt giường mười tám năm. Không biết Quang Minh sứ có nhận của ta một chưởng để hóa giải ân oán nhiều năm giữa ta và quý giáo không?”

Những lời này nhẹ tựa lông hồng nhưng lại rành rọt truyền khắp tứ phía. Mọi người quay đầu nhìn về hướng phát ra tiếng nói, thấy một nữ tử áo trắng phấp phới đang sải bước giữa rừng người. Trước ánh mắt dõi theo của quần hùng, nữ tử tung mình, nhẹ nhàng đáp xuống bục cao.

Minh Nguyệt vội lui về sau nửa bước, căng thẳng nhìn chằm chằm nữ tử mới xuất hiện, trầm giọng hỏi: “Đây là võ công của Thiên Tâm Cư, tiền bối là người của Thiên Tâm Cư?”

“Không phải.” Nữ tử áo trắng hờ hững đáp: “Nhưng sư muội ta năm xưa bị Khấu Diệm đánh trọng thương, mười tám năm không thể dậy khỏi giường, Quang Minh sứ muốn hóa giải mối ân oán này, liệu có chịu để ta đánh một chưởng không?”

Vẻ căng thẳng trên mặt Minh Nguyệt lập tức biến mất, y mau chóng khôi phục khí độ ung dung bình thản, cười nhạt nhìn nữ tử, chậm rãi nói: “Nếu có thể hóa giải ân oán giữa bản giáo và tiền bối, Minh Nguyệt dù chịu một chưởng của tiền bối cũng không hề gì. Nhưng tiền bối lại là nhân vật tề danh cùng môn chủ chúng ta, đi ức hiếp bậc tiểu bối e rằng sẽ tổn hại danh tiếng, vì vậy vãn bối không dám đẩy tiền bối vào chỗ bất nghĩa, mong tiền bối lượng thứ.”

Không nói cũng biết, nữ tử áo trắng ấy chính là Tôn Diệu Ngọc đã rời bỏ Thiên Tâm Cư. Bà vốn chỉ đưa hai đệ tử đến xem náo nhiệt, có điều thấy Minh Nguyệt huênh hoang như vậy, không chịu được bèn bước lên lôi đài. Chẳng ngờ Minh Nguyệt vừa nhìn tư thế bộ pháp đã đoán ra nguồn gốc võ công của Tôn Diệu Ngọc, bà cũng không tiện ép thêm, bèn nhàn nhạt nói: “Hôm nay ta tới vốn là muốn thỉnh giáo Khấu môn chủ, hiện giờ Khấu môn chủ không có đây, không biết ai trong quý giáo có thể giúp ta không uổng chuyến đi này?”

Minh Nguyệt cười nhạt: “Võ công của tiền bối e rằng ngoài Khấu môn chủ, bản giáo chẳng còn ai có tư cách làm đối thủ. Nhưng nếu quả thực tiền bối muốn chứng thực võ công của bản giáo, vậy Minh Nguyệt cùng ba vị Quang Minh sứ còn lại hợp lực, miễn cưỡng cũng có thể tiếp tiền bối.”

Tôn Diệu Ngọc cau mày: “Ý ngươi là muốn bốn Quang Minh sứ của quý giáo cùng lên?”

Minh Nguyệt khiêm nhường cười nói: “Võ công của bốn người chúng ta đều được đích thân môn chủ truyền thụ, Khấu môn chủ cũng thường lấy một địch bốn người chúng ta. Bốn chúng ta liên thủ giống như Khấu môn chủ xuất thủ vậy. Tiền bối là thế ngoại cao nhân, chắc sẽ không để ý việc chúng ta ỷ đông tiếp chiến chứ?”

Tôn Diệu Ngọc cười khẩy đáp: “Sớm nghe nói Khấu Diệm ở quan ngoại ẩn mình nhịn nhục mười tám năm đã dày công lựa chọn trong đám thiếu niên tài năng thiên phú, bồi dưỡng ra bốn thiên tài võ học, tuổi còn trẻ nhưng đã đạt tới cảnh giới võ công tuyệt đỉnh, thậm chí còn hơn trưởng lão Ma Môn một bậc, đấy chính là bốn Quang Minh sứ các ngươi hả?” Thấy Minh Nguyệt thản nhiên gật đầu, Tôn Diệu Ngọc cười khanh khách nói: “Được! Ta cũng muốn xem thử bốn đóa kỳ hoa Ma Môn được Khấu Diệm dày công dạy dỗ thế nào!”

Minh Nguyệt gật nhẹ đầu, sau đó khẽ vỗ tay. Ba nam nữ trẻ tuổi cùng mặc áo trắng như tuyết lần lượt nhảy lên bục cao, ngấm ngầm vây Tôn Diệu Ngọc vào giữa.

Quần hùng phía dưới vừa thấy phong thái của Tôn Diệu Ngọc bèn nháo nhác hỏi nhau: “Nữ tử đó là ai? Dám một mình khiêu chiến với bốn Quang Minh sứ của Ma Môn!”

Có người lờ mờ đoán được thân phận của Tôn Diệu Ngọc, bất giác kích động nói: “Nếu ta đoán không sai, đây là Tôn Diệu Ngọc, đại sư tỷ Thiên Tâm Cư tề danh cùng Tố Diệu Tiên năm xưa, về sau đã thoát ly khỏi môn phái!”

Đệ tử Thiên Tâm Cư trước giờ ít khi hành tẩu trên giang hồ, Tố Diệu Tiên cũng vì trận chiến hai mươi năm trước với Khấu Diệm mới lưu danh thiên hạ, nên hiếm ai biết Tôn Diệu Ngọc. Đám đông phần nhiều đều lo lắng cho bà, toan xông lên làm anh hùng cứu mỹ nhân, nhưng tự thấy sức mình không tới, đành lớn giọng hô hào: “Ma Môn lấy bốn đánh một, đúng là không có thể diện!”

Bốn Quang Minh sứ chỉ lăm le vây Tôn Diệu Ngọc vào giữa, không để tâm lời hò hét bên dưới. Tôn Diệu Ngọc lấy Minh Nguyệt làm mốc bắt đầu quan sát lần lượt ba kẻ vừa xuất hiện. Bên phải Minh Nguyệt là một nam tử trẻ tuổi cao lớn rắn rỏi, trạc hai lăm hai sáu, mày rậm mắt to, đôi mắt sáng quắc tinh nhanh, dù mặc áo bào trắng thụng nhưng cơ hồ vẫn nhìn thấy rõ cơ bắp rắn chắc dưới lớp áo. Thấy Tôn Diệu Ngọc đang nhìn mình, y khẽ gật đầu nói: “Vãn bối Lực Hoành bái kiến Tôn tiền bối.”

Tôn Diệu Ngọc gật đầu, quay sang bên trái Minh Nguyệt, bắt gặp một thiếu nữ áo trắng mặt tươi như hoa, trông chỉ hai mươi tuổi, diện mạo yêu kiều diễm lệ, đặc biệt đôi mắt hút hồn trời phú, chốc chốc như có tia lửa điện bắn ra xung quanh. Tôn Diệu Ngọc tuy là nữ tử, nhưng vẫn cảm thấy sức mê hoặc của đối phương. Bà ta vội trấn tĩnh tinh thần, lạnh lùng trừng mắt, nữ tử bèn tránh ánh mắt ấy, duyên dáng vái chào, chúm chím cười nói: “Vãn bối Tuệ Tâm bái kiến tiền bối.”

Tôn Diệu Ngọc khẽ hừ một tiếng, chậm rãi nhìn sang người đứng sau lưng mình. Nữ tử này nãy giờ vẫn luôn lặng lẽ đứng sau lưng bà ta, với năng lực của Tôn Diệu Ngọc cũng phải tập trung tinh thần cảm nhận mới phát hiện ra sự tồn tại của nàng, có thể thấy tu vi và nhẫn nại của nàng còn cao hơn ba đồng môn còn lại. Đến khi nhìn thấy bộ dạng người này, Tôn Diệu Ngọc không khỏi thầm tán thưởng. Nữ tử nọ tuổi chưa đến tam tuần, nhưng đã mang phong thái siêu phàm thoát tục, có điều phong thái này khác với các nữ đệ tử Thiên Tâm Cư có tu vi thâm hậu, đó là vẻ siêu nhiên thoát tục đượm phần tà khí, cũng chỉ có người đủ tu vi như Tôn Diệu Ngọc mới phân biệt được sự khác biệt này. Bà ta nhìn chằm chằm đối phương một hồi, hờ hững hỏi: “Tịnh Phong sứ?”

“Vãn bối Tịnh Phong bái kiến tiền bối!” Nữ tử vái chào, ánh mắt tĩnh lặng ôn hòa có mấy phần giống Tố Diệu Tiên năm xưa. Tôn Diệu Ngọc thầm kinh ngạc, xem ra Khấu Diệm cũng phải rất nhọc lòng mới chọn ra được tứ đại Quang Minh sứ này. Chỉ riêng Tịnh Phong sứ đã là một kình địch hiếm gặp!

Tại một góc khuất không ai để ý bên dưới lôi đài, Vân Tương cũng đang theo dõi mọi diễn biến trên bục. Màn xuất hiện đột ngột của Tôn Diệu Ngọc buộc gã phải lưu tâm. Tiêu bá thấy vậy nhỏ giọng giải thích bên cạnh: “Nhìn tư thế bộ pháp của nữ tử này chắc là cao thủ Thiên Tâm Cư trong truyền thuyết!”

“Thiên Tâm Cư? Đó là môn phái gì?” Vân Tương nhíu mày hỏi. Lần trước được đệ tử Thiên Tâm Cư Liễu Thanh Mai tương trợ, gã mới thoát khỏi sự truy bắt của Liễu Công Quyền, nhưng Vân Tương vẫn hoàn toàn không hiểu gì về Thiên Tâm Cư.

Tiêu bá than: “Thế gian vạn vật đều không tách khỏi lưỡng tính âm dương, vì vậy trên đời cũng luôn tồn tại hai đạo Phật, Ma. Nếu nói Bái Hỏa giáo là hóa thân của Ma, thì Thiên Tâm Cư chính là hiện thân của Phật, là lực lượng sinh ra để khắc chế Ma. Thiên Tâm Cư trước giờ đều không màng thế tục, hiếm khi đặt chân vào hồng trần, nếu đệ tử Thiên Tâm Cư bỏ thanh tu ồ ạt nhập thế, có nghĩa là lực lượng của Ma đạo trên đời này đã đến mức không thể không ngăn chặn.”

Vân Tương cau mày hỏi: “Các phái Thiếu Lâm, Nga My chẳng phải cũng là đệ tử của Phật Môn sao? Cớ gì lại liên minh với Ma Môn?”

Tiêu bá cười khà khà đáp: “Phật Đà từng nói, trăm nghìn năm sau, ma sẽ mượn pháp y của ngài, mạo danh hiệu của ngài để làm loạn chính pháp. Lão nô thấy điều đức Phật nói tới chính là Thiếu Lâm ngày hôm nay. Còn về các môn phái Phật giáo như Nga My, Bạch Mã Tự, hoặc không đủ pháp lực, hoặc chỉ biết giữ mình, quên đi lòng từ bi ngã Phật phổ độ chúng sinh, đã không thể tính là Phật môn chính thống nữa rồi.”

Vân Tương nhìn Tiêu bá bằng ánh mắt khác lạ, kinh ngạc nói: “Không ngờ nghiên cứu về Phật đạo của Tiêu bá lại sâu sắc như vậy!”

Tiêu bá sững người, vội cười nói: “Lão nô cũng là vì khi xưa sát nghiệp quá nặng, muốn dùng ngã Phật từ bi để hóa giải nợ máu trong lòng, vì vậy mới tìm tòi đôi chút về kinh điển Phật giáo, để công tử chê cười rồi.”

Trong lúc hai người nói chuyện, chợt nghe quần hùng lớn tiếng hò reo, thì ra năm người trên bục đã bắt đầu động thủ. Vân Tương chăm chú quan sát, chỉ thấy năm bóng người lướt qua lướt lại nhanh tới mức không thể phân biệt rõ ai với ai. Cả năm người đều mặc áo trắng như tuyết, tà áo bay bay, kẻ tiến người lui, phong thái tựa thần tiên. Vân Tương tuy không biết võ công, nhưng cũng xem rất hào hứng, gã bất giác vỗ tay khen: “Võ công thế này đúng là còn tuyệt diệu hơn vũ điệu tiên nhân, thật khiến người ta mở mang tầm mắt!”

Trái lại Tiêu bá vẻ mặt nặng nề, không chớp mắt quan sát trận quyết đấu. Lát sau, năm bóng người trên bục đột ngột khựng lại, ai nấy vẫn đứng nguyên tại vị trí ban đầu như thể vừa hoàn thành điệu múa. Vân Tương không nhìn ra ai thắng ai bại, bèn hỏi Tiêu bá: “Ai thắng rồi?”

Tiêu bá khẽ thở dài đáp: “Khấu Diệm quả là thiên tài võ học, có thể dạy ra bốn đệ tử hoàn toàn không lộ chút ma tính nào. Võ công của Quang Minh sứ có đến mấy phần tương tự võ công Thiên Tâm Cư, chắc rằng năm xưa sau khi Khấu Diệm bại trong tay Tố Diệu Tiên đã lĩnh ngộ được võ công mới từ đối thủ, nên hầu như không thấy bóng dáng võ công Ma Môn trong đây. Lão nô không nhìn ra ai thắng ai bại, chỉ lờ mờ cảm thấy võ công của Quang Minh sứ dường như được sáng tạo chuyên để khắc chế Thiên Tâm Cư, bốn người liên thủ lại ngấm ngầm tạo thành trận pháp. Như vậy xem ra, nếu tiếp tục đấu thì cao thủ Thiên Tâm Cư e sẽ chịu thiệt thòi.”

Lời vừa dứt, thân hình của năm người trên lôi đài lại lướt đi nhanh như bay, khiến người theo dõi hoa mắt chóng mặt. Quần hùng bên dưới hò reo cổ vũ, tuy cuộc .sống của họ gắn liền với võ công, nhưng chưa ai từng thấy thứ võ công nào đặc sắc chói lọi nhường này.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3