Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 55

9

Luận

Phật

Khấu Nguyên Kiệt vừa đi, ba người Tiêu bá, La Nghị, Trương Bảo đều thở phào, nhìn Vân Tương với ánh mắt khâm phục. Cả ba đều nghĩ gã đã sắp đặt sẵn phục binh Đoạt Hồn Cầm, nhờ vậy mới dọa được bọn Khấu Nguyên Kiệt chạy mất. Chẳng ngờ Vân Tương cũng ngơ ngác không hay biết gì.

Đoạt Hồn Cầm của Ảnh Sát Đường từng có giao tình với Vân Tương. Lần đó vì muốn lột trần âm mưu cuỗm sạch của cải Giang Nam của Liễu Công Quyền, gã đã thuê y làm bảo tiêu cho mình, nhưng mối quan hệ này sớm đã kết thúc. Đoạt Hồn Cầm không có lý do gì xuất hiện ở đây, càng không lý nào vì bảo vệ Vân Tương mà ngang nhiên kết thù chuốc oán với Ma Môn.

Vân Tương lòng đầy thắc mắc, bèn lớn tiếng hỏi qua lớp vách ngăn: “Không biết trong nhà có phải Đoạt Hồn Cầm tiền bối?”

Bên trong vang lên vài nốt nhạc hoạt bát, giống như tiếng thiếu nữ cười tựa chuông bạc ngân, tràn đầy niềm vui và sự láu lỉnh sau khi bày trò đùa nghịch, khác hẳn với khí thế dữ dội lạnh lùng ban nãy. Vân Tương mới đầu cảm thấy lạ, nghe được một lúc bèn nhận ra: đây chính là tiếng đàn lúc trước đã tương trợ Tôn Diệu Ngọc đối địch với Quang Minh sứ của Ma Môn. Gã lập tức nhớ đến thiếu nữ áo xanh thanh tú thoát tục nọ, vội hỏi: “Cô nương là người khi nãy gảy đàn trên đỉnh Tung Sơn?”

Tiếng đàn dìu dặt, giống như thủng thẳng thừa nhận. Vân Tương quan sát những vết đâm tiếng đàn để lại trên vách tường, lòng thầm kinh hãi, không thể tưởng tượng một thiếu nữ trông yếu đuối mong manh, lại có thể lấy tiếng đàn làm vũ khí, hung hiểm thâm độc không hề kém sát thủ của Ảnh Sát Đường khét tiếng trên giang hồ, thậm chí khiến Khấu Nguyên Kiệt cũng tưởng nhầm là Đoạt Hồn Cầm. Xem ra, tu vi cầm nghệ của nàng so với y có lẽ chỉ hơn chứ không kém.

Thiếu nữ trong nhà dường như đoán được suy nghĩ của gã, tiếng đàn dần thay đổi, như đang rủ rỉ kể về lai lịch của mình. Vân Tương đứng ngoài cửa chăm chú lắng nghe, gương mặt lúc kinh ngạc, lúc lại vui mừng. Lát sau, tiếng đàn nhỏ dần rồi biến mất, nhưng dư âm như vẫn đọng lại đâu đây.

Đến khi tiếng đàn dừng hẳn, Vân Tương mới bước vào hậu đường, nhưng bên trong đã không còn bóng người, chỉ thấy thoang thoảng hương thơm. Gã thất vọng nhìn quanh, lòng buồn bực như vừa mất đi thứ gì. Tiêu Bá đi theo vào nhìn thấy cửa sổ mở toang, nhỏ giọng hỏi: “Người gảy đàn trong nhà vừa rồi thật sự là một cô nương chứ không phải Đoạt Hồn Cầm ư?”

Vân Tương gật đầu nói: “Đúng vậy, cô nương ấy chính là người khi nãy dùng tiếng đàn giúp tiền bối Thiên Tâm Cư đối địch với Quang Minh sứ của Ma Môn trên đỉnh Tung Sơn. Cô ấy theo chân Khấu Nguyên Kiệt đến đây, đúng lúc bắt gặp Khấu Nguyên Kiệt đối phó chúng ta, nên đã giả mạo tiếng đàn của Đoạt Hồn cầm, dọa đám người Ma Môn chạy mất.”

Tiêu bá kinh ngạc: “Sao công tử biết điều này?”

Vân Tương thở dài nói: “Ta nghe ra từ trong tiếng đàn. Cô nương này cầm nghệ trác tuyệt, dùng tiếng đàn dựng lại các tình cảnh sinh động kỳ diệu, khiến người ta cảm giác như đang có mặt trong đó. Cô nương ấy còn hẹn gặp ta tối nay, ở một đình hóng mát có thể nghe thấy tiếng thông reo và suối chảy.” Gã quay lại hỏi La Nghị: “Không biết gần đây có nơi nào như thế không?”

La Nghị nghĩ một hồi, gật đầu nói: “Vậy chắc là đình Thính Tùng rồi, ở ngay sườn núi sau. Nơi đấy không những có thể nghe thấy tiếng thông reo dưới núi, bên cạnh còn có một thác nước từ trên cao đổ xuống, rất vắng vẻ thanh nhã.”

Tiêu bá nghe xong liền nói: “Công tử đừng đi! Cô nương này lai lịch bí ẩn, đột nhiên hẹn công tử đến một nơi vắng vẻ như vậy, hay là có âm mưu gì đó không muốn cho người khác biết? Công tử không nên sơ ý.”

Vân Tương lắc đầu: “Đàn là tiếng nói của trái tim, tiếng đàn của cô nương này thuần khiết trong sáng, kể cả lúc giả mạo Đoạt Hồn Cầm cũng chỉ bắt chước được cái vỏ chứ không có cái thần bên trong, huống hồ cô ấy còn cứu chúng ta một lần. Ngoài ra, lúc nãy Á Nam đi cùng tiền bối Thiên Tâm Cư nọ, mà cô nương này hiển nhiên cũng có quan hệ mật thiết với Thiên Tâm Cư. Từ cô ấy, chưa biết chừng ta sẽ dò la được tung tích của Á Nam.”

Tiêu bá liền nói: “Lão nô lập tức sai người đi tìm Thư cô nương, chỉ cần cô ấy còn ở gần đây thì chắc chắn sẽ tìm thấy!”

Vân Tương khẽ gật đầu, vẻ mặt thẫn thờ. Niềm thương nhớ hơn năm năm qua đã sâu tựa biển lớn, khó có thể nhìn ra những con sóng đang cuộn trào nơi đáy lòng qua nét mặt gã.

Trăng treo giữa trời, dát ánh bạc xuống vạn vật, không khí thoang thoảng hương hoa, bốn bề côn trùng râm ran như hát. Vân Tương y hẹn tới đình Thính Tùng, thấy một thiếu nữ áo xanh ngồi một mình dưới ánh trăng, nét mặt điềm tĩnh trầm mặc, như nàng tiên rừng không ăn khói lửa nhân gian.

Nghe tiếng bước chân của Vân Tương, nàng chậm rãi đứng dậy, chắp tay chào gã: “Vân công tử quả nhiên là tri âm, có thể nghe ra lời mời trong tiếng đàn của ta, một mình đến gặp.”

Tuy mới gặp thiếu nữ hai lần nhưng Vân Tương hoàn toàn tin tưởng nàng, ra sức thuyết phục Tiêu bá, La Nghị để gã đi gặp nàng một mình. Thấy thiếu nữ tuy nhìn mình mà đôi mắt mông lung, gã không kìm được hỏi: “Mắt của cô nương…”

Thiếu nữ mỉm cười bình thản: “Hai mắt ta mù bẩm sinh, mong công tử lượng thứ.”

Vân Tương trông nàng xinh đẹp tuyệt trần, song lại là một người mù thì không khỏi thương xót. Thiếu nữ như đoán được tâm tư gã, bất giác than: “Thiên Môn công tử Tương nổi danh khắp thiên hạ đứng ngay trước mặt mà ta không có duyên được thấy phong thái của công tử một lần, đúng là nuối tiếc lớn trong đời.”

Vân Tương cười nói: “Cô nương biết tên ta, nhưng ta vẫn chưa biết thân phận lai lịch của cô nương, liệu có thể cho tại hạ biết không?”

Thiếu nữ nhẹ nhàng thi lễ, thản nhiên đáp: “Thiên Tâm Cư Sở Thanh Hà, bái kiến công tử.”

“Thì ra là Sở cô nương của Thiên Tâm Cư!” Vân Tương thầm mừng rỡ, thấy trong đình không còn ai khác, gã lấy làm lạ bèn hỏi: “Cô nương đến đây một mình ư?”

Sở Thanh Hà khẽ cười đáp: “Ta tuy mù hai mắt, nhưng lại có thể dùng tâm để nhìn, vì vậy muốn đi lại không cần người khác giúp.”

“Dùng tâm để nhìn?” Vân Tương thấy khó hiểu: “Dùng tâm có thể nhìn thấy gì?”

Nàng mỉm cười đáp: “Có thể nhìn thấy những thứ người thường không thể dùng mắt thấy. Ví dụ như ta nhìn thấy trong một hốc cây cách đây ba trượng, có con chim đang ấp trứng. Ta nhìn thấy trong đám cỏ sau lưng, có con dế mèn đang đẻ trứng. Thậm chí ta còn nhìn thấy trong tim công tử đang chất chứa nỗi đau và niềm thương nhớ sâu sắc.”

Vân Tương thoáng kinh ngạc, biến sắc mặt. Những gì gã nghĩ trong lòng ngay đến Tiêu bá kề cận hằng ngày cũng chưa chắc biết được, khỏng ngờ lại bị một người mù nhìn ra. Sở Thanh Hà như thấy được vẻ chấn động của gã, từ tốn ngồi xuống, tay gảy đàn ngọc mỉm cười nhàn nhạt: “Vân công tử, để Thanh Hà tặng công tử một khúc nhạc, hy vọng có thể hóa giải ưu phiền và u uất trong lòng công tử.”

Mười ngón tay thiếu nữ múa trên dây đàn, từng âm thanh tuôn chảy dịu dàng như làn nước, réo rắt quanh đình nghỉ, đưa người nghe đắm chìm vào khúc nhạc. Vân Tương ngồi xuống trong đình, lắng nghe tiếng đàn dìu dặt như gió mát. Lúc đầu chỉ thấy những nốt nhạc vui tai, sau dần cảm nhận tâm hồn và thể xác hòa vào trong tiếng đàn, lòng khoan khoái như rong chơi đến chín tầng mây. Sự vật trong nhân thế đều như gió thoảng mây bay thoáng lướt qua người gã, dẫu có chút tiếc nuối nhưng lại nhẹ nhõm như trút được gánh nặng ngàn cân.

Lúc sau, tiếng đàn dần tan biến, Vân Tương thở phào nhẹ nhõm. Nỗi nhớ thương và buồn bã tích tụ trong lòng gã từ lúc Á Nam bỏ đi, nhờ tiếng đàn tháo gỡ và vỗ về, giờ đã được xoa dịu rất nhiều. Vân Tương chưa bao giờ cảm thấy thanh thản như lúc này, bất giác thốt lên: “Ngón đàn của Sở cô nương đúng là tuyệt diệu bậc nhất, vừa có thể thấu tâm can, lại có thể giống như Đoạt Hồn Cầm lấy đàn làm vũ khí, quả thực khiến người khác khâm phục.”

Sở Thanh Hà cười hiền hòa: “Đoạt Hồn Cầm tiền bối từng luận bàn cầm nghệ với Thanh Hà, ta từng được lĩnh giáo cầm kiếm của tiền bối, nên có thể miễn cưỡng mô phỏng chút ít, có điều cũng chỉ gạt được người không am hiểu âm luật, chứ chắc chắn không qua nổi mắt công tử.”

“Sở cô nương khiêm tốn quá.” Vân Tương thoáng ngập ngừng hỏi tiếp. “Sở cô nương đêm khuya mời tại hạ tới đây, chắc không chỉ muốn tại hạ nghe đàn chứ?”

Sở Thanh Hà nhoẻn cười duyên dáng: “Hôm nay công tử vạch trần bí ẩn Thiên Giáng Thần Hỏa của Ma Môn trước mặt quần hùng, thực khiến người khác ngưỡng mộ. Không biết công tử có nhìn nhận ra sao đối với việc Ma Môn hòa giải và liên minh với hai phái Phật, Đạo?”

Vân Tương trầm ngâm đáp: “Ma Môn lòng lang dạ sói, thiên hạ đều biết. Ta chỉ không hiểu, Thiếu Lâm và Võ Đang sao lại mắc sai lầm rành rành, kết minh với Ma Môn.”

Sở Thanh Hà cười nhạt: “Võ Đang suy yếu, chỉ biết nhìn theo ngựa đầu đàn là Thiếu Lâm. Nhưng phương trượng Viên Thông là kẻ có dã tâm, luôn xem Thiếu Lâm như sản nghiệp để kinh doanh nên mới tạo ra một Thiếu Lâm phồn thịnh như ngày hôm nay. Trong quá trình đó, khó tránh bị Ma Môn nắm được thóp, thành ra bắt buộc phải liên minh với Ma Môn.”

Vân Tương thầm rúng động, cau mày hỏi: “Nắm thóp ư? Thiếu Lâm có điểm yếu gì?”

Sở Thanh Hà thủng thẳng nói: “Mấy năm trước, Dịch Cân Kinh và Đạt Ma Xá Lợi Tử của Thiếu Lâm bị đánh cắp tống tiền, đòi một trăm vạn lượng bạc. Bất cứ danh môn chính phái nào gặp phải đả kích này đều khó lòng gượng dậy, nhưng Thiếu Lâm trải qua biến cố ấy lại được phúc trong họa, danh tiếng nổi như cồn, võ công Thiếu Lâm càng vì thế mà vang danh thiên hạ. Châu huyện khắp nơi liên tiếp mở không ít võ quán Thiếu Lâm, lấy danh nghĩa truyền thụ võ công thu nhận môn đồ ồ ạt. Thiếu Lâm tuy chỉ là một thiền viện, nhưng đệ tử môn hạ giờ đã trải khắp đại giang Nam Bắc, nhân số không kém bất cứ giáo phái, bang hội nào. Thiếu Lâm nhờ lần mất trộm bảo vật đó mà trỗi dậy, bên trong chắc chắn có ẩn tình. Ta muốn nhờ công tử ra tay vén bức màn bí mật trong chuyện này, trả lại sự thanh tịnh cho Phật Môn.”

Vân Tương lập tức nhớ đến lần so tài với Thư Á Nam, tuy gã cuối cùng đã đoạt được Dịch Cân Kinh và Xá Lợi Tử, nhưng sau đó lại đưa hai báu vật ấy cho nàng, không biết chúng rốt cuộc rơi vào tay ai, ai đã dùng chúng tống tiền Thiếu Lâm? Còn Thiếu Lâm trong cái rủi có cái may, nhờ lần tống tiền đó mà danh tiếng lên như diều gặp gió. Bây giờ nghĩ lại, gã và Thư Á Nam đã hao tổn tâm trí, mạo hiểm bị Liễu Công Quyền bắt tại trận để trộm lấy Dịch Cân Kinh và Xá Lợi Tử, nhưng kẻ hưởng lợi lớn nhất lại là phía bị hại Thiếu Lâm. Nếu nói đây là trùng hợp, thì sự trùng hợp này quả có hơi quá.

Vân Tương suy ngẫm hồi lâu rồi gật đầu: “Được! Ta nhận lời tìm hiểu nguyên nhân thật sự dẫn đến việc Thiếu Lâm liên kết với Ma Môn. Nhưng đổi lại ta cũng muốn nhờ Sở cô nương giúp hai việc.”

Sở Thanh Hà cười nói: “Đây có phải là ra điều kiện trao đổi không?”

Vân Tương nở nụ cười ngang ngược: “Ta là người Thiên Môn, người Thiên Môn xưa nay chỉ làm những việc có lợi cho mình, nếu không có lợi, sao ta phải mất công tốn sức làm gì?”

Sở Thanh Hà gật đầu hiểu ý: “Được, công tử cứ nói!”

Vân Tương thoắt nghiêm nét mặt: “Việc thứ nhất, giúp ta tìm một nữ tử, muội ấy có mối quan hệ nhất định với vị tiền bối Thiên Tâm Cư ở đại hội ban sáng, tên là Thư Á Nam.”

Sở Thanh Hà nở một nụ cười đầy ẩn ý: “Cô nương ấy có phải nguyên nhân khiến công tử u uất không?”

“Chuyện này cô nương không cần bận tâm, chỉ cần khi tìm thấy thì lập tức báo cho ta biết là được!” Nói tới đây, gã ngập ngừng, giọng khàn đi có vẻ buồn bã: “Việc thứ hai, ta muốn nhờ Sở cô nương sai người đi Thanh Hải, giúp ta điều tra một vụ việc cũ.”

“Thanh Hải?” Sở Thanh Hà ngạc nhiên hỏi, “Xa vậy sao?”

Gã gật đầu: “Việc này ta không tiện làm, vì vậy chỉ có thể nhờ Sở cô nương giúp đỡ. Hơn nữa chuyện nhất định phải giữ kín, càng ít người biết càng tốt. Lát nữa ta sẽ viết chi tiết cho cô nương, hy vọng Sở cô nương giúp được ta!”

Sở Thanh Hà ngẫm nghĩ nói: “Nghe giọng công tử, việc này hẳn phải hết sức quan trọng, chúng ta mới chỉ gặp lần đầu, sao công tử có thể dễ dàng giao việc quan trọng nhường ấy cho ta?”

Gã cười nhạt: “Có người dù quen cả đời cũng không dám nhờ chuyện quan trọng. Lại có người tuy chỉ là sơ giao cũng có thể giao tính mạng cho nhau. Trong mắt ta, Sở cô nương thuộc hạng người thứ hai.”

Trên gương mặt bình thản lãnh đạm của Sở Thanh Hà lúc này thoảng vẻ cảm động khó tả, nàng cúi đầu hỏi: “Nói như vậy, công tử đã coi ta là bằng hữu đáng tin rồi?”

Vân Tương cười đáp: “Đâu chỉ đáng tin, với phong thái siêu trần thoát tục của Sở cô nương và danh tiếng huy hoàng của Thiên Tâm Cư, ta chỉ có thể tôn kính ngưỡng mộ, nào dám dùng nghĩa bằng hữu để kết giao.”

Sở Thanh Hà thoáng hụt hẫng, im lặng hồi lâu, nàng đột nhiên hỏi: “Vân công tử, ta… có thể chạm vào người công tử không?” Lời thốt ra miệng, Sở Thanh Hà cũng phải nhăn mặt vì ngượng ngùng.

Đề nghị của Sở Thanh Hà khiến Vân Tương có chút bất ngờ, nhưng thiết nghĩ nàng không phải người mắt sáng, yêu cầu như vậy cũng không quá đáng. Gã thản nhiên cười đáp: “Có gì mà không thể?” Đoạn bước tới gần nàng, dịu dàng nói: “Sở cô nương, ta ở đây.”

Nàng do dự mãi mới chậm rãi giơ tay chạm lên mặt gã. Mười ngón tay nàng như đang gảy đàn, cẩn thận từ tốn vuốt qua má Vân Tương, dáng vẻ vô cùng chuyên tâm, như muốn “nhìn” thật rõ gương mặt đối diện.

Lần đầu tiên để một thiếu nữ sờ mặt mình cặn kẽ như vậy, Vân Tương cũng hồi hộp khó tả, nhưng thấy dung mạo siêu trần thoát tục và đôi mắt mông lung như tiên của Sở Thanh Hà, gã buộc lòng nhắc nhở bản thân: “Vân Tương ơi Vân Tương, Sở cô nương là thế ngoại cao nhân, đâu có thể lấy lòng phàm so sánh? Nếu ngươi còn mang tạp niệm, như vậy là đang xúc phạm cô nương ấy rồi.”

Sở Thanh Hà chậm rãi vuốt từ trán xuống cằm Vân Tương, cuối cùng cũng thu tay lại, ngây người trước mặt gã hồi lâu, đột nhiên buồn bã than: “Lần đầu tiên ta cảm thấy, không có một đôi mắt sáng thật đau khổ biết bao.”

Gã thấy nét mặt nàng đầy hụt hẫng, lòng thương cảm bất chợt dâng trào, toan mở lời an ủi nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Sở Thanh Hà như thể nhìn thấu tâm tư gã, nhoẻn cười tươi tắn: “Thực ra ông trời đã cho ta rất nhiều thứ rồi, ta không nên quá tham lam, mong công tử đừng chê trách.” Vừa nói nàng vừa ôm lấy cây đàn đứng dậy, từ tốn vái chào: “Việc công tử nhờ, Thanh Hà sẽ dốc sức làm, xin công tử yên tâm.”

Hai người trao đổi cách thức và địa điểm liên lạc, sau đó Sở Thanh Hà mới nhẹ nhàng rời đi. Vân Tương nhìn theo bóng dáng nàng xa dần, thấy nàng một tay ôm đàn, một tay chống gậy dò đường giữa núi rừng mà lòng đầy xót xa.

Ống tay áo rộng phất lên, cuốn lấy con chim hỷ thước trên cây, bắt trọn nó vào lòng. Tiếp đó ống tay áo rũ ra, hỷ thước lập tức bay vút đi tìm đường trốn. Chẳng ngờ bay xa quá một trượng, một vệt xám đã tức thì đuổi tới, tay áo vung lên, lại cuốn nó vào trong ống tay. Bảy tám con chim hỷ thước bị hai ống tay áo phất qua phất lại lúc cuốn lúc thả nhưng rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi phạm vi ống tay áo.

Phương trượng Viên Thông vẫn như mọi khi, sau giờ giảng đạo buổi sáng lại ra hậu viện luyện công. Lão thi triển Lưu Vân Tụ xuất quỷ nhập thần, bảy tám con chim hỷ thước bay tới bay lui trước mặt nhưng mỗi lần sắp tháo chạy được đều bị hai ống tay áo của lão chụp bắt lại. Thoạt trông giống như đám hỷ thước đang bay lượn ríu rít xung quanh cùng lão luyện công.

Tên đệ tử đứng dưới hành lang trố mắt ra nhìn, thấy Viên Thông nở nụ cười đạo mạo, đột nhiên cuộn tròn hai ống tay, ôm trọn lũ chim vào lòng, sau đó chậm rãi thu thế, lũ chim lúc này mới từ trước ngực lão nháo nhác bay vút lên trời.

Viên Thông điều hòa hơi thở, sau đó mới nhìn tên đệ tử đứng dưới hành lang, ôn tồn hỏi: “Chuyện gì?”

Tên đệ tử sực tỉnh, vội chắp tay nói: “Có người muốn gặp chưởng môn phương trượng, đệ tử không dám tự quyết nên đến bẩm báo.”

Viên Thông cau mày, vẻ không vui: “Ta đã nói rồi, trừ phi là tuần phủ Lưỡng Hà hoặc chưởng môn thất đại môn phái đến cầu kiến thì hẵng thông báo, những người khác nhất loạt đuổi hết đi cho ta.”

Tên đệ tử vội giải thích: “Là khách do La sư thúc dẫn tới, chúng đệ tử cũng không dám sơ suất, vì vậy mới đến xin phương trượng chỉ bảo.”

Viên Thông biết La sư thúc trong lời đệ tử chính là La Nghị, đệ tử tục gia của Tĩnh Không đại sư. Tuy cậu nhỏ tuổi, nhưng bối phận trong Thiếu Lâm Tự không hề thấp. Thiếu Lâm lại là cấm địa Phật Môn, không có phẩm cấp như thế tục, vì vậy chỉ dựa vào cách luận bối phận để duy trì đẳng cấp tôn ti. La Nghị và phương trượng có cùng bối phận, chẳng trách các đệ tử không dám thất lễ. Nghĩ vậy, Viên Thông mới tiện miệng hỏi: “Là ai?”

Tên đệ tử chắp tay thưa: “Y tự xưng là Thiên Môn công tử Tương!”

Viên Thông thầm rúng động, thoáng biến sắc mặt. Hiện giờ công tử Tương tuy đã kín tiếng trên giang hồ, nhưng Viên Thông hiểu rất rõ thế lực của gã đang ngày càng lớn mạnh, thực lực lúc này e không hề kém cạnh chưởng môn bảy môn phái lớn. Một nhân vật lớn đột nhiên đến cầu kiến, bất luận thế nào lão đều không thể từ chối.

“Mời y đến thiền phòng của ta đợi, vi sư sẽ đến sau.” Viên Thông xua tay cho đệ tử lui, rồi ngẫm nghĩ nguyên nhân công tử Tương tới gặp mình, sau khi đã có đối sách ứng phó, lão mới chậm rãi bước tới thiền phòng.

Thiền phòng cách hậu viện không xa, Viên Thông vừa đến ngoài cửa đã trông thấy một thư sinh gầy gò yếu ớt chắp tay đứng quay lung về phía mình, đang mải chiêm ngưỡng bức tranh chữ trong thiền phòng. Nghe thấy tiếng bước chân Viên Thông cố tình để lộ, gã quay đầu lại, cười uể oải, chắp tay chào: “Vãn bối Vân Tương bái kiến phương trượng Viên Thông.”

Viên Thông mời gã ngồi, đợi tiểu sa di bưng trà lui xuống, mới quan sát cặn kẽ gã, đoạn lãnh đạm hỏi: “Công tử Tương nổi danh giang hồ, kết giao với toàn những danh môn thế gia, sao đột nhiên lại nghĩ tới chuyện gặp người thân ngoài thế tục như ta?”

Vân Tương cười nhạt đáp: “Với thực lực và danh vọng ngày nay, Thiếu Lâm e rằng không hề thua kém các danh môn thế gia, phương trượng Viên Thông có lẽ cũng không xếp dưới bất kỳ thủ lĩnh bang hội nào. Vân mỗ đã lăn lộn trong giang hồ, có lý đâu lại không đến bái kiến?”

Viên Thông nghe ra gã cố tình so sánh Thiếu Lâm với bang hội hắc đạo, xem chưởng môn như lão là lão đại giang hồ thì bất mãn hỏi vặn lại: “Nghe ý công tử Tương là muốn đến thăm Thiếu Lâm ta? Đáng tiếc Thiếu Lâm là đất Phật thanh tịnh, không phải nơi dung tàng đám cặn bã như bang hội giang hồ, e rằng để công tử thất vọng rồi.” Lão nói rồi bưng chén trà, tỏ ý tiễn khách.

“Thiếu Lâm có thật là đất Phật thanh tịnh không?” Vân Tương nhìn chằm chằm vào Viên Thông, cười khẩy: “Xin thứ cho ta kể ra bảy tội lớn của Thiếu Lâm!”

Viên Thông lộ vẻ chế giễu, đặt chén trà xuống lạnh nhạt nói: “Thí chủ là hạng lừa đảo Thiên Môn mà cũng dám tới chỉ trích Thiếu Lâm. Được! Ta thử nghe ngươi liệt kê bảy tội lớn của Thiếu Lâm xem!”

Vân Tương giơ tay đếm số: “Một, hối lộ thần! Hối lộ Phật tổ, bị Thiếu Lâm nói thành công đức, tuyên truyền thờ cúng Phật tổ và đệ tử của Ngài thì có thể tích đức để kiếp này hoặc kiếp sau làm quan, kiếm tiền, hưởng phúc. Thiếu Lâm mượn danh nghĩa Phật, lợi dụng các thủ đoạn đốt cao hương, tích công đức… ngang nhiên móc tiền tín đồ, khác gì đám tham quan ô lại sách nhiễu móc tiền của dân?”

Thấy Viên Thông im lặng, Vân Tương tiếp tục giơ ngón tay nói: “Hai, thiền định! Biến bản thân thành động vật máu lạnh, triệt tiêu tình cảm, điều này lại được cao tăng Thiếu Lâm nói là trí tuệ Bát Nhã. Hạng người này nếu trong Phật Môn thì được coi như cao tăng đắc đạo, còn ngoài cửa Phật sẽ thành ra táng tận lương tâm.”

“Ba, nhân quả báo ứng. Bần cùng khốn khổ bị cao tăng Thiếu Lâm xuyên tạc thành nghiệp báo, mỗi người buộc phải chịu số phận cùng khổ của mình, đây là thứ lý lẽ tà ác duy trì lợi ích của đám quyền quý, khinh thị người dân nghèo khó!”

“Bốn, xuất gia! Vì muốn bản thân thành chính quả mà bỏ nhà, bỏ cha mẹ để theo Phật, các người lại nói đó là công đức vô lượng. Còn ở nhân gian đây chánh là hành vi ích kỷ vô trách nhiệm, không biết báo ơn nghĩa sinh thành.”

“Năm, công đức. Phật muốn công đức, cũng muốn tứ đại giai không, đơn giản mà nói thì có lợi cho bản thân là công đức, còn bất lợi thảy đều hư vô. Đây chính là điển hình của khẩu thị tâm phi.”

“Sáu, không sát sinh. Đây là giới luật tối cao của Phật Môn, nhưng người muốn sống không thể không sát sinh. Ví dụ như trên đường giết kiến, rửa rau giết sâu. Đệ tử Phật Môn xem việc rửa rau giết sâu là làm sạch rau cỏ, không coi như sát sinh, hoặc giương ngọn cờ trừ ma vệ đạo để giết người như ngóe. Chuyện này không biết là do luật cấm sát sinh quá cổ hủ, hay đệ tử Phật Môn xem giới luật như trò trẻ con?”

“Bảy, Phật phải dát vàng. Nơi thờ Phật phần lớn đều nguy nga lộng lẫy, vô cùng xa hoa, Thiếu Lâm lại càng nổi bật trong số ấy, Phật dát vàng đeo bạc được các người nói thành ‘thù thắng’*. Xem thử nhà cửa của dân chúng xung quanh, có gian nhà tranh nào được trang hoàng như Phật đường! Mỗi phần rực rỡ ở đây đều được nặn từ mồ hôi và máu của tín đồ! Ta tuy là người Thiên Môn nhưng cũng không thể không khâm phục thủ đoạn của quý tự, thật sự vượt xa người trong đạo chúng ta.”

Nói tới đây, Vân Tương bất giác lắc đầu thở dài: “Có lẽ bảy tội lớn của Phật môn này không chỉ Thiếu Lâm mới có, nhưng ở Thiếu Lâm lại là nặng nhất!”

Viên Thông bỗng nhiên bật cười ha hả, vừa cười vừa than: “Công tử Tương à công tử Tương, ta vốn tưởng ngươi là kẻ khôn ngoan thật sự, ai ngờ hôm nay gặp mới biết, hóa ra cũng chỉ là hạng tầm thường.”

Vân Tương cười hỏi: “Vì đâu đại sư cho là vậy?”

Viên Thông ngừng cười, vuốt râu ngạo nghễ nói: “Bảy tội lớn của Thiếu Lâm mà ngươi liệt kê, theo ta thực ra cũng chính là bảy công đức lớn của Phật giáo. Ví dụ như tội thứ nhất, hối lộ thần, ngươi cho rằng liệu có nổi mấy tín đồ thật sự tin đốt cao hương góp công đức ở chùa chiền có thể tiêu trừ tội nghiệt họ phạm phải? Có thể mua được phúc báo trong tương lai? Không! Không một ai! Nhưng tại sao lại có nhiều người chịu mở hầu bao như vậy? Thực ra, họ đang mua một hy vọng, là hy vọng tiêu trừ tội nghiệt, hoặc hy vọng thăng quan phát tài, phúc báo kiếp sau. Kiếp người có gian nan khổ sở đến đâu chăng nữa, chỉ cần có hy vọng thì sẽ còn lý do để sống tiếp. Thiếu Lâm trong mắt ta chính là một thể thương nghiệp, thứ nó bán chính là hy vọng. Điều này lẽ nào không phải là công đức?”

Thấy Vân Tương trợn mắt nghẹn lời, Viên Thông cười nói: “Nghe nói công tử Tương không chỉ là cao thủ Thiên Môn, mà còn là một kỳ tài trong giới kinh thương. Đế quốc thương nghiệp ngươi bí mật nắm giữ đã hùng bá Giang Nam. Tiếc rằng dù là thương gia cao minh tới đâu, trong mắt bản giáo cũng là kẻ vô tri không đáng đếm xỉa, nếu so với thành tích của bản giáo thì mãi mãi chỉ là ánh đom đóm so với vầng thái dương.”

Nói tới đây, Viên Thông chắp tay sau lưng đứng dậy, nhìn xuống Vân Tương, nghênh ngang nói: “Phật giáo từ nghìn năm trước đã bắt đầu vận dụng các thủ đoạn kinh thương, tự gây dựng lớn mạnh. Những thủ đoạn này đủ để mọi thương nhân lẫy lừng phải hố mắt nhìn theo. Chúng ta biết tầm quan trọng của đại sảnh, nên điện chính bắt buộc xây nguy nga lộng lẫy, để người khác kính ngưỡng chiêm bái. Chúng ta hiểu tầm quan trọng của tuyên truyền, nên chỉ nói lời đẹp đẽ dễ nghe, hứa hẹn với tín đồ về tương lai tươi đẹp họ mong cầu. Chúng ta hay tầm quan trọng của chữ tín trong kinh doanh, nên đem nghiệm chứng thế giới Tây phương Cực Lạc gác lại cho tín đồ trăm năm sau, để chùa chiền không bao giờ mang tiếng lừa gạt. Chúng ta rõ tầm quan trọng của địa điểm kinh doanh, nên chọn toàn những ngọn núi có tiếng trong thiên hạ dựng chùa, để tín đồ thi nhau kéo đến không bị mất hứng. Chúng ta cũng biết tầm quan trọng của liên kết làm ăn, nên các tự viện khắp thiên hạ đều cùng cây cùng nhánh, dùng sức mạnh số đông đẩy Đạo giáo, Cảnh giáo vào cảnh không chốn dung thân. Chúng ta còn biết tầm quan trọng của hợp tác quan thương, nên đại đức cao tăng đều phải ra vào cung cấm, tham dự chuyện quân sự triều chính. Bởi vậy dẫu cho Diệp gia Ba Thục, Tô gia Giang Nam có thực lực hùng hậu, kinh nghiệm phong phú thế nào, khi đứng trước mặt bản giáo đều không đáng nhắc tới. Thánh điển Lã Thị thương kinh trong truyền thuyết đặt trước kinh Phật cũng chỉ là tập giấy vụn thô lậu không hơn không kém. Bản giáo mãi mãi là một thể thương nghiệp vĩ đại xuyên thời đại, với tôn chỉ, cảnh giới và đường lối vĩnh viễn ngự trên đỉnh Thái Sơn. Vĩ đại nhất là Phật! To lớn nhất cũng là Phật! Vương triều có thể thay đổi, bãi bể có thể thành nương dâu, duy sự nghiệp vĩ đại của Phật Môn mới thiên thu vạn đại, đời đời bất diệt!”

Khuôn mặt của Viên Thông hồng hào phấn khích, lão với lấy chén trà, lần này không phải để tiễn khách mà vì hưng phấn đến khô cổ. Lão uống cạn chén trà, sau đó đặt xuống than: “Nhiều kẻ trần tục đang chỉ trích Viên Thông ta, nói ta coi Thiếu Lâm như sản nghiệp để kinh doanh là bậy bạ, sự chỉ trích và nỗi oan uổng này đúng là hoang đường quá thể!” Nói tới đây, lão chỉ tay khắp xung quanh: “Chính Viên Thông ta đã khiến danh vọng của Thiếu Lâm đạt tới đỉnh cao chưa từng có, tín đồ môn nhân trải khắp thiên hạ! Thử hỏi có vị đại đức cao tăng nào làm được tới độ huy hoàng như ta ngày hôm nay? Ta là một thánh đồ chân chính, vì hưng thịnh của Phật giáo mà chịu tất cả tiếng xấu lẫn sự khinh miệt lăng mạ của người đời, danh tiếng ta chắc chắn sẽ còn lưu sử sách, công đức của ta đủ để Tây tiến Linh Thứu Sơn, được Như Lai tiếp dẫn!”

Vân Tương ngây người nhìn vị cao tăng Phật Môn coi trời bằng vung trước mặt, chỉ cảm thấy hiểu biết của bản thân về Phật giáo quá nông cạn. Gã trầm ngâm hồi lâu mới lên tiếng hỏi: “Vì sự nghiệp Phật Môn vĩ đại trong lòng mình mà đại sư không tiếc liên minh với Ma Môn, còn lợi dụng thánh vật Thiếu Lâm là Dịch Cân Kinh và Xá Lợi Tử để thực hiện việc theo ông là kinh doanh, nhằm mục đích đưa danh vọng Thiếu Lâm lên tầm cao mới sao?”

Viên Thông thoáng rùng mình, trong mắt lóe lên tia sắc lẹm kinh người. Lần “mời giặc đến nhà” thành công mấy năm trước, kẻ nghe tiếng mà tới chính là Thiên Môn công tử trước mặt lão lúc này. Viên Thông không rõ gã biết được bao nhiêu, song đây là bí mật lão không muốn để người khác biết nhất. Nếu bí mật này bị vạch trần trước thiên hạ, danh tiếng của Thiếu Lâm và lão chắc chắn sẽ sụp đổ trong chớp mắt!

Sự biến đổi trên khuôn mặt Viên Thông không thoát khỏi cặp mắt Vân Tương, chiêu đánh rắn động cỏ của gã đã đạt được mục đích. Vân Tương thản nhiên tiếp nhận ánh mắt lạnh băng của Viên Thông, ung dung cười nói: “Đại sư biết rõ lịch sử Phật Môn, hẳn cũng biết quý giáo ở Trung Nguyên đã mấy độ từ cực thịnh sa vào cảnh suy bại, ông biết vì sao không?”

Viên Thông nhướng mày, trầm giọng nói: “Xin được thỉnh giáo!”

Vân Tương cười nhạt đáp: “Phật giáo quả thực là một tấm gương kinh doanh thành công, bản thân ta cũng không khỏi nể phục. Kẻ đánh bại nổi Phật giáo chỉ có thể là bản thân nó, nhược điểm lớn nhất của Phật giáo chính là quá tham lam, vì mưu cầu phúc nơi vạn thế mà kết giao với hoàng thất, nhưng trước sau đều không biết thế nào là đủ, tham cầu sự tôn quý của hoàng gia dẫn tới mấy độ diệt Phật, mong đại sư lấy đó làm gương!”

Viên Thông thầm rùng mình, đột nhiên nghĩ tới việc triều đình sắc phong Thiếu Lâm vẫn chậm trễ không hồi kết, kéo dài mấy năm nay. Lẽ nào công tử Tương biết được mối quan hệ giữa Thiếu Lâm và triều đình? Lão tuy có chút kinh ngạc, nhưng vẫn giữ vẻ bình thản: “Đa tạ công tử nhắc nhở, Viên Thông hy vọng có thể kết giao với bằng hữu như công tử.”

Vân Tương cười ha hả, đứng dậy nói: “Ta có cách lý giải hoàn toàn khác ông về tôn chỉ của Phật giáo, sự huy hoàng của Thiếu Lâm khiến ta liên tưởng tới thời kỳ mạt pháp như lời tiên đoán của Phật Đà khi tạ thế ở Niết bàn. Nhưng may có Lục tổ Huệ Năng đốn ngộ, nói thành Phật chỉ trong một sát na, còn nói Phật trong tâm không ở ngoài tâm. Phật đã không ở ngoài tâm vậy thì tượng Bồ tát kia còn giữ làm gì? Huệ Năng đã hát bài ca phúng điếu thứ Phật giáo mà ông đang tuyên truyền đấy.”

Dứt lời, Vân Tương bật cười lớn, sải bước đi thẳng trong ánh mắt lấp lóe của Viên Thông. Gã vừa đi vừa than: “Lần này ta đến gặp phương trượng, vốn là muốn Thiếu Lâm phân rõ ranh giới với Ma Môn, nhưng hiện giờ xem ra không cần tốn công sức nữa. Thiếu Lâm hiện nay đã đạt tới cảnh giới tối cao Phật tức là Ma, Ma tức là Phật, Phật Ma hợp nhất, chuyện liên minh với Ma Môn đã trở thành một lẽ tất nhiên.”

Viên Thông dõi mắt nhìn theo bóng Vân Tương, cặp mắt khi lóe sáng lúc sa sầm, đợi gã đi khuất bóng, lão mới đập tay gọi: “Người đâu!”

Một tiểu sa di đáp lời bước vào, Viên Thông mắt nhìn mông lung, lơ đãng nói: “Gọi Giác Năng sư huynh của ngươi đến gặp ta.”

Lát sau, một hán tử mặt vuông tai lớn, đôn hậu thuần phác được tiểu sa di dẫn tới. Người này tuy mặc tăng y, đầu để tóc, song không giống những đầu đà để tóc tu hành. Y vừa bước vào cửa bèn cung kính thi lễ với Viên Thông: “Giác Năng bái kiến chưởng môn phương trượng.”

Trong chùa thông thường đều có những kẻ để tóc tu hành, bọn họ mặc tăng y vào thì là người cửa Phật, cởi tăng y ra lại là tục nhân. Chùa chiền cũng là một thực thể kinh tế, ít nhiều có mối quan hệ kinh tế với người ngoài, những chuyện này không tiện để hòa thượng làm, vì vậy các chùa lớn đều có mấy cư sĩ để tóc tu hành, mục đích chính là tiện việc mua bán đi lại với người ngoại đạo. Với những người thuộc nhóm này, việc tu hành chỉ là phụ, chức trách chính là duy trì bánh răng kinh tế của nhà chùa vận hành trơn tru.

Viên Thông vẫy tay cho tiểu sa di lui ra, sau đó nhìn Giác Năng đang cười hềnh hệch bằng ánh mắt phức tạp. Đây là đệ tử lão tin tưởng nhất, nhưng hiện giờ lại trở thành tâm bệnh lớn nhất của lão. Viên Thông quan sát y hồi lâu, đột nhiên hỏi: “Ngươi bao lâu rồi chưa về nhà?”

Giác Năng ngây người, vội đáp: “Người xuất gia lấy chùa làm nhà, đã xuất gia, đệ tử ngoài Thiếu Lâm Tự không còn nhà nào nữa.”

Viên Thông xua tay, khẽ thở dài: “Trước mặt vi sư, ngươi không cần câu nệ như vậy. Tình thân sao có thể nói buông là buông? Ngươi đi thu dọn, sáng sớm mai về thăm cha mẹ một chuyến.”

Giác Năng nghe mà cơ hồ không dám tin vào tai mình, thấy Viên Thông không giống đang đùa, y mừng quýnh quỳ sụp xuống đất, khấu đầu lia lịa: “Đa tạ chưởng môn phương trượng! Đa ta sư phụ!” Dứt lời, y mặt mày hớn hở chạy đi như bay.

Giác Năng vừa đi, nụ cười hiền từ trên mặt Viên Thông lập tức biến mất, thay vào đó là vẻ im lìm lạnh lẽo. Lão vỗ nhẹ tay, lệnh cho tiểu sa di vừa bước vào: “Ngươi đi truyền lời thay vi sư, nói mấy hôm tới ta phải bế quan tu luyện, bất cứ ai cũng không được quấy rầy. Tất cả sự vụ trong chùa tạm thời do Viên Thái sư đệ lo liệu.”

Đợi tiểu sa di lui ra, Viên Thông liền đi tới tĩnh thất sau chùa. Đây là nơi lão chuyên dùng để bế quan tu luyện, trong thời gian này, không một ai được phép tới làm phiền.

Tiểu sa di vừa rời khỏi thiền phòng của phương trượng thì nghe có người gọi mình: “Vĩnh Thiện! Ngươi vội vàng đi đâu thế?”

Tiểu sa di nhìn kỹ lại, nhận ra đó là La Nghị, đệ tử tục gia của Thiếu Lâm. Tuy La Nghị có bối phận cao trong Thiếu Lâm, nhưng trước giờ luôn thân thiện với chúng tăng nên tiểu sa di thường quên mất thân phận sư thúc của cậu. Thấy La Nghị hỏi, tiểu sa di vừa đi vừa đáp: “Chưởng môn phương trượng lại sắp bế quan tu luyện, tôi phải mau chóng đi thông báo cho Viên Thái sư thúc, để ông ấy tạm thời thay chưởng môn lo việc trong Thiếu Lâm.”

La Nghị nhìn theo bóng tiểu sa di đi khuất, ánh mắt lộ vẻ suy tư. Chưa kịp tập xong La Hán Quyền, cậu bèn thu thế, chào tạm biệt mấy võ tăng đang luyện công cùng, sau đó hối hả rời khỏi chùa.

Lại nói về Viên Thông sau khi vào tĩnh thất bế quan, lão lập tức trút bỏ áo cà sa, đoạn lấy ra một tay nải từ nơi bí mật. Bên trong tay nải có mấy thứ như quần áo dạ hành và tóc giả. Viên Thông cẩn thận thay đồ cải trang, chốc lát đã biến thành một kẻ dạ hành quấn khăn đen kín mặt. Lão ngồi xếp bằng trong tĩnh thất, chờ trời tối.

Nghe thấy tiếng chuông điểm canh vọng lại từ bên ngoài, Viên Thông bắt tay vào cạy một viên đá xanh trong tĩnh thất, để lộ lỗ hổng đen kịt. Tĩnh thất được xây men sườn núi, có mật đạo thông ra sau. Mỗi lần hành động bí mật, Viên Thông đều mượn cớ bế quan để trốn ra sau núi từ đây. Thời gian bế quan đều có đệ tử hộ pháp bảo vệ bên ngoài tĩnh thất, vì vậy không ai có thể xông vào bên trong.

Chẳng bao lâu sau, Viên Thông trong trang phục dạ hành đã lẳng lặng xuất hiện từ một hang động sau núi. Lão nhớ nhà Giác Năng cách Tung Sơn không xa, chắc chắn có thể đến trước khi trời sáng. Giác Năng là đệ tử tâm phúc của lão, cũng là đệ tử đã đưa lão tới Bắc Kinh trong lúc bế quan mấy năm trước. Chính vì nguyên nhân này, lão không thể không giết người diệt khẩu, thậm chí không dám để người khác ra tay. Nếu vụ việc mấy năm trước bị người khác điều tra ra ngọn nguồn, danh tiếng Thiếu Lâm bị hủy là chuyện nhỏ, nhưng để lộ mối quan hệ giữa lão và vị quyền cao chức trọng trong triều kia thì e rằng lão chết không chỗ chôn thây. Nghĩ tới đây, Viên Thông không khỏi rùng mình, lập tức phi thân lao xuống núi.

Trời vừa tờ mờ sáng, Viên Thông đã tới sơn thôn nhỏ nơi cha mẹ Giác Năng sinh sống. Trước thôn có một rừng dâu, là con đường duy nhất để vào thôn. Nơi đây địa thế khuất nẻo, cây cối um tùm, ánh sáng tù mù, quả là nơi phục kích lý tưởng. Viên Thông chọn một gốc cây lớn phi thân lên trên, mượn tán lá sum suê giấu mình thật kỹ, im lặng chờ Giác Năng tới.

Đến tận hoàng hôn ngày hôm sau, sắc trời đã bắt đầu mờ tối, mới thấy một bóng người mặc áo vải xám hối hả chạy tới, nhìn cách ăn mặc và mái tóc rối bù ngang vai, hẳn là Giác Năng không sai. Viên Thông kiểm tra lại trang phục dạ hành và tấm khăn đen che mặt lần nữa, tin chắc dù mặt đối mặt, Giác Năng cũng không thể nhận ra mình, lão mới khẽ khàng rút đoản kiếm giắt bên hông ra. Để che giấu thân phận, lão đã cố tình chọn kiếm làm hung khí.

Thấy bóng Giác Năng băng qua dưới gốc cây, Viên Thông thầm than: “Thật sự xin lỗi, ngươi đã biết chuyện không nên biết. Sau khi ngươi chết, ta sẽ đối xử tốt với người nhà ngươi.” Đoạn, lão nhảy vụt từ trên cây xuống, đoản kiếm như lưỡi rắn đâm thẳng tới mái đầu bù xù bên dưới. Ở cự ly này, lão tin chắc Giác Năng tuyệt đối không thể thoát.

Khi lưỡi kiếm sắp đâm xuống mái đầu bù xù kia, mục tiêu bất ngờ lăn tròn né khỏi kiếm. Thân thủ nhanh nhạy, hành sự cảnh giác vượt ngoài tiên liệu của Viên Thông. Song lão không nghĩ ngọt nhiều, lập tức tung liền ba chiêu bức đối phương vừa lăn vừa bò lồm cồm tránh né, bộ dạng tuy chật vật, nhưng vẫn thoát khỏi ba chiêu kiếm tất sát. Lúc này Viên Thông mới phát giác, đó không phải là Giác Năng! Tuy y cũng ăn vận như cư sĩ nuôi tóc, nhưng không phải Giác Năng! Viên Thông quan sát kỹ càng hồi lâu mới nhận ra đối phương là đệ tử tục gia Thiếu Lâm La Nghị, không biết tại sao lại mặc tăng y rồi xõa tóc, làm lão trong lúc nhập nhèm nhận nhầm là Giác Năng.

Thấy La Nghị lui liền về sau mấy bước, Viên Thông ghìm giọng hỏi: “Giác Năng đâu?”

La Nghị không đáp, bất ngờ cất tiếng hú dài, đồng thời lui nhanh về sau. Viên Thông toan truy kích, chợt nghe tiếng bước chân rầm rập ập tới, từ tiếng đạp đất nhẹ nhàng cùng phương hướng phát ra tiếng động, ước chừng có khoảng bảy, tám hảo thủ võ công thuộc hàng khá đang khép vòng vây hình bán nguyệt áp sát lão. Viên Thông lập tức hiểu ra mình đã trúng kế công tử Tương, nhân lúc thân phận chưa bị lộ, lão lập tức phi thân về sau, chớp mắt đã biến mất vào sâu trong rừng.

Mãi đến khi sát thủ che mặt bỏ đi xa, La Nghị mới thở phào một tiếng. Lúc này mấy võ tăng theo sau cậu cũng lũ lượt ập tới, liến thoắng hỏi: “Tiểu sư thúc! Thích khách đâu? Đi đâu rồi?”

La Nghị cười khổ lắc đầu. Tuy Vân đại ca đã đoán được Viên Thông bị gã đánh rắn động cỏ chắc chắn sẽ có hành động, vì vậy khi biết Viên Thông để Giác Năng về nhà thăm cha mẹ, La Nghị đã âm thầm chặn y lại, còn mình giả trang thành Giác Năng tức tốc lên đường, dụ sát thủ mắc câu, có điều cậu không thể ngờ Viên Thông lại đích thân ra tay. Ba chiêu kiếm vừa rồi thiếu chút nữa đã lấy mạng La Nghị, hiện giờ dù có thêm bảy, tám võ tăng Thiếu Lâm ngày thường vốn có giao tình tốt với cậu e cũng không chặn nổi Viên Thông. Hơn nữa, nếu phát giác ra thân phận của Viên Thông, liệu mấy võ tăng này còn giúp cậu hay không, điều này thật không dám nói chắc. La Nghị bị bâu lấy hỏi han, đành nói lảng đi: “Thích khách giảo hoạt quá, đã trốn mất rồi.”

“Lạ nhỉ, ai lại ở đây để phục kích Giác Năng?” Một võ tăng ngờ vực gãi đầu, y là một trong Thập Bát La Hán của Thiếu Lâm, tuy đầu óc không mấy thông minh, nhưng võ công không hề tầm thường.

“Đúng đấy! Tiểu sư thúc, Giác Năng sư đệ bình thường hay hầu hạ bên cạnh phương trượng, ít khi hành tẩu giang hồ, sao lại kết thù oán với người khác chứ?” Một võ tăng khác cũng hồ nghi hỏi.

La Nghị xòe hai tay, tỏ vẻ vô tội: “Chuyện này sao ta biết được? Mọi người cùng đi hỏi Giác Năng xem.”

Mấy hòa thượng theo La Nghị trở về, một võ tăng nhìn bộ dạng La Nghị, bật cười trêu chọc: “Tiểu sư thúc mặc tăng y cũng giống hòa thượng thật, hay là xuất gia cùng chúng ta luôn đi.”

La Nghị chưa kịp đáp, một võ tăng khác đã cướp lời: “Tiểu sư thúc khôi ngô anh tuấn, hào hoa phong nhã, còn muốn lấy vợ đẻ con, sao mà xuất gia làm hòa thượng như chúng ta được?”

Mấy người trẻ tuổi dọc đường cười nói hỉ hả, trêu đùa lẫn nhau, hoàn toàn vứt bỏ sự câu nệ và nghiêm chỉnh khi ở trong chùa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3