Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 59
3
Trị
độc
Mười mấy viên Thất Hồn đơn đặt trong đĩa sứ như những viên ngọc trai sáng lóa, thế nhưng Sở Thanh Hà hoàn toàn không nhìn thấy, chỉ có thể lấy tay sờ, cảm nhận loại độc dược tà ác cùng cực này. Một đại phu tuổi quá cổ lai hy đang đứng bên thao thao giải thích: “Theo lão hủ phân tích, Thất Hồn đơn được tinh luyện từ quả anh túc, có khả năng tạo ảo giác cực mạnh, độc tính rất đặc biệt, không có thuốc nào giải được. Khi lên cơn nghiện chỉ có thể dùng chính độc tính của nó để hóa giải, bởi vậy một khi bị trúng độc thì phải uống liên tục, lấy độc trị độc.”
“Cuối cùng sẽ thế nào?” Sở Thanh Hà vội hỏi. Lão đại phu thoáng lưỡng lự rồi lắc đầu than: “Độc dược tích lũy trong người đến một mức nhất định, người uống nó dĩ nhiên chỉ còn đường chết.”
Sở Thanh Hà thoáng biến sắc, bất giác quay về phía cửa sổ, nơi đó loáng thoáng vọng ra tiếng gào thét đau đớn, tựa như tiếng gọi từ địa ngục. Lão đại phu nghiêng tai lắng nghe, áy náy nói: “Cô nương, lão hủ đã dốc hết sức giúp gã nôn ra phần lớn dược hoàn trong bụng, nhưng y trúng độc quá nặng, lão hủ hoàn toàn hết cách.”
“Thật sự không còn cách nào sao?” Sở Thanh Hà hoang mang hỏi. Lão đại phu lắc đầu ngậm ngùi: “Độc tính Thất Hồn đơn trong người y ngày nào cũng sẽ phát tác, nếu không để y lấy độc trị độc, vậy thì y sẽ phải chịu đau khổ giày vò như sống dưới địa ngục, sự giày vò ấy đủ để bất kỳ ai cũng phải phát điên phát cuồng, rất khó vượt qua, nhưng nếu cho y uống Thất Hồn đơn thì sớm muộn gì y cũng chết vì độc tính tích tụ lại.”
Sở Thanh Hà ngây người không nói nên lời, lão đại phu thấy vậy lại chần chừ tiếp: “Có lẽ… khi độc tính phát tác, dùng những thứ y hứng thú nhất phân tán sự chú ý của y thì có thể giảm nhẹ sự đau khổ. Ngoài chuyện này ra lão hủ quả thực không biết còn cách nào, đành hổ thẹn cáo từ.”
Sau khi lão đại phu rời khỏi, Sở Thanh Hà ôm dao cầm, dò dẫm lần theo tiếng thét tới hậu viện. Trong một gian phòng đóng kín cửa, Vân Tương đang lăn lộn dưới đất gào thét, chốc chốc lại đập mạnh đầu xuống đất, máu chảy đầy mặt cũng không biết. Vì muốn giúp gã giải độc, Sở Thanh Hà đã đưa gã từ Tung Sơn về Thiên Tâm Cư, nhưng y thuật của Thiên Tâm Cư hoàn toàn bó tay với độc tính của Thất Hồn đơn, hiện giờ thái y được mời từ kinh thành tới cũng chịu thua loại độc này.
Tiếng gào thét đau đớn cùng cực của Vân Tương khiến người ta kinh hãi, Sở Thanh Hà bèn bảo thiếu nữ đang canh chừng bên ngoài: “Mau mở cửa ra.”
“Sư tỷ!” Thiếu nữ kia vội ngăn: “Lúc dược tính phát tác y giống như con chó điên vậy, không ai cản được đâu.”
Sở Thanh Hà ung dung đáp: “Muội yên tâm, ta tự lo được.”
Thiếu nữ kia đành thận trọng mở cửa phòng, đợi Sở Thanh Hà bước vào xong liền đóng chặt cửa lại, như sợ ác ma mãnh thú trong đó xông ra.
Vân Tương ở trong phòng vẫn chưa hoàn toàn mất tri giác, nghe tiếng cửa mở, gã giãy giụa bò dậy, loạng choạng bước về phía Sở Thanh Hà, gằn giọng rít lên: “Cho ta! Mau cho ta Thất Hồn đơn!”
Sở Thanh Hà khẽ lắc đầu: “Không có! Không có Thất Hồn đơn. Nhưng ta có thể gảy một điệu Thanh Tâm Khúc, có lẽ sẽ giúp được cho công tử.”
Vân Tương vung tay hất mạnh cây dao cầm ra, hai mắt đỏ ngầu trợn trừng nhìn Sở Thanh Hà quát: “Thất Hồn đơn, ta chỉ cần Thất Hồn đơn!”
Sở Thanh Hà không đáp, lần mò bước đến nhặt đàn lên, ngồi xuống khoanh chân chỉnh lại dây đàn. Vân Tương đột ngột nhào tới, bóp chặt cổ nàng từ phía sau, rít lên: “Thất Hồn đơn! Mau cho ta Thất Hồn đơn!”
Sở Thanh Hà cố chịu đựng cảm giác nghẹt thở, nhẹ nhàng gảy đàn, tiếng đàn như tiếng chuông chùa khánh cũ vang lên văng vẳng. Đúng lúc này, Vân Tương đột ngột há miệng cắn vào đầu vai thiếu nữ, tiếng rú gào như loài sói cất lên từ trong lồng ngực.
Cơn đau nơi đầu vai khiến Sở Thanh Hà bất giác rụt cổ lại, máu thấm qua tấm áo trắng tinh của nàng, dần loang ra cả bả vai, đỏ thẫm chói mắt. Sở Thanh Hà có thể dễ dàng hất Vân Tương ra, nhưng nàng không làm vậy, chỉ tập trung hết sức đánh đàn. Tiếng đàn chảy qua kẽ tay như dòng sông hiền hòa yên ả, lại giống như làn gió xuân ấm áp tháng Ba, du dương ngân vang trong gian phòng nhỏ. Nghe tiếng đàn, Vân Tương hơi tỉnh lại, từ từ buông Sở Thanh Hà ra, lăn lộn dưới đất, không ngừng lẩm bẩm gọi như người mộng du: “Á Nam… cứu ta.”
Được vỗ về trong tiếng đàn như mộng ảo, Vân Tương vật vã cả canh giờ rốt cuộc đã chịu yên lặng, nặng nề chìm vào giấc mộng, nhưng dù đang ngủ, tay chân gã vẫn co giật nhẹ. Tiếng đàn nhỏ dần, cuối cùng Sở Thanh Hà ngừng gảy, dò thử hơi thở của Vân Tương rồi lại sờ vào vết thương đã đông máu trên đầu vai, mặt thoáng ửng hồng, ngây người nhìn về phía Vân Tương hồi lâu, không biết đang nghĩ gì.
“Sư tỷ!” Bên ngoài vang lên tiếng gọi khẽ của thiếu nữ canh cửa, Sở Thanh Hà giật mình bừng tỉnh, trấn tĩnh hỏi: “Chuyện gì?”
“Các tỷ muội đi tìm Thư cô nương đã về, thì ra cô nương ấy chính là đệ tử của Tôn sư bá, nghe nói Vân công tử trúng độc Thất Hồn đơn, cô nương ấy đã theo Tôn sư bá đến Thiên Tâm Cư.” Thiếu nữ kia nhỏ giọng bẩm báo.
Khi trước Vân Tương đã từng nhờ Sở Thanh Hà giúp tìm Thư Á Nam, không ngờ lại có tin nhanh đến vậy. Sở Thanh Hà ồ lên ngạc nhiên, vẻ mặt vừa vui mừng lại có phần hụt hẫng, vội mở cửa bước ra: “Mau đưa ta đi gặp vị kỳ nữ tử khiến Vân công tử nhớ mãi không quên ấy đi!”
Trong cơn mê sảng, Vân Tương cảm thấy có người nhẹ nhàng đi về phía mình, cùng với đó là một mùi hương cơ thể quen thuộc. Gã gắng sức mở đôi mắt nặng trĩu ra, thấy khuôn mặt gã ngày nhớ đêm mong dần hiện lên trong tầm mắt, cảm giác mông lung có phần không thực, nhưng đóa thủy tiên nở rộ trên má nàng vẫn kiều diễm như mới.
“Á Nam!” Vân Tương muốn giơ tay lên, song cả người mềm nhũn không còn chút sức lực nào. Chỉ thấy nàng nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay gã đặt lên môi hôn, lệ nóng không kìm nổi tràn ra khóe mắt, giọng nói líu ríu như người mộng du khẽ gọi: “A Tương! Muội xin lỗi!”
“Á Nam!” Muôn nghìn nỗi nhớ kết tụ lại thành tiếng gọi dịu dàng ấy, Vân Tương ngây người rơi nước mắt, đang định thổ lộ niềm nhung nhớ của mình với nàng, chợt thấy như có nghìn vạn con sâu cái kiến đang cắn xé trong xương tủy, vừa ngứa vừa đau khiến gã muốn phát điên phát dại. Vân Tương đau đớn cuộn tròn người lại, bứt tóc gào lên: “Á Nam, ta khó chịu quá, mau giúp ta!”
Gã cảm thấy Á Nam đang nâng khuôn mặt mình lên, nhìn vào mắt gã nói lớn: “A Tương! Huynh đường đường là Thiên Môn công tử Tương, là kỳ nam tử độc nhất vô nhị trên đời! Huynh nhất định phải vượt qua, nhất định không được làm muội thất vọng!”
“Ta không thể!” Vân Tương đau khổ lắc đầu: “Ta thà chết ngay lập tức còn hơn phải chịu nỗi giày vò này.”
“A Tương huynh hãy nhìn muội!” Vân Tương cảm thấy Thư Á Nam đang giữ chặt khuôn mặt mình, khiến gã không thể né tránh, bên tai văng vẳng tiếng gọi xa xăm của nàng: “A Tương huynh nghe đây, huynh không thể bỏ muội đi chết một mình, càng không thể bỏ Tế Sinh Đường. Nếu huynh không thể thoát khỏi Thất Hồn đơn thì sẽ không thể gặp lại Á Nam… và con gái của chúng ta.”
Vân Tương thất thần nhìn nữ tử trước mặt, hồi lâu mới hiểu lời nàng nói. Gã ngờ nghệch hỏi: “Con gái ư?”
“Đúng! Con gái của chúng ta!” Thư Á Nam gật đầu khẳng định, vẻ mặt ửng hồng hạnh phúc khiến đóa thủy tiên trên má lại càng thêm tươi tắn. “Con gái chúng ta tên ở nhà gọi là Hương Hương, đã năm tuổi rồi, huynh là cha mà còn chưa đặt tên cho con kìa!”
Vân Tương mơ màng lẩm bẩm hỏi: “Hương Hương? Con gái ta? Có phải… ta đang nằm mơ không?”
“Dĩ nhiên không phải!” Thư Á Nam thẫn thờ rơi lệ: “Huynh không biết lúc muội sinh con đã nhớ huynh thế nào đâu, vì vậy mới đặt cho con cái tên Hương Hương*, gọi tên của con cũng giống như đang gọi tên huynh vậy!”
Vân Tương lòng thấy đau như cắt, nỗi đau này thậm chí còn vượt xa cảm giác khó chịu Thất Hồn Đơn đem tới. Gã run rẩy lấy tay gạt đi nước mắt trên mặt Thư Á Nam, nhìn vào mắt nàng thì thầm: “Vậy chúng ta hãy đặt tên con là Vân Mộng Hương nhé, vì muội và Hương Hương, ta nhất định sẽ kiên trì, nhất định phải chiến thắng Thất Hồn Đơn!”
“Huynh nhất định làm được! Muội sẽ luôn ở bên cạnh huynh!” Thư Á Nam ôm chặt lấy Vân Tương, chỉ hận rằng không thể gánh bớt đau đớn cho gã.
Trời dần sáng, một đêm khó nhọc cũng đã qua đi. Vân Tương giật mình tỉnh giấc, lắc lắc mái đầu vẫn còn nặng trịch, đảo mắt nhìn quanh, thấy chỉ có mình nằm trên giường, trong phòng không một bóng người. Gã thầm kinh hãi, cố gượng đứng dậy, cất tiếng gọi: “Á Nam, Á Nam…”
Cửa phòng mở ra, một đệ tử Thiên Tâm Cư bưng chậu rửa mặt vào, cười nói với Vân Tương: “Vân công tử đã tỉnh rồi ư? Thấy đỡ hơn không?”
Vân Tương không còn bụng dạ nào để ý lời nói của thiếu nữ, sốt ruột hỏi: “Á Nam đang ở đâu? Mau nói cho ta biết Á Nam đang ở đâu?”
Nữ đệ tử cười tươi nhìn Vân Tương, hỏi lại: “Á Nam là ai? Tối qua công tử luôn miệng gọi cái tên này.”
Vân Tương tóm chặt cánh tay của thiếu nữ, thét lớn: “Nói cho ta biết Á Nam đang ở đâu? Chính là nữ tử tối qua đã ở cùng ta!”
Nữ đệ tử ngỡ ngàng lắc đầu: “Cửa phòng tối qua khóa suốt, ngoài cửa còn có người trông, làm gì có ai vào? Công tử… mau buông tay ra!”
Vân Tương lúc này mới phát hiện mình đang tóm chặt tay thiếu nữ, vội buông ra, lí nhí nói: “Xin… xin lỗi.”
Nữ đệ tử hừ một tiếng, vùng vằng bỏ đi. Vân Tương nhớ lại cảnh tượng tối qua, mơ màng như trong giấc mộng, nhưng giấc mộng này quá chân thực, không xa xăm mờ ảo như những lần gã mơ thấy Á Nam lúc trước, đặc biệt nàng còn nói gã có con gái, gã còn đặt tên Mộng Hương cho con, chuyện này chưa từng xảy ra trong các giấc mơ trước đó!
Thiên tâm! Đây nhất định là thiên tâm! Vân Tương đẩy cửa bước ra, thành kính ngước nhìn bầu trời xanh phía xa, thầm nhủ: “Đây nhất định là ông trời đang dùng sức mạnh thần kỳ của mình truyền đạt nỗi nhớ của Á Nam và Hương Hương đến ta, ta nhất định không để họ phải thất vọng!”
Có niềm tin ấy, Vân Tương cảm thấy tinh thần phấn chấn chưa từng có. Gã đi một mạch đến gặp Sở Thanh Hà, ung dung nói với vị cư chủ mới của Thiên Tâm Cư: “Sở cô nương, xin hãy sai người trói ta lại.”
Sở Thanh Hà thoáng ngạc nhiên: “Tại sao?”
Vân Tương thản nhiên đáp: “Chỉ cần một ngày ta chưa chiến thắng Thất Hồn đơn thì quyết không được thả ta ra.”
Sở Thanh Hà nghĩ ngợi giây lát, sau đó gật đầu tán thưởng, quay sang lệnh cho đệ tử Thiên Tâm Cư phía sau: “Người đâu! Trói Vân công tử lại, đến khi độc tính của Thất Hồn Đơn trong người công tử không còn phát tác nữa mới thôi!”
Hoàng hôn buông xuống, lúc độc tính trong người Vân Tương phát tác, cả Thiên Tâm Cư đều có thể nghe thấy tiếng thét gào mà gã đã cố nén, vì gã đã bị trói bằng xích và khóa sắt trong mật thất ở hậu viện, Sở Thanh Hà cũng không sợ bị gã đả thương. Nàng ở ngoài mật thất gảy lại bài Thanh Tâm Khúc, hy vọng tiếng đàn hàm chứa phạn âm của Phật môn có thể giúp gã chiến thắng tâm ma.
Tiếng thét gào của Vân Tương vượt qua cả tường bao Thiên Tâm Cư, trên con đường núi rời khỏi Thiên Tâm Cư, Thư Á Nam chốc chốc lại lưu luyến quay đầu nhìn, mắt ầng ậng nước. Tôn Diệu Ngọc đi phía trước không thể không dừng bước, quay lại gọi: “Thanh Hồng, lẽ nào con quên lời dạy của sư phụ rồi sao?”
Thư Á Nam rùng mình, ngập ngừng muốn nói lại thôi. Tôn Diệu Ngọc thấy vậy, đau lòng nói: “Thanh Hồng, hãy nhớ con hiện tại là Thư Thanh Hồng, tất cả chuyện quá khứ đều không liên quan gì tới con nữa. Con đã hứa với sư phụ, phải quên tình, quên tính, quên sinh, quên tử, hiến nửa đời còn lại cho sự nghiệp tìm kiếm ý nghĩa chân chính của thiên tâm và phổ độ chúng sinh. Nam nhân đó là ma chướng của con, con đã từng bị tổn thương, đau khổ, thậm chí đã từng chết vì y, lẽ nào con còn muốn trầm luân cả đời trong trời tình biển hận sao?”
“Nhưng sư phụ..” Thư Á Nam định phân bua thì Tôn Diệu Ngọc xua tay ngắt lời, bà thương xót nhìn nữ đệ tử đang bàng hoàng đau đớn của mình, buồn bã than: “Sư phụ thật không nên đồng ý để con gặp y lần cuối. Năm xưa Diệu Tiên sư muội bị gã nam nhân thối tha ấy hủy hoại công phu thanh tu nhiều năm, sư phụ thật không muốn con đi vào vết xe đổ của muội ấy.” Dứt lời, bà sa sầm mặt nói: “Nếu quả thực con không thể quên y, sư phụ sẽ giúp con loại trừ ma chướng này.”
“Sư phụ!” Thư Á Nam kinh sợ, nàng bắt gặp một tia sáng sắc lạnh chưa từng có trong đôi mắt trong trẻo lạnh lùng của sư phụ, ánh mắt ấy khiến nàng bất giác rùng mình. Thư Á Nam vội nói: “Đệ tử biết sai rồi, từ nay về sau, đệ tử sẽ không gặp lại y nữa.”
Tôn Diệu Ngọc thoáng dịu nét mặt, chậm rãi gật đầu: “Thanh Hồng, không phải là sư phụ độc địa, không cho phép lòng con vương chút tạp niệm nào. Quả thực sư phụ phiêu bạt hơn nửa cuộc đời, chỉ thu nhận hai đệ tử là con và Ba Triết. Trong đó chỉ có con có thể kế thừa y bát của sư phụ, vì vậy sư phụ rất muốn giúp con sớm ngày vượt qua ải tình, có được chân truyền của ta.” Nói tới đây, bà thở dài: “Năm xưa sư phụ rời khỏi Thiên Tâm Cư, đã từng thề sẽ tự tạo sư môn riêng vượt qua Thiên Tâm Cư, nhưng phiêu bạt nửa đời chẳng thành việc gì. Năm đó sư phụ ở Thiên Tâm Cư không có chỗ nào thua kém đồng môn sư tỷ muội, nhưng đệ tử của Diệu Tiên hiện giờ đã đứng đầu Thiên Tâm Cư, còn ta vẫn đang phải phiền não vì tục niệm hồng trần của con. Thanh Hồng, con sẽ không khiến sư phụ thất vọng chứ?”
Thấy gương mặt thanh tú thoát tục của Tôn Diệu Ngọc thoáng lộ nét hụt hẫng khó tả, Thư Á Nam lại càng hổ thẹn, vội thưa: “Sư phụ yên tâm, đệ tử tuy ngu dốt, nhưng cũng sẽ dốc hết sức, không để sư phụ thất vọng.”
“Vậy thì tốt!” Tôn Diệu Ngọc thở phào nhẹ nhõm, quay đầu nhìn xuống núi: “Mau đi thôi, chắc Ba Triết và Hương Hương đợi cũng sốt ruột rồi.”
Mỗi ngày cứ đến hoàng hôn, độc tính Thất Hồn đơn trong người Vân Tương sẽ phát tác, khiến gã đau đớn như rơi xuống địa ngục, không một loại thuốc nào giúp giảm nhẹ được, chỉ có thể chống chọi bằng ý chí. Có điều dược tính mỗi ngày một giảm đi, thời gian phát tác càng lúc càng ngắn, sau gần một tháng Vân Tương dùng xích sắt tự trói mình trị độc, độc Thất Hồn đơn cuối cùng đã không còn phát tác nữa. Mãi đến lúc này, gã mới để mọi người thả mình ra.
Tắm rửa gột sạch cáu bẩn tích tụ gần một tháng, cắt hết mớ râu tóc rối bù, Vân Tương thay một bộ y phục mới, tuy một tháng nay gã gầy đi nhiều, y phục mặc lên người cảm giác rộng thùng thình, nhưng gã đã rũ sạch vẻ tàn tạ sau khi trúng độc, lấy lại phong thái ung dung thản nhiên ngày nào.
“Vân công tử, bây giờ huynh cảm thấy thế nào?” Trong điện bên, nơi Thiên Tâm Cư dùng để tiếp khách, Sở Thanh Hà quan tâm hỏi gã. Mấy lần nàng không kìm lòng được toan sờ vào vết sẹo ở đầu vai, nhưng cuối cùng vẫn nén lại. Nàng biết lúc độc tính phát tác Vân Tương vốn không biết mình đã làm gì, càng không nhớ việc gã để lại một vết sẹo trên vai nàng.
“Đa tạ Sở cô nương quan tâm, ta không sao rồi.” Vân Tương ung dung nói: “Lần này may nhờ Thiên Tâm Cư và Sở cô nương, Vân mỗ mới vượt qua được kiếp nạn này. Đại ân không thể đáp tạ bằng lời, sau này Sở cô nương có gì sai bảo, Vân mỗ dù dầu sôi lửa bỏng cũng không từ!”
Không biết tại sao, nghe Vân Tương nói những lời lẽ giang hồ ấy, lòng Sở Thanh Hà lại thấy hụt hẫng, nàng gượng cười nói: “Công tử vì muốn hoàn thành di mệnh của tiên sư nên mới trúng tà độc, Thiên Tâm Cư dĩ nhiên phải dùng hết khả năng giúp công tử trị độc. May mà cuối cùng công tử đã vượt qua kiếp nạn lần này, nếu không Thanh Hà đúng là tội nghiệt trầm trọng.”
Vân Tương vội vàng xua tay: “Ma Môn là kẻ thù chung của thiên hạ, chẳng qua ta cũng chỉ dốc hết sức mình thôi. Hiện giờ tuy nội lực của Khấu Diệm đã mất, nhưng kế hoạch của Ma Môn vẫn đang được thực hiện gắt gao, thời gian cấp bách, ta phải mau chóng đến Hàng Châu báo tin cho Du tướng quân đang phòng thủ ven biển, để y đề phòng Đông Hương Bình Dã Lang quật khởi lần nữa.”
Sở Thanh Hà thoáng hụt hẫng gật đầu, đột nhiên lại nghĩ ra một chuyện bèn nói: “Đúng rồi, chuyện lần trước công tử nhờ ta điều tra đã có kết quả. Đệ tử đi Thanh Hải lúc trước gửi thư về báo, trong thư nói trường khổ sai mà công tử muốn điều tra đã bị triều đình bãi bỏ, hiện giờ đã bị một bang hội thần bí chiếm cứ, không cho người khác đến gần. Đệ tử Thiên Tâm Cư sau khi xâm nhập vào trong đã tìm theo bản đồ công tử vẽ, quả nhiên thấy thi thể của một lão nhân.”
“Thi thể có đặc điểm gì không?” Vân Tương hỏi, giọng hơi căng thẳng. Sở Thanh Hà cau mày nói: “Thi thể đã thối rữa, không nhìn rõ khuôn mặt, chỉ là trên cổ tay phải có một vết sẹo rất rõ.”
Vân Tương thở phào một hơi như trút được gánh nặng, cơ hồ vừa buông được mối tâm sự trong lòng. Gã nhớ vết sẹo đó, chính gã từng thấy ở Lạc Gia Trang.
Sở Thanh Hà tuy không nhìn thấy, nhưng có thể cảm nhận được Vân Tương rất coi trọng việc này. Nàng quan tâm hỏi: “Không biết lão nhân gia được chôn ở nơi hoang vu ấy là ai mà khiến công tử căng thẳng như vậy.”
Vân Tương buồn bã đáp: “Đó là ân sư của ta. Mong Sở cô nương hãy truyền tin cho đệ tử Thiên Tâm Cư, nhờ đưa di cốt ân sư ta tới Giang Nam, ta muốn hậu táng ân sư ở đó.”
“Không vấn đề.” Sở Thanh Hà mau mắn nhận lời, rồi như sực nhớ ra gì đó, bất giác do dự nói: “Đúng rồi, sư muội Liễu Thanh Mai của ta lần trước khi truy kích thiếu chủ Ma Môn Khấu Nguyên Kiệt ở Tung Sơn đã bị lạc các sư tỷ muội khác, từ đó bặt vô âm tín. Công tử giao thiệp rộng trên giang hồ, đệ tử Thiên Môn rải khắp thiên hạ, nếu có tung tích của Liễu sư muội xin hãy mau chóng báo tin cho Thanh Hà.”
Liễu Thanh Mai là cháu gái của thần bổ Liễu Công Quyền, từng cứu Vân Tương thoát khỏi tay ông mình, nghe nói nàng mất tích, Vân Tương đương nhiên nhận lời tìm giúp. Sau đó gã lại hỏi về Viên Thông cũng bị trúng độc Thất Hồn đơn và La Nghị bị Khấu Diệm đả thương. Qua lời Sở Thanh Hà, gã mới biết tuy La Nghị bị thương nặng, nhưng hồi phục rất nhanh, đã thoát khỏi nguy hiểm từ lâu. Nhưng Viên Thông không thể thoát khỏi độc tính của Thất Hồn Đơn, mỗi khi lên cơn lại như phát điên, vì vậy sau khi các trưởng lão Thiếu Lâm bàn bạc đã quyết định miễn chức phương trượng của Viên Thông, vị trí đó tạm thời để trống, sự vụ hằng ngày đều do ba người Viên Thái, Viên An, Viên Tường cùng xử lý. Sau đó Viên Thông không chịu nổi sự giày vò của Thất Hồn Đơn, vào một đêm không trăng gió lạnh đã trốn khỏi Thiếu Lâm, đến nay vẫn bặt vô âm tín.
Vân Tương nghe xong không khỏi thở dài, cuối cùng gã cũng không nhịn được đề cập tới vấn đề gã quan tâm nhất: “Lần trước ta nhờ Sở cô nương tìm kiếm một nữ tử tên Thư Á Nam, không biết… có tin gì không?”
Sở Thanh Hà khựng lại, lập tức nhớ tới lời dặn của Tôn Diệu Ngọc, nàng chần chừ hồi lâu, cuối cùng vẫn làm theo, đáp: “Tôn sư bá hành tung bất định, chúng ta cũng không có tin của bà ấy, xin công tử thứ lỗi.”
Vân Tương thấy vẻ mặt áy náy của Sở Thanh Hà cũng không tiện hỏi thêm. Sau khi hẹn địa chỉ để Sở Thanh Hà đưa di hài của sư phụ tới đó, gã lập tức đứng dậy cáo từ. Lòng gã đã bay tới Hàng Châu, đến tuyến đầu đối kháng với giặc Oa.
Tiêu bá và Trương Bảo vẫn luôn ở một nhà nông cách Thiên Tâm Cư không xa để chờ Vân Tương, thấy gã được Thiên Tâm Cư giúp đỡ, cuối cùng đã giải được độc Thất Hồn đơn, hai người mới yên lòng. Vân Tương không kịp kể rõ quá trình trị độc, lập tức sai Trương Bảo đánh ngựa đến Hàng Châu. Được tin Đông Hương Bình Dã Lang được trưởng lão Ma Môn giúp đỡ lại tiếp tục quấy nhiễu vùng duyên hải, bất luận thế nào gã cũng không thể ngồi nhìn.
Ba ngày sau Vân Tương đã tới Hàng Châu, lập tức đi gặp Du Trọng Sơn ngay trong đêm. Nghe tin Vân Tương cầu kiến, Du Trọng Sơn chẳng kịp mặc áo đã lao ra khỏi nội đường, vừa trông thấy gã đã nắm chặt hai tay, vừa bất ngờ vừa mừng rỡ chửi: “Hay cho đồ không thức thời này! Lần trước sau khi dẹp giặc Oa, ta vốn định tiến cử ngươi với triều đình, ai ngờ ngươi không từ mà biệt, hại vi huynh không biết ăn nói sao. Lần này ngươi đừng mong chạy nữa nhé!”
Vân Tương áy náy nói: “Tiểu đệ không có chí làm quan, đã phụ ý tốt của tướng quân, mong huynh thứ tội.”
“Thứ tội con khỉ!” Du Trọng Sơn mắng: “Ta biết hoài bão của đệ hạng tục nhân như ta không thể so bì, vì vậy chức quan này đệ làm hay không cũng chẳng sao. Chỉ cần hằng ngày đệ cùng ta uống rượu bàn binh, diễn tập binh pháp hoặc giúp ta huấn luyện binh hùng tướng mạnh là ta vui rồi!”
Vân Tương cảm động gật đầu, nghiêm trang nói: “Lần này đệ đến là vì Đông Hương Bình Dã Lang đã trốn về Đông Hải, lại được Ma Môn giúp đỡ, rắp tâm quật khỏi. Đệ muốn muốn mượn sức tướng quân tiêu diệt tên giặc lùn này!”
Du Trọng Sơn mừng rỡ, gật đầu lia lịa: “Đông Hương không chịu từ bỏ dã tâm, vậy thì hai chúng ta sẽ lại liên thủ, tiêu diệt tên thủ lĩnh giặc Oa đã gây hại cho duyên hải ta mấy chục năm nay. Đi! Chúng ta vừa uống vừa bàn!”
Hai người kéo nhau vào phủ, Vân Tương bèn thuật sơ qua kế hoạch Ma Môn trợ giúp Đông Hương đông sơn tái khởi, quấy nhiễu duyên hải và tiếp ứng cho Ma Môn cùng Ngõa Thích, Du Trọng Sơn nghe kể kinh hãi, lẩm bẩm hỏi: “Nói vậy thì, Đông Hương chỉ là một phiến quân để Ma Môn khởi sự?”
Vân Tương gật đầu: “Vì vậy chúng ta không thể tốn quá nhiều thời gian và sức lực với y, buộc phải dùng cách đơn giản nhất và nhanh gọn nhất để giải quyết.”
Du Trọng Sơn vuốt chòm râu ngắn dưới cằm, hồ nghi hỏi: “Chúng ta không biết tung tích và kế hoạch hành động của Đông Hương thì làm sao có thể giải quyết y nhanh gọn được?”
Vân Tương nở nụ cười tự tin, ung dung nói với Du Trọng Sơn: “Xin tướng quân hãy cho đệ mượn Tiễu Oa Doanh mấy hôm.”
Nhìn thấy nụ cười quen thuộc trên mặt Vân Tương, Du Trọng Sơn thở phào nhẹ nhõm, cười khà khà nói: “Không vấn đề! Ngươi muốn mượn bao lâu không thành vấn đề. Từ trong mắt ngươi, ta nhìn thấy ngày chết của Đông Hương Bình Dã Lang không còn xa nữa!”
Hai người nhìn nhau cười, thấy sự tin tưởng và ăn ý ánh lên trong mắt đối phương.
Hoang đảo chìm trong màn đêm chẳng khác con thú dữ thuở hồng hoang đang nằm phục trên mặt biển, trong một vịnh biển hẻo lánh giữa đảo, mười mấy chiến thuyền lặng lẽ cập bến, từng nhóm hán tử áo đen như những hồn ma lướt lên bờ. Đông Hương Bình Dã Lang đi phía trước đang mím chặt miệng, cặp mắt lo lắng chốc chốc lại lóe lên tia sắc lẹm khiến người khác rùng mình. Lưu lạc ở Trung Nguyên nhiều năm khiến vẻ ngoài của y không khác gì người Hán, nếu không phải đang bận áo bào rộng tay lớn thì khó mà nhận ra y là người Đông Doanh.
Hoang đảo này là căn cứ bí mật để Đông Hương bổ sung nước ngọt và gặp các nội gián, cách xa đường bờ biển của Đại Minh. Sau lần bị Tiễu Oa Doanh đánh bại, y lại càng trở nên cẩn thận, dù tới lấy nước và gặp nội gián cũng chỉ chọn buổi đêm.
Tại bãi đá ngầm khuất gió, y đã gặp một tay nội gián đưa tin tới. Đó là một giáo đồ Ma Môn, nhiều lần đưa tin tình báo về việc bố trí phòng vệ và điều động quân đóng duyên hải, khiến y mấy phen thoát khỏi sự bao vây và truy kích của quân Minh.
Sau lần đại bại trước Tiễu Oa Doanh, gần như bị diệt toàn quân, uy danh của y trong tộc tuột dốc trầm trọng, không thể lấy lại khí thế nhất hô bách ứng năm xưa nữa. Đặc biệt là những võ sĩ mới xuất đạo mấy năm gần đây, từ lâu đã xem y như một tiền bối lụ khụ tựa hoa vàng hôm trước, không coi y ra gì. Nhờ Ma Môn giúp sức, sau khi liên tiếp chém chết các võ sĩ dám khinh nhờn uy quyền của mình bằng thủ đoạn sấm sét, y mới miễn cưỡng lập lại được danh tiếng. Hiện giờ y lại chiêu mộ được thêm mấy nghìn võ sĩ, chỉ còn thiếu một trận đại thắng để khẳng định bản thân, nếu không khó có thể lấy lại địa vị bá chủ trong lòng tộc nhân.
“Đông Hương quân, mấy ngày nay Tiễu Oa Doanh có dị động, tình hình khác hẳn ngày thường.” Thám tử Ma Môn bẩm báo: “Họ có thống soái mới, ngay cả Du Trọng Sơn cũng vô cùng kính trọng y.”
“Là ai?” Đông Hương Bình Dã Lang lạnh lùng hỏi.
“Tướng sĩ Tiễu Oa Doanh đều gọi y là Vân công tử, là một thư sinh văn nhược bề ngoài cũng nho nhã.” Thám tử bèn đáp.
Đông Hương Bình Dã Lang nhướng mày, ánh mắt lóe lên tia lạnh lẽo kinh người. Y không thể quên kẻ thù tay nhuốm đẫm máu vô số võ sĩ Đại Hòa, càng không thể quên chính gã đã thiến vô số thủ hạ của mình, khiến y không ngẩng mặt lên được trước tộc nhân. Đông Hương vô thức siết chặt chuôi kiếm.
Trưởng lão Ma Môn Thi Bách Xuyên đứng bên cạnh quan sát, sợ Đông Hương bị cừu hận xông lên choáng váng đầu óc, vội nhắc nhở: “Thực lực hiện giờ của chúng ta vẫn chưa đủ để đối đầu với Tiễu Oa Doanh, nên tạm thời né chúng đi là hơn.”
“Chúng ta phải trốn tránh đến lúc nào nữa?” Đông Hương giận dữ nói: “Hiện giờ tất cả tộc nhân đều đang nhìn vào ta, nếu ta không thể báo thù cho những võ sĩ bị cung hình thì ai còn theo ta nữa?” Đoạn Đông Hương quay sang nhìn tên thám tử bằng cặp mắt sáng rực: “Điều động tất cả tai mắt, giám sát Tiễu Oa Doanh, đặc biệt là nhất cử nhất động của Thiên Môn công tử Tương, phải liên tục báo lại cho ta!”
Thám tử nhận lệnh rời khỏi, Đông Hương tay cầm chuôi kiếm nhìn về phía trời tây, ánh mắt y bùng cháy như ngọn lửa. Võ sĩ Đại Hòa ân oán phân minh, có thù ắt báo, mối hận này chất chứa trong lòng y quá lâu, khiến y không thể nào tiếp tục chờ đợi nữa.
Ba ngày sau, thám tử đem đến tin tình báo mới liên quan đến Tiễu Oa Doanh. Thì ra công tử Tương biết Đông Hương đã về Đông Hải, vì vậy mới đến Hàng Châu gặp Du Trọng Sơn, đồng thời được Du Trọng Sơn ủng hộ nắm lại quyền chỉ huy Tiễu Oa Doanh, mấy ngày nay đang tranh thủ huấn luyện thủy quân, muốn tiêu diệt Đông Hương ở trên biển.
Đông Hương nghe vậy mặt không đổi sắc, hỷ nộ khó lường, trầm ngâm hồi lâu mới lạnh nhạt hỏi: “Công tử Tương giờ đang ở đâu? Bình thường có sở thích hay việc làm gì không?”
Thám tử nghĩ một lát rồi bẩm: “Công tử Tương ngày thường đều ở trong Tiễu Oa Doanh huấn luyện binh sĩ, nhưng cứ ba ngày lại về Hàng Châu gặp Du Trọng Sơn để báo cáo tình hình huấn luyện thủy quân.”
Đông Hương lại truy hỏi: “Mỗi lần y về Hàng Châu mang theo bao nhiêu binh tướng bảo vệ?”
Thám tử trầm ngâm đáp: “Công tử Tương không phải mệnh quan triều đình, không dám phô trương quá, bởi vậy mỗi lần về Hàng Châu chỉ có một xa phu và một lão gia nhân đi cùng.”
Đông Hương vụt sáng mắt lên, vỗ tay quát: “Bản đồ!”
Hai tên giặc Oa lập tức trải một tấm bản đồ ra trước mặt y, hai tên khác lại cầm đèn lồng soi sáng. Dưới ánh sáng lập lòe của ngọn đèn lồng, Đông Hương nhanh chóng tìm ra căn cứ địa của Tiễu Oa Doanh nằm ở ngoại ô cách thành Hàng Châu ngoài trăm dặm, từ đó đến Hàng Châu phải đi qua một bãi biển rộng mênh mông vắng người.
Thi Bách Xuyên thấy ánh mắt hau háu của Đông Hương khi nhìn bản đồ, ngón tay chậm rãi lướt trên tuyến đường, cuối cùng dừng ở một điểm. Y bất giác lo lắng hỏi: “Lẽ nào Đông Hương quân muốn phục kích công tử Tương giữa đường?”
Đông Hương cười lạnh nói: “Thực lực hiện giờ của chúng ta không thể đối đầu trực diện với Tiễu Oa Doanh, nhưng cứ né tránh công tử Tương như vậy ta không cam lòng, nếu không báo mối thù xưa, tộc nhân sẽ nói Đông Hương ta sợ công tử Tương mất mật, vừa nghe y tới Hàng Châu đã trốn tít ra biển.” Nói tới đây, y chỉ thẳng vào bản đồ: “Chỗ này rất gần biển, là con đường bắt buộc phải đi để tới Hàng Châu. Ta sẽ đưa người nhân lúc đêm khuya lẻn lên bờ, thích sát công tử Tương tại đây!”
Thi Bách Xuyên lo lắng nhìn bản đồ, chần chừ nói: “Chuyện này… có phần quá mạo hiểm thì phải?”
Đông Hương cười khà khà nói: “Người Đại Minh có một câu nói, không vào hang cọp sao bắt được cọp con? Đây là cái giá rẻ nhất để xây dựng lại thanh thế của ta. Chỉ cần công tử Tương chết trong tay ta, vậy còn ai dám không phục Đông Hương ta nữa?”
Thi Bách Xuyên vẫn còn lo sợ “Nhưng lỡ như thất thủ…”
Đông Hương xua tay ngắt lời Thi Bách Xuyên, tự tin nói: “Dù thất thủ, ta cũng có thể trốn vào rừng cây gần đó, trông bộ dạng ta lúc này, còn ai nhận ra ta là người Đông Doanh chứ?”
Trải qua mấy năm lưu lạc ở Trung Nguyên, Đông Hương không chỉ luyện nói tiếng Hán thành thạo, mà còn học các lễ nghi và tập quán, nhìn bề ngoài không khác gì người Hán. Thấy Thi Bách Xuyên vẫn băn khoăn, y cười nói: “Thi trưởng lão yên tâm, nếu không nắm chắc tuyệt đối ta sẽ không ra tay, bất luận đắc thủ hay không ta cũng cao chạy xa bay, quyết không ham chiến.”
Thi Bách Xuyên biết rõ Đông Hương dù thế nào cũng không cam tâm né tránh công tử Tương mãi như vậy, mà so ra thì hành thích cũng có phần chắc chắn hơn đối đầu trực diện với Tiễu Oa Doanh. Y đành quay sang dặn thám tử: “Giám sát công tử Tương chặt chẽ, một khi phát hiện y rời khỏi Tiễu Oa Doanh đi Hàng Châu thì lập tức dùng phi cáp truyền thư cho ta!”
Thám tử nhận lệnh rời đi, Thi Bách Xuyên lúc này mới chắp tay nói với Đông Hương Bình Dã Lang: “Tại hạ chúc Đông Hương quân mã đáo thành công!”
Đông Hương gật đầu ngạo nghễ, thấy thuộc hạ đã lấy đủ nước, bèn hùng hổ bước lên chiến thuyền, chỉ về biển lớn tối đen: “Xuất phát!” Mười mấy chiến thuyền lặng lẽ khởi hành như những con quái thú nhằm thẳng hướng Tây…
Sóng biển cuộn trào liên miên bất tận vỗ vào bãi đá ngầm dựng đứng bên bờ thành tiếng rền vang như sấm, khiến người khác kinh hãi. Đông Hương Bình Dã Lang như con sói nằm phục trong bãi đá, chăm chú nhìn về phía đường quan đạo cách biển không xa. Y đã nhận được thư của thám tử, công tử Tương đã rời khỏi Tiễu Oa Doanh đi Hàng Châu từ sớm, và đây là con đường gã bắt buộc phải đi qua, vừa có thể tấn công, lại vẫn có thể phòng thủ, lỡ như gặp nguy hiểm thì lui được ngay xuống biển, cách bờ không xa còn có mấy chiếc thuyền nhẹ ngụy trang thành thuyền cá phụ trách tiếp ứng. Đông Hương tin rằng kế hoạch của mình có thể xem như không một kẽ hở.
Chiếc xe ngựa cuối cùng đã xuất hiện trên đường quan đạo, chậm rãi đến gần nơi Đông Hương mai phục.
Hai bên càng xe là một xa phu vẻ mặt thuần hậu và một lão già trạc sáu mươi, hai người vừa đánh xe vừa rì rầm trò chuyện, dáng vẻ vô cùng thoải mái. Lão già bận trang phục gia nhân áo xanh, tất trắng, Đông Hương nhận ra đó là lão nô hầu hạ bên cạnh công tử Tương.
Đông Hương quan sát hai đầu con đường, vì nơi này địa thế hẻo lánh, hai đầu đường không một bóng người, bốn bề hoang vu. Đông Hương lập tức vung tay ra hiệu cho thủ hạ mai phục trong bãi đá - Động thủ!
Mấy tên giặc Oa mặc trang phục dạ hành bó sát bổ tới xe ngựa như những bóng ma, bao vây tấn công từ nhiều phía. Hán tử đánh xe lập tức vung roi ngựa phản kích, lão già trên càng xe cũng nhảy xuống lớn tiếng chửi mắng ngăn chặn. Tuy võ công hai người không kém, nhưng bị mấy tên giặc Oa tấn công cũng không thoát thân nổi. Chỉ nghe lão già hét lớn với xa phu: “Trương Bảo, ngươi mau hộ tống công tử rời khỏi đây, lão phu chặn hậu cho ngươi!”
“Vậy lão phải làm sao?” Xa phu hỏi lại. Lại nghe lão già quát: “Chỉ cần công tử bình an vô sự, mạng hèn của lão phu có gì đáng kể, tốt xấu gì lão cũng phải kéo theo vài tên chết cùng!”
Xa phu nghe vậy không do dự nữa, lập tức đánh xe chạy trốn, còn lão già ra sức ngăn cản sự tấn công của giặc Oa. Đông Hương thấy võ công lão già cao cường, rất khó giải quyết, trong khi xa phu lại không đáng lo. Y bèn huýt sáo ra hiệu cho thủ hạ, giặc Oa bèn thả xe ngựa đi, quay sang vây chặt lão già khiến lão không thể thoát thân.
Xe ngựa phi nước đại phóng tới, từ từ chạy đến nơi Đông Hương ẩn nấp, y đột nhiên tung người nhảy tới, cầm kiếm chặn giữa quan đạo. Tuấn mã kéo xe không kịp thu vó, xông thẳng đến Đông Hương, y liền tung mình nhảy lên cao, trường kiếm rút khỏi vỏ, một kiếm chém đứt cổ ngựa, cơ hồ cùng lúc, mũi chân y đạp vào đầu con ngựa, thân hình bốc lên cách mặt đất chừng bảy thước, đâm thẳng kiếm về phía xa phu.
Đường kiếm uy mãnh từ trên không chém xuống, khí thế kinh người. Xa phu sợ đến xám ngoét mặt, lăn người khỏi càng xe, cuống quýt né tránh. Đông Hương không thu kiếm mà đâm thẳng vào trong xe ngựa đang phủ kín rèm, cười gằn nói: “Công tử Tương! Ngươi chết chắc rồi!”
Trường kiếm của Đông Hương cắm vào khoang xe, không hề chịu lực, hiển nhiên đã đâm vào không khí. Cơ hồ cùng lúc, một đạo hàn quang từ trong khoang xe lóe lên, tốc độ nhanh vô cùng, góc độ chuẩn xác không sai một li. Đông Hương kinh hãi tái mặt, chỉ kịp né tránh chỗ yếu hại ở tim, đã thấy đạo hàn quang ấy mang theo sát khí đáng sợ cắm thẳng vào ngực mình.
Đông Hương ôm ngực ngã vật xuống đất, sợ hãi trừng mắt nhìn rèm cửa đang buông kín, đường kiếm vừa rồi bất luận là tốc độ, lực đạo hay góc độ đều rất hiếm gặp, dù chính diện đối địch, Đông Hương tự thấy cũng khó mà ứng phó, y không thể nghĩ ra sao dưới tay công tử Tương lại có cao thủ như vậy?
Rèm xe dần vén lên, chỉ thấy một nam tử xõa tóc sắc mặt lạnh lùng, y phục không vướng chút bụi trần đang ngồi ngay ngắn trong xe, y dùng kiếm vén rèm xe, nhìn Đông Hương lạnh lùng nói: “Nam Cung Giác ta vốn không thích dùng ám kiếm giết người, nhưng ngươi gây họa cho duyên hải ta nhiều năm, thủ đoạn tàn nhẫn, hành sự khoa trương, bất luận người già, phụ nữ trẻ nhỏ đều không tha, vì vậy ta từ lâu đã không xem ngươi là con người nữa.”
Lời nói vừa dứt, Đông Hương chợt cảm thấy kình lực của đường kiếm vừa rồi bộc phát bên trong cơ thể mình, giống như trăm nghìn mũi dao từ trong cơ thể đâm ra, khiến người y bị đâm thủng hàng trăm lỗ, máu tươi phun ra qua vô số lỗ thủng. Đông Hương kinh hoàng hét lớn một tiếng, gục đầu chết ngay tại chỗ.
Đông Hương vừa chết, mấy tên giặc Oa đang bao vây tấn công Tiêu bá lập tức sợ vãi mật, tranh nhau tìm đường chạy trốn, chỉ thấy Nam Cung Giác một người một kiếm bay đến, chặn đứng đường trốn của chúng, rồi không đợi chúng kịp trở tay, trường kiếm của y đã phát ra tiếng rít tử thần, tiếp đó trở ngay vào vỏ. Mấy tên giặc Oa còn đương lảo đảo chưa kịp ngã xuống, y đã chắp tay sau lưng rời khỏi chiến trường.
Trương Bảo và Tiêu bá há mồm trợn mắt nhìn, thấy mấy tên giặc Oa lũ lượt ngã xuống, Trương Bảo kinh sợ lẩm bẩm: “Kiếm của nhị công tử… kiếm của nhị công tử… mới đúng là kiếm pháp giết người!”
Nam Cung Giác cười xòa: “Mấy ngày nay cứ phải trốn trong chỗ tối thay tên họ Vân ngồi xe, ngột ngạt chết đi được, nếu Đông Hương không mắc bẫy, ta phải tìm y tính sổ.”
Tiêu bá vội cười trừ nói: “Công tử nhà ta tính toán không bao giờ sơ sót, biết kẻ Đông Hương muốn giết nhất chính là công tử, vì vậy mới nhờ Nam Cung công tử ra mặt. Nam Cung công tử quả nhiên không hổ là Giang Nam Đệ Nhất Khoái Kiếm, công tử nhà ta không nhìn lầm người.”
“Đệ nhất khoái kiếm quái gì!” Nam Cung Giác cười chửi: “Đệ nhất khoái kiếm ta chẳng phải đã bại trong tay Lục Mạch Thần Kiếm của công tử Tương sao? Đại công rạng danh trong thiên hạ như giết Đông Hương đúng là nên để lại cho Lục Mạch Thần Kiếm của y.” Dứt lời, Nam Cung Giác không nhịn nổi lại phá lên cười sảng khoái.
Tiêu bá biết chuyện Vân Tương dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh bại Nam Cung Giác, nghe vậy cũng bật cười, chỉ có Trương Bảo không biết nên ngờ nghệch hỏi: “Công tử biết võ công sao? Sao ta chưa từng nghe nói thế?”
Tiêu bá xua tay cười, vái Nam Cung Giác: “Công tử nhà ta đã bày sẵn yến tiệc ở Thịnh Vân Lâu tại Hàng Châu để mừng công cho nhị công tử!”
“Được! Chúng ta đi! Tuy ta chưa từng uống rượu, nhưng với công tử Tương thì là ngoại lệ.” Dứt lời, Nam Cung Giác đi trước. Tiêu bá và Trương Bảo khiêng thi thể của Đông Hương lên xe, rồi để Trương Bảo đánh xe đi. Đông Hương Bình Dã Lang là thủ lĩnh phỉ đồ gây hại duyên hải nhiều năm, treo thi thể của y thị chúng, không chỉ giải được mối hận trong lòng dân chúng, còn là một đòn đả kích không nhỏ với giặc Oa.
Khi ba người đưa thi thể của Đông Hương đến Thịnh Vân Lâu, thấy Du Trọng Sơn dẫn theo tướng lĩnh Tiễu Oa Doanh ra nghênh đón. Nam Cung Giác chào hỏi vị danh tướng uy chấn vùng duyên hải này xong, thấy Vân Tương không ở trên lầu bèn hỏi: “Gã họ Vân đâu? Y mà không có ở đây thì dẹp tiệc rượu này đi.”
Du Trọng Sơn biết Nam Cung Giác si mê luyện kiếm, không hiểu nhân tình thế thái, cũng là một kẻ cậy tài kiêu ngạo, bèn nói: “Vân công tử vốn đang chờ Nam Cung công tử khải hoàn, nhưng vừa rồi nhận được một lá thư liền vội vàng cáo từ bỏ đi. Y nhờ Du mỗ thay y bồi tội với công tử, hẹn ngày sau sẽ đích thân đến phủ thỉnh tội.”
Nam Cung Giác tò mò hỏi: “Chuyện gì quan trọng đến nỗi y không nể mặt cả ta và Du tướng quân?”
Du Trọng Sơn lắc đầu: “Ta cũng không biết, nhưng ta chưa từng thấy bộ dạng Vân công tử căng thẳng như vậy.”
Tiêu bá và Trương Bảo đứng sau Nam Cung Giác nghe vậy cũng cảm thấy khó hiểu, hai người vội vàng cáo từ. Du Trọng Sơn và Nam Cung Giác biết họ lo lắng cho Vân Tương nên không tiện giữ. Buổi tiệc mừng công vì sự vắng mặt bất ngờ của Vân Tương cuối cùng khép lại trong buồn bã.