Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 60
4
Chuẩn
bị
Tiêu bá và Trương Bảo vội vã trở về biệt viện trong thành Hàng Châu của Vân Tương, vừa bước vào cửa đã thấy một cỗ quan tài đặt trong sảnh, giữa ban ngày vẫn toát lên vẻ âm u khiến người khác không rét mà run. Vân Tương một mình quỳ trước quan tài, ánh mắt đờ đẫn, thẫn thờ như gỗ.
Hai người kinh hãi, Tiêu bá ngạc nhiên hỏi: “Công tử, đây là…”
Vân Tương giật mình tỉnh lại, quay đầu ủ dột nói: “Mọi người không cần hốt hoảng, đây là sư phụ đã tạ thế nhiều năm của ta.”
Tiêu bá và Trương Bảo vội đỡ Vân Tương đứng dậy, Trương Bảo sợ sệt nhìn cỗ quan tài hỏi: “Sư phụ của công tử? Lúc trước sao chưa từng nghe công tử nhắc tới?”
Vân Tương nhìn cỗ quan tài, vẻ mặt phức tạp, chạm tay vào nắp quan buồn bã nói: “Năm xưa ta chịu hàm oan phải đi tù ở Dương Châu, sau đó bị đày đi biên thùy làm khổ sai, trong trường khổ sai ta đã gặp Vân gia, ân sư giúp ta thoát thai hoán cốt, truyền thụ đạo thiên môn cho ta, dạy ta đạo lý lấy trí thắng lực. Đáng tiếc sau đó ông ấy chết dưới tay của kẻ thù, lúc đó ta vẫn còn là một phạm nhân khổ sai, không có khả năng hậu táng cho sư phụ, đành phải chôn ông ấy qua loa ở một giếng quặng bỏ hoang. Cách đây không lâu ta đã nhờ Thiên Tâm Cư giúp ta tìm di hài của sư phụ, không ngờ chỉ hơn một tháng họ đã đưa di hài của ân sư ta từ Thanh Hải về đây.”
Tiêu bá chần chừ nói: “Đây… thật sự là di hài của ân sư công tử?”
Vân Tương gật đầu nói: “Lúc ta chôn cất đã từng để lại ký hiệu, đệ tử Thiên Tâm Cư đã theo bản đồ và ký hiệu do ta vẽ tìm được di hài. Di hài của ân sư đã thối rữa, nhưng vết sẹo trên cánh tay của ông ấy ta vẫn có thể nhận ra.”
Tiêu bá thở phào, bèn nói: “Nếu vậy ta sẽ đi mời hòa thượng, đạo sĩ làm pháp sự và đạo tràng siêu độ vong linh, để lão nhân gia sớm ngày được an nghỉ.”
Vân Tương xua tay: “Không cần đâu. Kẻ thù của ân sư còn tiêu dao tại thế, tai mắt thông thiên, ta không muốn họ biết tin ân sư ta đã chết. Hơn nữa hiện giờ Ma Môn đang rục rịch hành động, Ngõa Thích lăm le biên thùy, ta không có thời gian làm pháp sự cho sư phụ. Lão hãy nhanh chóng tìm một mảnh đất phong thủy tốt ở gần đây, giúp ta bí mật hậu táng di hài. Đợi sau khi ta trả xong thù cho sư phụ sẽ đến mộ báo tin vui với vong linh lão nhân gia trên trời.”
Tiêu bá lập tức nhận lời, nhanh chóng đi ra thực hiện. Trương Bảo thấy vẻ mặt Vân Tương buồn bã, bèn khuyên: “Đợi chuyện qua rồi, công tử đi thăm Giai Giai đi, chúng ta lâu rồi không đi thăm nó.”
Nghe Trương Bảo nhắc đến Giai Giai, Vân Tương bất giác mỉm cười ấm áp, Triệu Giai đã đến tuổi đọc sách, vì vậy Vân Tương gửi gắm cậu cho một hộ dân thật thà chất phác ở Kim Lăng, để họ đưa cậu đến lớp, đồng thời hằng tháng đều gửi tiền nuôi dưỡng cho họ. Dần dà, thời gian gặp mặt Triệu Giai cũng ít dần. Lần này để đối phó Ma Môn, gã đã mấy tháng không đi thăm cậu.
“Được!” Vân Tương nhìn về phía cỗ quan tài, gật đầu nói: “Đợi chúng ta an táng xong cho ân sư ta sẽ đi thăm Giai Giai.”
Tiêu bá làm việc nhanh nhẹn, hôm sau đã tìm ra một mảnh đất phong thủy tốt ở ngoại ô, Vân Tương đưa di hài của ân sư đến an táng ngay trong ngày. Sau khi rơi nước mắt từ biệt ân sư, gã lập tức đến phủ tổng binh cáo biệt Du Trọng Sơn. Du Trọng Sơn sớm đã nắm được kế hoạch của Ma Môn qua lời kể của gã, biết Vân Tương phải đi tới biên quan để trợ giúp quân Trấn Tây ngăn chặn Ngõa Thích xâm lược, Du Trọng Sơn bất giác kéo tay gã nói: “Vân huynh đệ, thống soái quân Trấn Tây Võ Diên Bưu là danh tướng trấn thủ biên ải nhiều năm, chiến công hiển hách, ngu huynh cũng rất khâm phục y. Nhưng xưa nay y vẫn mắt cao hơn đầu, đặc biệt rất khinh thường thư sinh hủ nho, lần này đệ đi nói không chừng không gặp được y đâu. May mà ngu huynh năm xưa từng là cộng sự với y, cũng xem như có mấy phần giao tình. Đợi ta viết một lá thư tiến cử đệ với y, y tự khắc phải nhìn nhận khác về đệ.”
Vân Tương chắp tay nói: “Đa tạ Du huynh, nhưng lần này đệ tới không chỉ xin một lá thư tiến cử.”
Du Trọng Sơn ngạc nhiên hỏi: “Vậy đệ còn muốn gì?”
Vân Tương nở nụ cười xấu xa: “Đệ muốn mượn huynh trưởng hai người.”
Du Trọng Sơn nhạy bén hiểu ngay ý của Vân Tương, vội lắc đầu: “Chuyện này không được, binh tướng triều đình sao có thể tự ý cho mượn, hơn nữa bản thân họ cũng chưa chắc đồng ý.” Thấy Vân Tương nửa cười nửa không nhìn mình, y biết rằng những lời này không thể gạt gã, bất đắc dĩ nói: “Ta biết người đệ muốn mượn một là Triệu Văn Hổ, người còn lại là ai?”
Vân Tương cười đáp: “Lý Hàn Quang.”
Triệu Văn Hổ và Lý Hàn Quang năm xưa đã giúp Vân Tương phá giặc Oa ở Tiễu Oa Doanh, gã có ấn tượng sâu sắc với hai người này. Một người là tướng tài hiếm gặp, một kẻ là tổng quản trung quân lão luyện, có thể xử lý sự vụ phức tạp trong quân đâu vào đó. Du Trọng Sơn nghe vậy thở dài: “Đệ tinh mắt lắm, toàn ngắm trúng bảo bối tâm can của ta.”
Vân Tương chắp tay nói: “Đệ biết huynh trưởng không nỡ bỏ nhân tài đã bồi dưỡng nhiều năm, nhưng hiện giờ Đông Hương đã bị tiêu diệt, mối lo trên biển tạm lắng xuống, những nhân tài này như thanh kiếm giết địch, nên đưa họ ra tiền tuyến lập công chứ đừng đem bỏ xó. Mong huynh trưởng lấy thiên hạ làm trọng, để nhân tài được dùng vào những nơi cần họ nhất.”
Du Trọng Sơn đấm vào người Vân Tương, cười mắng: “Tiểu tử ngươi, nếu ta không đồng ý lại thành ra tiểu nhân ích kỷ. Thôi thôi thôi, để ta gọi họ đến hỏi thử. Nếu họ bằng lòng đi theo ngươi, vi huynh cũng không can ngăn làm gì.” Đoạn y vỗ tay gọi tùy tùng, phái người lập tức đi truyền Triệu Văn Hổ và Lý Hàn Quang.
Chẳng bao lâu sau, hai viên tướng trẻ giáp trụ chỉnh tề vội vã đi tới, một người nhanh nhẹn tinh anh, một kẻ trầm ổn kiên định, giơ tay nhấc chân cũng toát ra uy thế bừng bừng. Vân Tương thấy Triệu Văn Hổ đã được thăng làm thiên hộ, còn Lý Hàn Quang cũng được làm tướng quân du kích, bất giác chắp tay cười nói: “Mấy năm không gặp, hai vị tướng quân đã được thăng chức cao, đúng là đáng vui đáng mừng.”
Triệu Văn Hổ và Lý Hàn Quang vừa nhìn thấy Vân Tương liền vui cười hớn hở ra mặt. Hai người vội vái chào, đáp: “Cũng nhờ chút công lao năm xưa chúng ta theo công tử diệt giặc Oa, lại được công tử tiến cử cùng Du tướng quân bồi dưỡng mới có ngày hôm nay.”
Vân Tương đỡ hai người lên nói: “Hiện giờ lại có một cơ hội giết địch lập công, không biết hai vị có bằng lòng đi theo tại hạ nữa không?”
Cặp mắt hai người ánh lên vẻ kinh ngạc hồ nghi pha lẫn ngỡ ngàng. Triệu Văn Hổ thoáng trầm ngâm, chần chừ hỏi: “Công tử đang nói tới phía Bắc?” Vân Tương cười gật đầu, y lập tức chắp tay đáp: “Tại hạ nguyện đi theo công tử, giết địch lập công!”
Qua lời đối đáp của hai người, Lý Hàn Quang ít nhiều cũng đoán được đôi chút sự tình, nhưng y không đồng ý ngay mà quay sang nhìn Du Trọng Sơn, chắp tay vái hỏi: “Thuộc hạ là tướng lĩnh thuộc cấp Du tướng quân, xin nghe theo lời của tướng quân!”
Du Trọng Sơn than thở: “Được rồi! Ngươi đừng giả bộ nữa, là quân nhân ai mà không muốn ra chiến trường chứng tỏ giá trị của mình chứ? Tuy các ngươi là người của Du gia quân, nhưng cũng là tướng lĩnh của triều đình, nên nghĩ tới thiên hạ, xem sự bình yên của thiên hạ là trách nhiệm của mình. Tuy ta không nỡ để các ngươi đi, nhưng nếu các ngươi có thể giết địch lập công, giữ yên bờ cõi thì cũng không phụ sự bồi dưỡng và cất nhắc của ta trước giờ. Các ngươi theo Vân huynh đệ đi đi, tất cả thủ tục ta sẽ lo liệu ổn thỏa sau.”
Hai người thoáng ngậm ngùi, nhưng vẫn nói lời cáo biệt. Du Trọng Sơn viết một lá thư tiến cử giao cho Vân Tương, cầm tay gã nói: “Mong huynh đệ trợ giúp quân Trấn Tây đại phá Ngõa Thích, sớm ngày khải hoàn!”
Vân Tương cất kỹ lá thư rồi cùng Triệu Văn Hổ, Lý Hàn Quang cáo từ. Sau đó gã cũng tạm chia tay hai người ở ngoài phủ để họ về chuẩn bị, ngày kia sẽ đến hội hợp với gã ở Kim Lăng rồi khỏi hành tới Đại Đồng.
Bàn giao ổn thỏa mọi việc, Vân Tương bèn cùng Tiêu bá, Trương Bảo tức tốc đi Kim Lăng trong đêm, một là để thăm Giai Giai, hai là để tính toán sổ sách, đồng thời rút một khoản lớn từ lợi nhuận kinh doanh mấy năm gần đây làm tiền hỗ trợ quân đội.
Trưa ngày hôm sau, xe ngựa của Vân Tương đã dừng trước cổng chính Hối Thông Tiền Trang ở Kim Lăng. Nơi đây chính là sản nghiệp của gã, cũng là nơi gã gặp gỡ thuộc hạ, tính toán sổ sách, vạch định kế hoạch ở Kim Lăng. Tuy sản nghiệp bí mật của gã đã lớn mạnh như một vương quốc riêng, nhưng gã chưa từng coi mình là đế vương, nếu có thể, gã thà sống ở một căn nhà trúc ngoại ô thành Dương Châu để tận hưởng sự an nhàn và cô độc cách biệt với thế giới bên ngoài.
Chưởng quầy Tiền Trung của Hối Thông Tiền Trang dẫn Vân Tương đến một gian nhã thất gã chuyên dùng ở tầng hai. Gã vừa ngồi xuống, Tiền chưởng quầy bèn bẩm báo: “Nghe nói công tử về, mấy chưởng quầy khác đã chờ ở đây từ lâu, đợi công tử triệu kiến.”
Vân Tương gật đầu: “Để họ vào đây đi.”
Tiền Trung vỗ tay, mấy thương gia đầy vẻ ngoài tinh minh nối nhau bước vào, họ là những thương gia ưu tú mới nổi trong thương giới Kim Lăng, có địa vị rất quan trọng ở Kim Lăng lẫn cả Giang Nam, thậm chí còn có kẻ thao túng các ngành như nhà đất, tiền trang, lúa gạo, tơ lụa, khách điếm, mậu dịch… trong thành, là cự phú đứng đầu Kim Lăng, thế nhưng khi thấy Vân Tương, gương mặt họ đều ánh lên vẻ cung kính như thần tử gặp đế vương, bởi tất cả những thứ họ có được ngày hôm nay đều do sự bồi dưỡng và đề bạt của Vân Tương cả. Mấy năm trước họ còn là những kẻ thất bại trên thương trường, hoặc thư sinh nghèo tuyệt đường khoa cử, thậm chí là kẻ nghèo kiết xác không một xu dính túi, nhờ có Vân Tương tinh mắt nhìn người, giúp tài năng của họ tìm được chốn để phát huy. Song song với việc thể hiện giá trị của bản thân, họ cũng tạo ra của cải kinh người cho chủ nhân của mình.
Vân Tương chờ mọi người chào hỏi xong, bèn quay sang Tiền Trung hỏi: “Mọi người đến đủ hết chưa?”
Tiền Trung bèn đáp: “Ngoài Điền chưởng quầy và Mục chưởng quầy đi xa chưa về, còn lại đều đã đủ.”
Vân Tương gật đầu, ôn tồn nói: “Mọi người báo qua sổ sách năm nay đi.”
Mấy chưởng quầy lập tức lấy sổ ra, lần lượt báo cáo với Vân Tương các hạng mục kinh doanh của mình. Nghe họ báo xong, Vân Tương gật đầu hài lòng, đưa mắt nhìn lướt qua từng người, vui vẻ nói: “Lần này ta đột ngột triệu tập mọi người là có quyết định quan trọng cần tuyên bố. Gần đây Ngõa Thích đang dòm ngó biên thùy, sắp xâm lược Trung Nguyên, quân Trấn Tây tuy anh dũng nhưng lại thiếu trang bị tốt và quân lương, e rằng khó mà ngăn chặn được thiết kỵ của Ngõa Thích. Ta muốn trích một phần ngân lượng trong lợi nhuận năm nay làm quân lương chi viện cho biên cảnh, chư vị tính xem mỗi người có thể bỏ ra bao nhiêu.”
Vân Tương vừa dứt lời, mấy chưởng quầy vô cùng bất ngờ, đưa mắt nhìn nhau. Tuy Vân Tương là chủ, họ chẳng qua chỉ là chưởng quầy quản lý sản nghiệp của Vân Tương, nhưng tặng không ngân lượng cho người như vậy, họ cũng cảm thấy xót thay cho gã. Một chưởng quầy trẻ, tuổi chỉ trạc tam tuần bước lên, vái Vân Tương nói: “Công tử, tiền của công tử tiêu thế nào vốn dĩ tiểu nhân không nên hỏi nhiều, nhưng Tưởng Văn Hoán tôi không chỉ xem công tử là chủ, mà còn xem công tử là bằng hữu, là bằng hữu tôi nghĩ nên nhắc công tử, ngân lượng này chúng ta không dễ gì kiếm được, nếu chỉ bỏ ra mà không thu lại như vậy, quả thực không đáng.”
Vân Tương quay sang nhìn chưởng quầy trẻ tuổi vừa lên tiếng, bất giác nhớ lại tình cảnh lần đầu gặp y ở đầu phố mấy năm trước. Lúc đó Vân Tương mới bắt đầu đặt chân vào thương giới chưa lâu, phạm vi kinh doanh không ngừng mở rộng, chỉ dựa vào một mình gã không thể nào lo liệu xuể, nên bắt đầu đau đầu tìm kiếm nhân tài. Bấy giờ Tưởng Văn Hoán trước mặt vẫn chỉ là một tên ăn mày, nhưng là một tên ăn mày vô cùng thành công.
“Công tử thương tình bố thí một chút đi!” Mấy năm trước, khi Vân Tương lần đầu tiên gặp Tưởng Văn Hoán, y đã xuất hiện trước mặt Vân Tương như vậy. Vốn dĩ gã rất phản cảm với những kẻ ăn mày còn trẻ khỏe mà không chịu lao động kiếm tiền, nhưng không biết vì sao, trong ánh mắt tên ăn mày trẻ tuổi trước mặt này lại ẩn chứa vẻ gì đó đặc biệt, khiến gã không thể từ chối, trái lại còn khảng khái thưởng cho y một miếng bạc vụn, đồng thời trò chuyện với y.
Tên ăn mày rất ung dung trước mặt Vân Tương, không hề cảm thấy xấu hổ hay hèn mọn, trái lại còn rôm rả tiếp chuyện như gặp bạn cũ: “Ta vừa nhìn thấy công tử đã biết công tử là người chịu chi, dù công tử ăn mặc rất giản dị, bên cạnh không có người hầu hạ.”
“Sao lại nói vậy?” Vân Tương cười hỏi. Lúc đó Tiêu bá đi xử lý công việc, chỉ có một mình gã thong thả đi dạo trên con phố phồn hoa.
“Làm ăn mày, nếu mắt không tinh thì sớm muộn gì cũng chết đói.” Tên ăn mày giảo hoạt cười: “Đừng nghĩ rằng ăn mày đều sống bằng may mắn và lòng thương hại của người khác, thật ra bên trong có rất nhiều mẹo mực, muốn xin ăn cũng phải có cách đấy.”
“Cách gì?” Vân Tương hứng chí hỏi. Tên ăn mày cười nói: “Nếu người trong nghề hỏi ta như vậy, ta sẽ kiên quyết không nói, nhưng hiếm khi được công tử thưởng ta nhiều bạc như vậy, ta có thể tiết lộ cho công tử biết.” Dứt lời, y chỉ vào cả người mình: “Công tử xem ta có gì khác với những kẻ ăn mày khác?”
Vân Tương lần đầu tiên nhìn kỹ tên ăn mày, thấy đầu tóc y rối bời, y phục rách rưới, mặt gầy gò nhưng trên dưới khắp người vô cùng sạch sẽ, ánh mắt tràn ngập vẻ lạc quan và tự tin mà những kẻ ăn mày khác không có. Không đợi Vân Tương đáp lời, y cười nói: “Mọi người đều rất phản cảm với ăn mày, nhưng công tử lại không phản cảm với ta, điều này ngoài lý do công tử lòng dạ lương thiện thì đúng hơn là vì vẻ ngoài của ta không khiến người khác có ấn tượng bẩn thỉu, nhếch nhác và nguy hiểm, đây chính là ưu thế lớn nhất của ta.”
Vân Tương gật đầu hết sức tán đồng, quả thực gã không cảm thấy ghét bỏ hay sợ hãi tên ăn mày này như những kẻ khác.
“Làm ăn mày cũng phải chú ý đến hình tượng của mình, đáng tiếc rất nhiều kẻ cùng nghề với ta không hiểu điểm này.” Tên ăn mày nhún vai ngậm ngùi nói: “Ngoài ra, còn phải biết phân tích và hiểu cách làm. Phải so sánh các nhân tố như là ưu thế, nhược điểm, cơ hội, sự đe dọa…”
Vân Tương há hốc mồm kinh ngạc, lần đầu tiên gã nghe nói xin ăn cũng là môn học cao thâm như vậy. Tên ăn mày không để tâm đến sự kinh ngạc của Vân Tương, tiếp tục nói: “Ta đã tính toán chuẩn xác, lượng người qua lại chỗ này hằng ngày quá vạn lượt, theo lý thuyết nếu mỗi người bố thí cho ta một đồng, vậy thu nhập hằng ngày của ta cũng có thể khiến chưởng quầy các tiền trang phải đố kỵ. Thế nhưng không phải ai cũng sẽ cho ta, ta cũng không có thời gian và sức lực để đi xin nhiều người như vậy, nên ta phải phân tích xem những ai là đối tượng mục tiêu, ai là đối tượng tiềm năng. Ở vùng này, đối tượng mục tiêu của ta chiếm hai thành trong tổng lưu lượng người qua lại, tỉ lệ xin thành công là bảy thành, đối tượng tiềm năng chiếm ba thành trong tổng lưu lượng người qua lại, có năm thành tỉ lệ thành công. Những người khác ta sẽ loại bỏ, vì ta không có đủ thời gian để tìm kiếm vận may ở họ.”
“Vậy ngươi làm thế nào để xác định, ai có khả năng bố thí cho ngươi?” Vân Tương hỏi tiếp.
Tên ăn mày cười nói: “Đầu tiên, những người trẻ tuổi như công tử, tuy bề ngoài giản dị, lời nói cử chỉ khiêm tốn, nhưng từ ánh mắt, ta đã biết một người có đủ của cải và thực lực hay không; kế tiếp là những con cháu nhà giàu đi theo thiếu nữ xinh đẹp đến mua đồ ở đây cũng là đối tượng tiềm năng của ta, họ thường sẽ không keo kiệt trước mặt nữ nhân đi cùng. Ngoài ra, còn cả những nữ tử trẻ tuổi không có ai đi cùng, họ đều sợ nam nhân lạ mặt đeo bám, vì vậy đa phần sẽ móc tiền đuổi ta đi. Còn những người hơi lớn tuổi, bề ngoài luộm thuộm bê tha, ta thường sẽ trốn họ, vì họ sẽ không có sự kích động muốn tiêu tiền như những người trẻ tuổi, hơn nữa gánh nặng cuộc sống khiến họ sớm quên đi niềm vui bố thí, chỉ biết tính toán từng đồng bỏ ra liệu có mua được thứ gì thiết thực hay không.”
“Vậy ngươi mỗi ngày có thể kiếm được bao nhiêu tiền?” Vân Tương không nhịn được hỏi.
“Chí ít cũng ba trăm đồng.” Tên ăn mày bình thản nói.
“Nhiều vậy sao?” Vân Tương hơi ngạc nhiên. Ba trăm đồng tương đương với ba tiền, tính như vậy, một tháng y có thể kiếm được gần mười lượng bạc, còn cao hơn tiền công của chưởng quầy các quán cơm.
“Có phải công tử thấy làm ăn mày mà thu nhập cao như vậy quả thực không thể tin nổi không?” Tên ăn mày cười nói: “Nhưng công tử đừng tưởng tên ăn mày nào cũng thu nhập như vậy. Ăn mày ở vùng này không dưới trăm người, có người tàn tật bẩm sinh, có kẻ vác thêm con cái, điều kiện cũng tốt hơn ta, nhưng chỉ có ta mới đạt được con số này. Rất nhiều người trong số họ cộng cả tháng lại có lúc còn không bằng tiền ta xin được một ngày.”
Thấy Vân Tương tỏ vẻ hoài nghi, y chỉ vào một tên ăn mày đang đuổi theo người đi đường xin ăn cách đó không xa, cười nói: “Công tử xem kẻ cùng nghề với ta kia, đuổi theo người khác quá nửa con phố, lãng phí hết thời gian có hạn của mình vào một người không có hy vọng, dù cuối cùng xin được một hai đồng cũng chẳng bõ công. Không biết tận dụng thời gian hữu hạn của mình vào đối tượng tiềm năng, ăn mày như vậy không chết đói là giỏi lắm rồi.”
Vân Tương gật đầu đồng tình, lại nghe y nói tiếp: “Có người nói làm ăn mày phải dựa vào may mắn, thật ra không phải. Để ta lấy ví dụ cho công tử, chẳng hạn như mấy người đứng ở cửa hàng tơ lụa đối diện kia, xin người nào là ăn chắc nhất?”
Vân Tương nhìn theo hướng y chỉ, thấy đối diện con phố là một cửa hàng tơ lụa, trước cửa có một cặp phu thê trẻ đang đợi xe ngựa, một thiếu nữ đi một mình và một công tử nhà giàu ăn bận chải chuốt. Vân Tương nghĩ một lát, lưỡng lự nói: “Chắc là công tử nhà giàu kia?”
Tên ăn mày cười lắc đầu, phân tích: “Đôi phu thê trẻ kia đang đanh mặt lại, hẳn vì vừa cãi nhau xong, lúc này mà đến chỗ họ xin ăn chắc chắn là tự làm mất mặt, vị công tử nhà giàu kia áo quần bảnh bao, thân phận hiển hách, những kiểu người này thường không mang tiền lẻ, tuy ra tay rất hào phóng, nhưng nếu trực tiếp đến xin, phần nhiều sẽ bị chửi mắng.” Nói tới đây, y nở nụ cười kỳ bí: “So ra thì, cô thiếu nữ ngây thơ hiền lành kia mới là người dễ dàng bố thí nhất, vì vậy nên đi xin cô nương ấy trước, sau khi thành công hãy tìm công tử nhà giàu kia. Những công tử gia thế hiển hách tự cao tự đại như y sẽ không muốn thua kém người khác ở bất cứ mặt nào, vì vậy khi thấy thiếu nữ cho tiền, y chắc chắn cũng sẽ khảng khái phóng tay.”
Thấy Vân Tương không tin, tên ăn mày cười nói: “Công tử đợi chút, ta đi kiếm món tiền này trước.” Dứt lời, y đi thẳng qua đường, đến trước mặt thiếu nữ chìa tay xin, thiếu nữ kia quả nhiên móc một đồng ra đuổi y.
Tên ăn mày lại quay sang gã công tử nhà giàu, gã chần chừ giây lát rồi móc đại một miếng bạc trong ống tay áo ném cho y, xem bộ không dưới năm tiền.
Tên ăn mày điềm nhiên cất bạc, cất tiếng cảm tạ rồi ung dung trở về, đắc ý cầm thỏi bạc vừa xin được đong thử, nhìn Vân Tương cười nói: “Nhờ hồng phúc của công tử, hôm nay quả là bội thu, nếu công tử không chê, tại hạ sẽ mời công tử uống rượu.”
“Ngươi mời ta uống rượu?” Thấy Vân Tương thoáng ngạc nhiên, tên ăn mày cười đáp: “Không sai. Người bằng lòng cho ăn mày thì nhiều, nhưng người chịu nói chuyện với một tên ăn mày trên phố thì rất hiếm gặp. Công tử không khinh thị hay lạnh nhạt với kẻ ăn mày như ta, dạng người như vậy lâu lắm rồi ta chưa gặp, vì vậy muốn mời công tử uống một ly, xem như cảm tạ.”
Vân Tương thấy ánh mắt tha thiết của y cũng không nỡ từ chối, bèn theo y đến một tửu quán ven đường. Sau khi hai người ngồi xuống, Vân Tương thốt lên: “Không ngờ làm ăn mày cũng có thể thành công như vậy, đúng là khiến người ta thảng thốt.”
Tên ăn mày chỉ vào đầu mình cười nói: “Làm chuyện gì cũng phải có phương cách, dùng đầu óc, ngoài ra còn cần học tập, học tập khiến người ta trở nên thông minh hơn, người thông minh không ngừng học tập thì có thể trở thành chuyên gia về một mặt nào đó, làm bất cứ nghề nào cũng phải chuyên nghề mới có thể sống tốt hơn được. Ngoài ra còn phải có thái độ tích cực lạc quan. Những ăn mày khác đều nghĩ ta vì thu nhập cao mới lạc quan, thật ra họ đã sai, ta có thái độ vui vẻ tích cực trước nên mới có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Ăn mày là nghề của ta, nếu đã làm nghề này thì phải dốc hết nhiệt tình để làm một gã ăn mày vui vẻ mà thành công, vì ta biết, thái độ của ta sẽ quyết định mức độ mà ta có thể đạt tới.”
Vân Tương ngẫm nghĩ lời nói của tên ăn mày, bất giác động tâm. Nếu một người làm ăn mày mà có thể giữ được sự nhiệt tình lớn và được hồi báo hậu hĩnh như vậy, có lẽ y làm chuyện khác cũng không kém đâu nhỉ? Vân Tương lần đầu tiên chắp tay vái tên ăn mày, hỏi: “Tiên sinh mời ta uống rượu, nhưng ta lại chưa biết tên, không biết tôn tính đại danh của tiên sinh là gì?”
Tên ăn mày thoáng đỏ mặt phấn khích, liền đáp: “Mấy khi có công tử chịu cùng ta uống rượu, thế này là đã nể mặt ta quá nhiều rồi. Tại hạ Tưởng Văn Hoán, dám hỏi đại danh của công tử?”
Vân Tương lấy một tấm danh thiếp từ trong tay áo đưa tới trước mặt y, tên ăn mày vừa cầm xem bất chợt kinh hãi thốt lên: “Vân Tương? Có phải là Thiên Môn công tử Tương đại danh đỉnh đỉnh?”
Vân Tương gật đầu cười nói: “Không biết Tưởng tiên sinh ngoài làm ăn mày có hứng thú làm thử ngành nghề khác không?”
Tên ăn mày bèn hỏi: “Nghề gì?”
Vân Tương cười đáp: “Ta mới mở một tiệm tơ lụa ở Kim Lăng, hiện giờ đang thiếu tiểu nhị, không biết Tưởng tiên sinh có hứng thú không?” Không đợi Tưởng Văn Hoán trả lời, gã nói thêm: “Nhưng tiền công sẽ thấp hơn tiên sinh làm ăn mày nhiều.”
Tưởng Văn Hoán cười nói: “Nếu người khác bảo ta bỏ cái nghề tự do tự tại, thu nhập dồi dào này để đi làm tiểu nhị, ta chắc chắn sẽ không đồng ý, nhưng nếu là đề nghị của công tử Tương ta sẽ gật đầu không do dự, vì đi theo một ông chủ tiềm lực vô hạn, thành công chẳng còn xa nữa rồi!”
Vân Tương cười nói: “Đa tạ Tưởng tiên sinh đồng ý, ngày mai tiên sinh hãy cầm danh thiếp của ta tới tìm Chu lão bản ở Cẩm Tú Phường Kim Lăng, ông ấy sẽ sắp xếp công việc cho tiên sinh.”
Cứ như vậy, Tưởng Văn Hoán đã trở thành tiểu nhị trong tiệm tơ lụa Vân Tương mới mở. Vân Tương không hề nhìn nhầm, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, tên ăn mày thành công năm xưa đã từ một tiểu nhị trở thành đại chưởng quầy giúp Vân Tương quản lý các ngành tơ lụa, khách điếm, quán ăn và mậu dịch, thậm chí hoàn toàn tiếp quản trách nhiệm quan trọng của Tiêu bá trên thương trường, trở thành một trong những người quản lý quan trọng nhất trong vương quốc thương nghiệp của Vân Tương. Hiện giờ nghe nói Vân Tương muốn lấy tiền mọi người cực khổ kiếm được để ném vào cuộc chiến không có hồi báo, dĩ nhiên y là người đầu tiên đứng ra phản đối.
Vân Tương nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Tưởng Văn Hoán, cười hỏi: “Tưởng tiên sinh, tiên sinh cho rằng tiền của chúng ta nên dùng thế nào mới có giá trị?”
Tưởng Văn Hoán trầm giọng nói: “Đương nhiên là bỏ vào những chỗ có thể thu lợi nhiều nhất, ví dụ như hiện giờ Ngõa Thích sắp xâm lược phía Nam, chiến sự vừa nổ ra, vật giá các nơi chắc chắn tăng vọt. Chúng ta bây giờ nên tích trữ thật nhiều lương thực, vải vóc, dầu muối, thậm chí cả vật tư quân sự như ngựa, sắt thép, cỏ khô, đợi lúc chiến sự khốc liệt nhất thì tung ra bán, như vậy chắc chắn có thể kiếm được một món lớn.”
“Sau đó thì sao?” Vân Tương lạnh nhạt hỏi. Tưởng Văn Hoán nghĩ ngợi rồi trầm ngâm đáp: “Chiến loạn vừa nổ ra, các bất động sản như cửa hiệu, nhà cửa và đường phố khắp nơi thông thường sẽ trượt giá mạnh, nếu chúng ta lấy tiền kiếm được nhờ tích trữ hàng hóa tiếp tục thu mua phần lớn cửa hiệu, phòng ốc, đợi đến lúc chiến sự bình ổn, việc buôn bán ở các nơi khôi phục như thường thì những bất động sản đó ít nhất có thể thu lợi gấp đôi.”
“Tưởng tiên sinh quả nhiên có con mắt nhìn độc đáo!” Vân Tương cười nhạt nói: “Nhưng ngươi lại tính thiếu mất một chuyện.”
“Chuyện gì? Mong công tử chỉ điểm!” Tưởng Văn Hoán bèn hỏi.
Vân Tương thở dài: “Nếu chiến sự có thể phát triển như ngươi dự liệu, kế hoạch của ngươi dĩ nhiên sẽ hoàn hảo. Đáng tiếc ngươi quên rằng người Ngõa Thích không nghe chúng ta chỉ huy. Nếu chúng xâm lược Trung Nguyên, thiên hạ đại loạn, chúng ta dù có kiếm được nhiều của cải đến đâu chăng nữa, cũng làm sao giữ nổi trong thời chiến loạn.”
Tưởng Văn Hoán trầm tư: “Biên thùy có đóng chốt trọng binh, kinh sư còn có ba đại doanh quân tinh nhuệ trấn thủ, dù Ngõa Thích có xâm phạm cũng chưa chắc đánh được vào Bắc Kinh, càng không thể đánh tới Giang Nam, công tử lo xa rồi.”
“Nếu mọi người đều nghĩ như Tưởng tiên sinh, thì thiết kỵ Ngõa Thích đánh tới Giang Nam cũng không có gì lạ.” Vân Tương than: “Dù người Ngõa Thích không thể đánh tới Giang Nam, nhưng thiên hạ đại loạn, Giang Nam lẽ nào có thể bình yên? Nếu thương gia các nơi đều tích trữ hàng hóa, dẫn tới vật giá tăng cao, người dân không thể sống nổi, phải cướp bóc lấy cái ăn, lúc đó người người đều nguy hiểm, tính mạng khó giữ, dù kiếm được tiền nghìn bạc vạn cũng chẳng mua nổi an toàn của bản thân.”
Thấy vẻ trầm tư trong ánh mắt của các chưởng quầy, Vân Tương cảm khái nói: “Tổ vỡ làm sao có trứng lành? Nếu thiên hạ đại loạn, người chịu tai ương không chỉ là bách tính mà còn là chính bản thân chúng ta. Hơn nữa chúng ta kiếm tiền vì cái gì? Nếu của cải không mang đến niềm vui cho chúng ta, trái lại còn mang đến nguy hiểm và tiếng xấu, thì càng nhiều của cải chúng ta sẽ càng thêm tội nghiệt, sớm muộn gì cũng bị trời xanh trừng phạt.” Nói tới đây, Vân Tương đứng thẳng dậy, nhìn họ nói: “Tuy ta là chủ của các ngươi, nhưng của cải của ta đều là do các ngươi mang lại, vì vậy ta muốn nghe thử ý kiến của các ngươi, chúng ta vung tiền để bảo vệ sự bình yên cho thiên hạ rốt cuộc có đáng hay không?”
Mấy chưởng quầy trao đổi qua ánh mắt, cuối cùng nhất tề nói: “Quyết định của công tử là suy nghĩ cho người trong thiên hạ, cũng là lo nghĩ cho bản thân chúng tôi, chúng tôi dĩ nhiên không có ý kiến.”
Tưởng Văn Hoán trầm ngâm nói: “Tấm lòng của công tử tôi không thể so bì. Tuy tôi có suy nghĩ riêng về quyết định của công tử, nhưng nếu công tử đã hạ quyết tâm, tôi sẽ ra sức ủng hộ.”
“Vậy thì được, chuyện này cứ quyết định thế đi.” Vân Tương trầm giọng nói: “Ba ngày sau ta sẽ xuất phát đi biên thùy, các ngươi hãy trích một nửa lợi nhuận năm nay ra làm quân lượng, thu mua lương thảo, trang bị và chiến mã, trong vòng một tháng phải chuyển tới Đại Đồng. Thời gian cấp bách, mọi người lập tức trở về chuẩn bị đi.”
Các chưởng quầy nhất tề vâng dạ, rồi lần lượt cáo biệt Vân Tương ra về. Vân Tương giữ Tưởng Văn Hoán ở lại, cầm tay y dặn: “Lần này ta đi biên thùy, bên cạnh đang thiếu một nhân tài quản lý sự vụ, mong Tưởng tiên sinh hãy đích thân áp tải lương thảo đến biên thùy giúp ta.”
Tưởng Văn Hoán gật đầu nói: “Tưởng mỗ có ngày hôm nay hoàn toàn nhờ ơn tri ngộ của công tử, tôi quyết không phụ lòng kỳ vọng của công tử, xin công tử yên tâm.” Dứt lời, y ngập ngừng: “Ngoài ra, tôi còn muốn tiến cử một nhân tài với công tử.”
Vân Tương thoáng ngạc nhiên, Tưởng Văn Hoán theo gã lâu như vậy, chưa từng tiến cử ai với gã, Vân Tương buột miệng hỏi: “Nhân tài gì?”
“Một kỳ tài thương giới có tầm nhìn độc đáo, khứu giác nhanh nhạy.” Tưởng Văn Hoán thoáng hiện lộ vẻ khâm phục: “Cô nương ấy tên Doãn Cô Phương, vốn là một lão bản của khách điếm nhỏ, mấy năm trước đã đặt khách điếm ấy cho tiền trang chúng ta, mượn một nghìn lượng bạc để làm ăn, chỉ trong bốn năm năm, hiệu buôn Phương Tự của cô nương ấy đã trở thành hiệu buôn phát triển nhanh nhất ở Kim Lăng, đồng thời là đối thủ cạnh tranh với chúng ta. Tôi nhiều lần muốn thu mua hiệu buôn của cô nương ấy, nhập vào dưới trướng chúng ta, nhưng đều bị cô ấy từ chối. Doãn cô nương từng nói với tôi, trừ phi chủ của tôi, cũng chính là công tử ra mặt, nếu không đừng đề cập đến bất cứ đề nghị hợp tác gì.”
Doãn Cô Phương? Vân Tương cảm thấy cái tên này hơi quen quen, nhưng nhất thời không nghĩ ra được. Gã ngờ vực hỏi: “Một nữ tử cũng đáng để ta đi gặp ư?”
“Tuyệt đối đáng!” Tưởng Văn Hoán gật đầu khẳng định: “Tuy tuổi còn trẻ, lại là một nữ tử, nhưng đầu óc và tầm nhìn của cô nương ấy khiến tôi không thể không khâm phục. Dường như cô nương ấy biết chủ nhân thực sự của hiệu buôn chúng ta là công tử, đồng thời rất kính trọng và tò mò về công tử. Nếu công tử có thể thu nạp cô nương ấy vào dưới trướng, chắc chắn sẽ như hổ thêm cánh.”
Vân Tương nghĩ một lát rồi phì cười: “Ngươi theo ta đã lâu, đúng là lần đầu tiên tiến cử nhân tài với ta, chỉ dựa vào chuyện này ta cũng phải đi gặp nàng ấy. Nhưng hiện giờ ta không có thời gian, đợi ta từ biên quan trở về rồi tính nhé.”
Tưởng Văn Hoán thoáng lộ vẻ tiếc nuối, nhưng cũng không nói gì thêm, chắp tay cáo từ. Y vừa đi chưa được bao lâu, Vân Tương đã thấy Trương Bảo dẫn theo một đứa trẻ chừng sáu, bảy tuổi bước vào, vừa vào cửa đã cười tâng công: “Công tử xem ta đưa ai tới này!”
“Tiểu Giai!” Vân Tương mừng rỡ mỉm cười. Đứa trẻ kia bước tới trước mặt gã, cung kính khom lưng chào: “Con chào Vân thúc thúc!”
Vân Tương cười cười vỗ vai cậu, quý mến khen: “Vừa mới đi học mấy ngày quả nhiên đã khác hẳn! Nhưng trước mặt Vân thúc thúc, cháu không cần phải đa lễ như vậy.”
Cậu bé thở phào, vẻ mặt ngập tràn niềm vui sướng và hân hoan vì lâu ngày mới gặp lại. Từ lúc gã đưa cậu đến chỗ người khác gửi nuôi, Vân Tương hiếm khi được gặp cậu bé, hiện giờ lại sắp phải đi đến biên thùy xa xôi, nói không chừng còn gặp lại cha đẻ của Giai Giai. Nghĩ tới đây, vẻ mặt Vân Tương đượm buồn, gã nhìn vào đôi mắt trong veo của cậu bé, tần ngần hỏi: “Nếu một ngày nào đó Vân thúc thúc… làm chuyện gì tổn thương cháu, cháu có tha thứ cho thúc thúc không?”
Giai Giai cười ngây ngô hỏi: “Vân thúc thúc sao lại tổn thương cháu được?”
Vân Tương cười gượng: “Ta nói là nếu như.”
Giai Giai ngẫm nghĩ rồi cười nói: “Cha mẹ cháu mất từ khi cháu còn nhỏ, Vân thúc thúc đã nuôi dưỡng cháu, coi cháu như con ruột. Cháu tin thúc sẽ không bao giờ làm tổn thương cháu, dù vô tình có tổn thương, thì cũng là không cố ý, dĩ nhiên cháu sẽ tha thứ.”
Vân Tương thở phào nhẹ nhõm, lúc trước gã còn nghĩ cậu vẫn còn nhỏ, không nên tiếp xúc sớm với âm mưu và tội ác ở đời, vì vậy chưa từng kể về cha ruột của cậu. Nhưng Giai Giai vô cùng hiểu chuyện, cũng rất thông minh, vì vậy Vân Tương vẫn luôn cân nhắc xem nên nói chuyện về phụ thân cậu thế nào.
“Mấy ngày nữa thúc phải đi xa một chuyến, sau này sẽ rất lâu cháu không gặp được ta.” Vân Tương áy náy nhìn đứa trẻ: “Không thể ở cạnh chăm sóc cháu, ta cũng rất khó xử và tiếc nuối. Vì vậy cháu phải nghe lời dưỡng phụ dưỡng mẫu và lão sư, học cho giỏi, làm một đứa trẻ ngoan ngoãn, lương thiện, chính trực.”
Giai Giai hiểu chuyện gật đầu rồi lại chần chừ hỏi: “Vân thúc thúc muốn đi đâu? Cháu… cháu có thể đi cùng thúc không?”
Thấy ánh mắt tha thiết của cậu, Vân Tương cũng thoáng động lòng. Nhưng vừa nghĩ tới chuyến này đi biên quan chẳng biết sẽ gặp nguy hiểm gì, còn có thể phải đối đầu với chính cha ruột của Giai Giai, gã đành dằn lòng lắc đầu: “Cháu phải đọc sách, không được đi đâu hết, đợi cháu lớn hơn, ta sẽ dẫn cháu theo bên cạnh, đích thân dạy cháu học.”
Giai Giai dạ một tiếng, ánh mắt đầy vẻ hụt hẫng. Vân Tương hỏi han tình hình học tập của cậu, phát hiện cậu đối đáp lưu loát, tuy nhỏ tuổi nhưng đã thể hiện thiên phú học tập cực cao, Vân Tương vừa mừng vui lại vừa lo lắng, vô cùng mâu thuẫn. Dù sao đứa bé này không chỉ là con của Hân Di, mà còn là con trai Nam Cung Phóng, tương lai liệu cậu có vì mối quan hệ của cha mà bước vào con đường tà ác hay không, chẳng ai dám bảo đảm. Vân Tương chỉ có thể thề với lòng, nhất định phải nuôi dạy để cậu thiện lương như mẹ, chứ không gian xảo độc ác như cha.
Thấy sắc trời đã muộn, thời gian cấp bách, Vân Tương còn rất nhiều chuyện phải đích thân giải quyết, đành để Trương Bảo đưa Giai Giai về.
Sáng sớm ngày hôm sau, Vân Tương triệu kiến đệ tử Thiên Môn cùng thủ lĩnh các bang hội đang quy phục gã, sắp xếp tỉ mỉ nhiệm vụ và chức trách từng người sau khi gã rời khỏi. Cuối cùng gã tới phân đường của Tế Sinh Đường ở Kim Lăng, thấy nó ngày càng phát triển dưới bàn tay chuyên cần của Tiêu bá và Trương Bảo, càng lúc càng cứu trợ được nhiều cô nhi quả phụ và người bệnh tật tàn phế. Lòng Vân Tương vô cùng vui sướng, tất cả buồn bực trong cuộc sống đều tan biến khi ở nơi này.
Giao phó xong xuôi tất cả sự vụ, Vân Tương bèn dẫn theo Tiêu bá, Trương Bảo đến địa điểm đã hẹn trước, gặp ngay Triệu Văn Hổ và Lý Hàn Quang bận quân trang từ Hàng Châu tới. Vẻ phấn khích lộ rõ qua ánh mắt của họ, giống như tia sáng lạnh lẽo rạn người trong mắt con mãnh hổ sắp đi săn. Vân Tương cảm thấy may mắn vì không nhìn nhầm người, họ đều là những quân nhân trời sinh đầy khát khao và ngưỡng vọng với chiến tranh, chắc chắn có thể trở thành hai cánh tay đắc lực của mình.
Vân Tương và hai người họ tập hợp, gật đầu ra hiệu cho nhau rồi không hỏi han dư thừa thêm nữa, lập tức nhảy lên ngựa nhắm hướng Tây Bắc, thúc ngựa lao vút đi…