Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 63
8
Bắc
phạt
Vầng dương sắp lặn mà chưa lặn nhuốm đỏ một vùng trời chiều. Trong cơn gió thu se sắt, hơn một vạn hán tử cường tráng của Tân Quân Doanh đứng nghiêm trang như những pho tượng gỗ, binh khí dựng trong tay họ lóe lên những tia sáng lạnh lẽo ảm đạm dưới ánh tà dương.
Vân Tương thúc ngựa thong thả đi qua trước đội ngũ, cuối cùng bước lên đài điểm tướng. Đối mặt với hơn một vạn đôi mắt đầy vẻ sốt ruột, hoang mang và lo lắng, gã chậm rãi cất cao giọng: “Tin rằng mọi người đều đã nghe nói, ba ngày trước Võ soái trên đường chi viện cho Bắc Kinh đã bị người Ngõa Thích tập kích, anh dũng hy sinh vì nước, chủ lực quân Trấn Tây bị đánh bại, mười vạn quân Ngõa Thích đang bừng bừng khí thế đánh tới Đại Đồng. Hai vạn quân trấn thủ Đại Đồng cộng với Tân Quân Doanh chúng ta, quả thực khó mà ngăn chặn đợt tấn công của tinh binh Ngõa Thích. Một khi Đại Đồng thất thủ, cánh cửa vào Trung Nguyên sẽ mở rộng, thiết kỵ Ngõa Thích sẽ tràn xuống phía Nam như nước lũ, lúc đó phụ lão hương thân, vợ yếu con thơ của chúng ta sẽ nằm dưới lưỡi đao và vó sắt của người Ngõa Thích, mặc cho chúng chém giết. Là những hán tử can trường trấn thủ biên thùy, chúng ta có thể để thảm kịch như vậy xảy ra không?”
“Không thể!” Một vạn người đồng thanh gầm vang, khí thế kinh nhân.
Vân Tương giơ roi ngựa chỉ về phía Bắc: “Muốn giữ Đại Đồng, cách duy nhất hiện giờ là lấy công làm thủ, Bắc phạt Ngõa Thích, dùng kế vây Ngụy cứu Triệu để giải trừ mối nguy cho Đại Đồng.” Nói tới đây, gã đổi giọng: “nhưng Tân Quân Doanh chúng ta một mình kéo lên phía Bắc, thọc sâu vào lòng địch, tiền đồ nguy hiểm khó lường. Có lẽ các dũng sĩ ở đây ngày hôm nay phần nhiều sẽ mãi mãi chôn thân đất khách, không thể trở về cố thổ; có lẽ chúng ta sẽ chảy đến giọt máu cuối cùng, chiến đấu đến người cuối cùng trên đất địch. Nhưng núi xanh có thể làm chứng cho chúng ta, trời cao cũng có thể làm chứng cho chúng ta, chúng ta không sợ dùng máu tươi và tính mạng của mình để bảo vệ nhà cửa của chúng ta, bảo vệ người thân của chúng ta! Kẻ nào xâm phạm nước ta, dù ác cũng phải trừ! Kẻ nào giết người thân ta, dù mạnh cũng phải giết!”
Hơn một vạn hán tử đồng loạt vung đao hô lớn: “Kẻ nào xâm phạm nước ta, dù ác cũng phải trừ! Kẻ nào giết người thân ta, dù mạnh cũng phải giết!”
Vân Tương chậm rãi rút bội kiếm đeo bên hông, giơ lên trời thề: “Trời xanh làm chứng, không diệt Thát tử không trở về!”
“Trời xanh làm chứng!” Hơn vạn binh tướng vung vũ khí đồng thanh hô vang, đao kiếm giơ thẳng đâm nát bầu trời đỏ máu, tiếng vạn người hợp thành một lời thề: “Không giết Thát tử không trở về!”
Vân Tương mắt rung rưng lệ nóng từ từ nhìn lướt qua các tướng sĩ, từ ánh mắt không còn sợ hãi, xem chết như về của họ, gã đã trông thấy niềm tin và hy vọng. Vân Tương quả quyết vung kiếm chỉ về phía Bắc, cao giọng hô: “Xuất phát!”
Hơn một vạn quân chưa từng ra chiến trường dưới sự che chở của màn đêm lặng lẽ rời Đại Đồng từ cửa thành phía Tây, vòng qua đại quân Ngõa Thích đang tiến về phía Đại Đồng, vượt qua trường thành sừng sững, ôm ý chí quyết tử có đi không có về, bước lên lãnh thổ địch xa lạ và đầy nguy hiểm. Dựa vào rác rưởi, phân và nước tiểu đại quân Nam tiến của Ngõa Thích để lại dọc đường, họ đi thẳng về phía Bắc, xuyên thẳng vào tim Ngõa Thích…
Từng gian lều cháy bùng lên trong lửa, dâng lên thảo nguyên đang ngập tràn bóng tối lễ tế đầy máu và lửa, trong ánh lửa vang lên vô số tiếng la hét và thút thít của phụ nữ, trẻ em, thỉnh thoảng đan xen tiếng kêu thảm trước khi chết. Thảo nguyên mênh mông vốn yên bình, tĩnh lặng, gần như trở thành địa ngục trần gian.
Đây là bộ lạc Ngõa Thích đầu tiên Tân Quân Doanh gặp trên đường, chỉ có mấy chục căn lều và hơn trăm dân du mục, cùng mấy nghìn con bò, dê và ngựa. Họ không may trở thành vật hy sinh đầu tiên của Tân Quân Doanh.
Đợt Nam chinh của Ngõa Thích đã lấy hết phần lớn nam tử trai tráng đi, vì vậy khi bị Tân Quân Doanh tấn công, người Ngõa Thích cơ hồ không có sức chống trả. Hơn vạn tướng sĩ của Tân Quân Doanh bao vây cả bộ lạc, không đợi Vân Tương hạ lệnh, mấy viên tướng đã dẫn binh lính thủ hạ xông vào những người dân không sức chống trả. Họ muốn dùng máu tươi và tính mạng của những người dân vô tội này làm lễ tế máu và lửa cho những tân binh mới.
“Dừng tay! Các ngươi định làm gì?” Tuy Vân Tương lường trước tình cảnh này, nhưng vẫn không nhịn nổi, cao giọng quát dừng. Người chỉ huy bao vây bộ lạc này chính là Võ Thắng Văn, khi bị Vân Tương chất vấn, y thản nhiên nói: “Chúng ta liều chết Bắc phạt, chính là dốc hết khả năng để cho người Ngõa Thích một đòn đả kích tàn khốc tanh máu nhất, lấy gậy ông đập lưng ông, chỉ có máu tanh và nỗi kinh hoàng bao trùm lên cả thảo nguyên mới có thể dụ đại quân Ngõa Thích đang xâm lược Trung Nguyên trở về, để quân phòng thủ Đại Minh có thêm thời gian bố trí phòng thủ. Nếu ngươi nhân từ tha cho những người dân này, lẽ nào muốn Tân Quân Doanh đi tấn công quân đội của Ngõa Thích? Những tân binh chưa từng thấy máu, chưa từng giết người này khi đối mặt với quân đội Ngõa Thích chẳng phải sẽ chết oan uổng sao?”
“Nhưng… những phụ nữ trẻ nhỏ này có tội gì?” Vân Tương hai mắt đỏ ngầu, phẫn uất hỏi.
Võ Thắng Văn giận dữ đáp: “Bách tính Đại Minh ta thì có tội gì? Phụ thân ta có tội gì? Người Ngõa Thích muốn chiến tranh, ta sẽ để chúng nếm thử mùi vị của chiến tranh! Ta sẽ lấy tính mạng của mười vạn người Ngõa Thích để bái tế phụ thân ta và mười vạn tướng sĩ quân Trấn Tây!”
Triệu Văn Hổ cũng bình tĩnh nói với Vân Tương: “Công tử đừng tưởng những đứa trẻ này còn nhỏ, hai mươi năm sau chúng sẽ lại là lang binh hổ tướng xâm phạm Đại Minh ta, còn về những nữ nhân này, giết họ có thể giảm tỉ lệ sinh của người Ngõa Thích, giảm tăng trưởng nhân khẩu của Ngõa Thích, làm tiêu hao thực lực của chúng, đồng thời cũng giảm bớt mối đe dọa tiềm tàng với Đại Minh triều ta. Chiến tranh vốn tàn khốc như vậy, không phải ngươi chết thì là ta chết, không thể nhân từ chút nào.”
“Đúng vậy!” Tổng quản trung quân Lý Hàn Quang cũng hùa theo: “Không giết những người này thì hành tung và thực lực của chúng ta sẽ bại lộ, một khi chúng ta bị đại quân Ngõa Thích đuổi kịp, e rằng kẻ chết sẽ là chúng ta.”
Các tân binh được tướng lĩnh của mình dẫn dắt, lần đầu tiên dùng vũ khí trong tay đâm thẳng vào người sống. Có người thấy máu tươi bắn ra thì sợ đến há mồm trợn mắt, có kẻ lại hốt hoảng luống cuống vì tiếng kêu thảm thiết trước khi chết, gần như mọi người sau lần đầu tiên giết người đều không nhịn được quỳ xuống đất nôn mửa. Trong ánh lửa lấp loáng, cả bộ lạc đã trở thành địa ngục trần gian với người Ngõa Thích và cả chính những tân binh này.
Vân Tương quay đầu đi không nỡ nhìn, La Nghị và mười tám võ tăng phía sau lưng gã bất giác cúi đầu niệm chú vãng sinh. Tuy biết Võ Thắng Văn và Lý Hàn Quang nói có lý, nhưng việc làm tàn bạo của Tân Quân Doanh vẫn khiến Vân Tương có cảm giác tội lỗi nặng nề và thống hận tột độ, lòng nhân từ của gã phải chịu sự giày vò chưa từng có.
Chiến tranh, đây chính là chiến tranh! Vân Tương chỉ thấy tim mình rỉ máu, nếu có thể lựa chọn, gã thà không kiến công lập nghiệp, không lưu danh sử sách, còn hơn phải đối diện với chiến tranh trước mắt.
Tiếng khóc thét và kêu thảm của phụ nữ, trẻ em nhỏ dần rồi bặt hẳn, một thiên hộ cả người đẫm máu thúc ngựa tới bẩm báo: “Vân công tử, Võ thống lĩnh, tất cả người Ngõa Thích đã bị giải quyết, hiện giờ chỉ còn lại mấy nghìn con súc sinh này, nên xử lý thế nào?”
Võ Thắng Văn lạnh lùng phẩy tay: “Đem đi được bao nhiêu thì đem đi, còn bao nhiêu thì giết sạch cho kền kền ăn, quyết không để lại gì cho người Ngõa Thích!”
Tướng sĩ Tân Quân Doanh lại tiếp tục vung đao chém giết, Vân Tương thấy bất nhẫn phải né sang bên, nói với Trương Bảo đi theo cùng: “Mau lấy rượu tới cho ta!” Gã chỉ muốn dùng rượu để bản thân tê dại, quên đi màn chém giết tàn nhẫn nhất trong đời này.
Khi bình minh lên, tướng sĩ Tân Quân Doanh cuối cùng đã giết sạch người và gia súc, sau khi nghỉ ngơi chốc lát, họ chuẩn bị tiếp tục lên đường thì phát hiện không thấy bóng dáng Vân Tương. Cuối cùng Triệu Văn Hổ đã tìm được gã đang say khướt, nước mắt đẫm mặt trong một bụi cỏ. Y chẳng nói chẳng rằng, cướp lấy túi nước trong tay một binh sĩ, dốc thắng lên đầu Vân Tương. Vân Tương giật bắn mình, cuối cùng cũng tỉnh khỏi cơn say.
Triệu Văn Hổ chỉ những binh tướng sau lưng mình, trầm giọng nói với Vân Tương: “Xin công tử hãy nhìn những tướng sĩ này, họ đều vì theo công tử mới liều chết Bắc phạt, hiện giờ họ còn đợi công tử dẫn đi hoàn thành nghĩa cử chinh phạt Ngõa Thích, đồng thời đưa họ bình an về cố thổ! Nếu công tử bỏ rơi họ, có lẽ ngày mai chính bản thân họ sẽ chết trên mảnh đất dị quốc này.”
Dưới ánh mắt tha thiết của các tướng sĩ, đôi mắt thẫn thờ của Vân Tương dần tỉnh táo lại, gã chậm rãi nhìn họ. Đối mặt với những dũng sĩ đã đi theo mình, gã thầm nhủ trong lòng: “Nếu việc làm tàn bạo của Tân Quân Doanh có thể giải nguy cho Đại Đồng, xin hãy ghi hết những tội ác này lên đầu Vân Tương ta, để bách tính Trung Nguyên tránh khỏi nỗi khổ chiến tranh, Vân Tương ta cam nguyện chịu sự trừng phạt nặng nhất của ông trời!”
Vừa hạ quyết tâm, Vân Tương đã rũ sạch vẻ bàng hoàng và tiều tụy, chậm rãi đứng dậy, vẫy tay gọi Lý Hàn Quang: “Bản đồ!”
Lý Hàn Quang bèn cùng một tướng lĩnh khác trải bản đồ ra trước mặt Vân Tương. Chỉ thấy gã nhìn bản đồ thoáng trầm ngâm, ngón tay không hề do dự chỉ thẳng một mục tiêu trên bản đồ, trầm giọng nói: “Xuất phát! Trước khi trời tối phải tới được đây.”
Tân Quân Doanh lập tức khởi hành, hỏa tốc lao tới điểm định cư tiếp theo của người Ngõa Thích. Đại quân Ngõa Thích đang vây khốn Đại Đồng, đã sắp đánh hạ được thành, đột nhiên lại tức tốc rút về quan ngoại ngay trong một đêm trăng mờ gió lộng. Họ đi vội vàng đến nỗi không mang theo dân chúng và của cải cướp được, khiến quân phòng vệ Đại Đồng vô cùng bất ngờ. Mãi đến hơn nửa tháng sau khi đại quân Ngõa Thích rút về, triều đình mới điều binh đến, bổ sung tăng cường phòng vệ cho Đại Đồng.
Khắp triều đình râm ran bàn tán và suy đoán về việc rút binh bất ngờ của đại quân Ngõa Thích. Có người nói là Võ soái trước khi rời Đại Đồng đã để lại một đội kỳ binh, nhân lúc lãnh thổ Ngõa Thích vườn không nhà trống, đã đột nhập vào trong lòng địch khuấy đảo; cũng có người nói nước Ngõa Thích đột nhiên xuất hiện một đội thú binh vô cùng hung tàn, bạo ngược, chuyên đi đánh lén những người dân du mục, phụ nữ, trẻ nhỏ không có sức chống đỡ, tạo thành nỗi kinh hoàng với người dân Ngõa Thích; lại có người nói rằng Võ soái anh dũng hy sinh vì nước, đã dẫn theo đội quỷ binh là những tướng sĩ quân Trấn Tây trung dũng chiến tử, báo thù Ngõa Thích thật tàn khốc… Đủ loại suy đoán, loại nào nghe cũng hùng hồn, khiến người khác khó phân biệt thật giả, khiến chân tướng càng lúc càng xa vòi, thế nhưng có thể khẳng định một điều, đó là người Ngõa Thích đã bị một đòn đả kích cực lớn, đến nỗi phải quyết định từ bỏ Đại Đồng sắp bị đánh hạ, vội vã trở về cứu nước.
Đại quân Ngõa Thích vừa đi, Bắc Kinh lại khôi phục vẻ bình lặng như thường, các lộ binh mã chạy tới chi viện cũng lục tục trở về. Trận chiến này cũng dần mờ nhạt trong mắt mọi người, thậm chí còn không ai biết có một nhánh quân đơn độc Bắc phạt, chỉ có những kẻ quyền quý nắm tin tình báo tuyệt mật mới biết sự tồn tại của nó.
“Tân Quân Doanh có tin gì không?” Cận Vô Song vẫn như ngày thường, cách mấy ngày lại hỏi tin tình báo từ Ngõa Thích truyền về. Châu Toàn bước lên đáp: “Tân Quân Doanh bị đại quân Ngõa Thích bao vây tấn công ở bên sông Lạp Mộc Luân, chết và bị thương vô số, tuy miễn cưỡng phá được vòng vây, nhưng hiện giờ chúng ta đã mất tung tích của họ.”
Cận Vô Song ngây người nhìn bản đồ, hồi lâu không nói. Châu Toàn chần chừ nói: “Chủ nhân, chúng ta cứ từ bỏ Tân Quân Doanh như vậy sao?”
Cận Vô Song lạnh nhạt nói: “Không bỏ thì có thể làm gì? Tuy ta cũng hy vọng Tân Quân Doanh bình an trở về nước, nhưng hiện giờ Ma Môn đã giương cờ làm phản ở Trung Nguyên, quốc khố chúng ta trống rỗng, không thể tác chiến cả hai mặt được. Ta rất cảm kích nghĩa cử Tân Quân Doanh đơn độc Bắc phạt giải nguy cho Đại Đồng, nhưng suy nghĩ đắn đo mãi, chúng ta cũng không thể vì cái nhỏ mà bỏ mất cái lớn.”
Châu Toàn gật đầu, lại nói: “Nghe nói chỉ huy thực sự của Tân Quân Doanh là Thiên Môn công tử Tương, y hành động như vậy rốt cuộc có ý gì?”
Cận Vô Song lần đầu tiên lộ ra vẻ khó hiểu, lão khẽ lắc đầu than: “Nói thực, lần đầu tiên ta cảm thấy không thể nhìn thấu đối thủ. Việc làm của công tử Tương hoàn toàn không giống như người trong Thiên Môn ta, y dẫn quân Bắc phạt là hành động điên cuồng, trái với tôn chỉ Thiên Môn. Vân Tiếu Phong có thể dạy dỗ ra một đệ tử như vậy, đúng là khiến người ta bất ngờ.”
Lúc nói chuyện, bên ngoài vang lên chợt tiếng người náo loạn, tiếp đó chỉ thấy Minh Châu tiều tụy bế con xông vào, tuy nàng đã làm mẹ, nhưng vẫn không mất đi sự đanh đá, kiêu kỳ của thiên kim vương phủ. Hai thị vệ theo sát sau lưng nàng, muốn ngăn cũng không dám ngăn, trông luống cuống rất đáng thương.
Cận Vô Song xua tay cho hai thị vệ lui ra, hỏi bằng giọng không vui: “Chuyện gì vậy?”
“Phụ vương! Đi cứu Tân Quân Doanh, cứu phu quân con đi! Dù phụ vương không nể mặt con gái, thì cũng phải nể mặt A Kiều. Lẽ nào cha nhẫn tâm để cháu ngoại mình vừa sinh ra chưa bao lâu đã mất cha, trở thành cô nhi không có cha sao?” Minh Châu nước mắt lưng tròng, quỳ xuống đất lạy. Sau khi Ngõa Thích rút quân, nàng đã tức tốc từ Đại Đồng trở về Bắc Kinh, vật nài phụ vương xuất binh chi viện cho Tân Quân Doanh, nơi đó không chỉ có phu quân nàng, mà còn có người nàng luôn trân trọng cất giấu ở một góc bí ẩn nhất thần thánh nhất trong đáy lòng.
“Phụ vương sẽ tấu lên triều đình và thánh thượng, xin Binh bộ mau chóng phát binh đi cứu viện Tân Quân Doanh, con yên tâm.” Cận Vô Song ra hiệu cho Châu Toàn đỡ Minh Châu dậy. Minh Châu bán tín bán nghi hỏi: “Thật không?”
“Phụ vương có lúc nào lừa con chưa?” Cận Vô Song cười gượng: “Phụ vương bây giờ đang suy nghĩ làm thế nào để tấu lên thánh thượng đây, con lui xuống trước đi, có tin phụ vương sẽ lập tức thông báo cho con.”
Đợi thị nữ dìu mẹ con Minh Châu lui xuống, Châu Toàn bán tín bán nghi hỏi: “Chủ nhân, chúng ta sẽ chi viện cho Tân Quân Doanh thật sao?”
“Ngươi lại đi tin lời dỗ trẻ con à?” Cận Vô Song cười khẩy, chỉ vào bản đồ trên bàn lạnh nhạt nói: “Trọng điểm chiến lược hiện giờ của chúng ta là Ở Trung Nguyên, với Ngõa Thích ở phương Bắc vẫn giữ chủ trương hòa hảo, đành phải bỏ Tân Quân Doanh thôi.” Nói tới đây lão thoáng ngừng lại, rồi tiếp: “Ma Môn dám công khai hành động, chúng ta bắt buộc phải nhanh chóng tiêu diệt chúng. Hiện giờ ta nắm giữ đại quyền, nhất định phải để trên dưới triều đình xem ta trị nước dễ thế nào.”
Châu Toàn gật đầu nói: “Ma Môn trước giờ hành tung bí mật, lần này nhân lúc triều đình bận chống lại đại quân Ngõa Thích, binh mã các nơi lũ lượt kéo về phía Bắc chi viện nên ngang nhiên giương cờ làm phản ở phúc địa Trung Nguyên, chiếm lĩnh Hứa Xương và các huyện thành xung quanh. Nếu không nhanh chóng tiêu diệt, rất có thể sẽ trở thành tâm phúc đại họa.”
Cận Vô Song nhìn bản đồ trầm ngâm hồi lâu, sau đó chỉ vào trầm giọng nói: “Lệnh cho các đội binh mã vừa đến chi viện kinh thành chia làm bốn hướng tấn công Hứa Xương, nhất định phải vây khốn Khấu Diệm trước khi y trốn khỏi Hứa Xương. Trước khi người Ngõa Thích giải quyết xong Tân Quân Doanh, chúng ta phải diệt gọn lũ phản tặc này.”
“Tiểu nhân sẽ lập tức đi làm ngay.” Châu Toàn hiểu ý gật đầu, nhưng sau đó lại chần chừ, nói: “Chủ nhân, Ngõa Thích xâm phạm lần này, chúng ta vì muốn điều động binh mã vào kinh chi viện đã rút sạch quốc khố rồi. Tuy thánh thượng đã đồng ý trưng thu thêm một khoản thuế đặc biệt, nhưng chí ít cũng phải nửa năm sau mới có thể thu được. Hiện giờ triều đình còn nợ các lộ binh mã không ít lương tiền…”
“Biết rồi, ta đang nghĩ cách.” Cận Vô Song bực dọc xua tay. Châu Toàn thấy lão không vui, không dám nói thêm, vội chắp tay lui xuống đồng thời nhẹ nhàng đóng cửa lại, để Cận Vô Song một mình suy nghĩ trong phòng.
Ở phúc địa Trung Nguyên xa xôi nghìn dặm, Ma Môn phối hợp với đại quân Ngõa Thích xâm lăng, giương cao ngọn cờ làm phản, đồng thời nhân lúc các lộ binh mã về kinh cứu giá, phúc địa Trung Nguyên đang bỏ trống đã liên tiếp chiếm lĩnh bảy, tám thành trì nhưng giáo chúng Ma Môn chỉ có mấy vạn người, may mà khi xưa Vân Tương vạch mặt bí mật nghi thức Thiên Giáng Thần Hỏa của Ma Môn, cũng vạch trần những lời bịp bợm nói Ma Môn được trời ban quyền phép thần thánh, giúp vô số người dân u mê khỏi bị chúng lừa, khiến sự phát triển của Ma Môn ở Trung Nguyên gặp nhiều hạn chế.
Thế nhưng khi phúc địa Trung Nguyên trống không, chỉ mấy vạn giáo chúng Ma Môn cũng đủ để dấy lên con phong ba bão tố kinh người. Sau khi chiếm được trọng trấn Hứa Xương ở Trung Nguyên dễ như bỡn, chúng đã giương cao ngọn cờ “Diệt quan tham, chỉnh triều cương”.
Tri phủ và thủ bị Hứa Xương ngay từ lúc Ma Môn mới bắt đầu hành động đã hối hả chạy trốn, nay nha môn tri phủ Hứa Xương đã trở thành trung khu chỉ huy hành động của Ma Môn. Hôm nay, vừa qua chính Ngọ, chợt nghe tiếng trống kêu oan điếc tai ngoài cửa nha môn, một hán tử dữ tợn như sói hai tay cầm dùi đánh trống liên hồi. Phía sau, mấy giáo đồ của Ma Môn muốn ngăn chặn đều bị đánh ngã la liệt dưới đất, không biết sống chết. Ngoài ra còn có mười mấy giáo đồ khác đang bao vây y, nhưng không dám xông lên.
“Kẻ nào dám xấc xược ở đây?” Cửa nha môn kín bưng chợt mở ra, một hán tử trẻ tuổi áo trắng như tuyết, mặt mày anh tuấn rảo bước đi ra. Tà áo y bay phần phật, dáng dấp nhanh nhẹn, phong thái có mấy phần tiêu sái cùng tự phụ, vừa thấy y, mấy giáo đồ kia vội quỳ phục xuống đất, đồng thanh hô: “Thuộc hạ bái kiến Quang Minh sứ!”
“Chuyện gì vậy?” Hán tử trẻ tuổi cất tiếng hỏi, nhìn về hướng kẻ vừa đánh trống, lúc này hán tử đó đã ngừng tay quay đầu lại, ánh mắt hai người gặp nhau, đều cùng lúc ngạc nhiên kêu: “Là ngươi!”
Mấy năm trước cả hai từng giao thủ nên chẳng lạ gì nhau. Trên đường Thư Á Nam trốn từ Mạc Bắc về Giang Nam, họ đã giao đấu vì nàng, một người chính là Quang Minh sứ Minh Nguyệt của Ma Môn, kẻ kia là Ba Triết, hiện giờ đã trở thành sư đệ đồng môn với Thư Á Nam.
“Các hạ đến có việc gì?” Tuy Minh Nguyệt đã nhận ra Ba Triết, nhưng thần thái vẫn ung dung như thường. Ba Triết đặt dùi xuống, móc một bái thiếp ra đưa qua: “Tại hạ đến thay sư phụ gửi thư khiêu chiến tới Khấu môn chủ, ai ngờ bị giáo đồ của quý giáo ngăn cản, vì vậy đành phải đánh trống kêu oan.”
Minh Nguyệt ngờ vực nhận lấy thư khiêu chiến: “Tôn sư là…”
“Danh tính gia sư không tiện nói.” Ba Triết cười khà khà nói: “Nhưng ngươi cũng đã từng gặp gia sư, chính là ở lễ Thánh Hỏa của quý giáo, gia sư đã từng đấu với Quang Minh tứ sứ của Ma Môn, trong đó có ngươi.”
Minh Nguyệt kinh hãi biến sắc: “Là vị tiền bối Tôn Diệu Ngọc của Thiên Tâm Cư? Ngươi là đệ tử của bà ấy?”
Ba Triết gật đầu: “Hai mươi năm trước gia sư đã từng muốn thử sức với Khấu môn chủ, đáng tiếc không được như ý nguyện. Hiện giờ Khấu môn chủ tái xuất giang hồ, gia sư muốn hoàn thành tâm nguyện hai mươi năm trước. Địa điểm chính là trên đỉnh Tung Sơn, nhờ các cao tăng Thiếu Lâm làm chứng, thời gian sẽ để Khấu môn chủ quyết định, thế nào?”
Minh Nguyệt ung dung đáp: “Ta sẽ chuyển lời tới môn chủ rồi mau chóng trả lời ngươi.”
Ba Triết chắp tay: “Ta sẽ ở trà lầu đối diện chờ đợi tin tức của ngươi, cáo từ!” Dứt lời, y xoay người bỏ đi.
Trong lúc Ba Triết và Minh Nguyệt nói chuyện, trên trà lầu đối diện nha môn, có hai nữ tử áo trắng phiêu nhiên thoát tục đang quan sát từ xa, cạnh nữ tử trẻ tuổi hơn có một cô bé môi đỏ má hồng đang nghịch bún tóc, đôi mắt to đen lay láy chốc chốc lại ngó nghiêng người đi đường, vẻ phấn khích, dường như vô cùng tò mò với tất cả mọi thứ xung quanh.
Vì nha phủ Hứa Xương đã bị Ma Môn chiếm đóng, binh tướng canh giữ thành vốn không nhiều cũng bỏ thành chạy trốn, Ma Môn đã có đủ cơ sở ở đây, vì vậy cơ hồ không cần động binh đao vẫn có thể khống chế cả thành. Hiện giờ tuy trên phố vắng tanh, trong quán trà càng chẳng có mấy khách, nhưng cũng không nhìn ra dấu hiệu chiến loạn.
“Sư phụ, Khấu Diệm liệu có ứng chiến không?” Nữ tử trẻ áo trắng đột nhiên hỏi. Trên má phải nàng có một đóa thủy tiên nở rộ làm tăng thêm mấy phần thần bí và mỹ lệ cho gương mặt thanh tú. Ngũ quan của nàng và cô bé bên cạnh nhang nhác giống nhau, hiển nhiên họ là hai mẹ con.
Nữ tử áo trắng già hơn điềm đạm đáp: “Nghe Sở Thanh Hà nói Khấu Diệm bị đâm nát huyệt Khí Hải, võ công đã bị phế. Nếu chuyện này là thực, y nhất định sẽ không thẳng thừng từ chối lời khiêu chiến của ta, cũng sẽ không lập tức đồng ý. Khả năng duy nhất y có thể làm là kéo dài, quyết định thời gian quyết đấu vào nửa năm hay một năm sau, đợi Ma Môn đứng vững ở Trung Nguyên mới nghĩ cách ứng phó.”
Không cần phải nói, hai nữ tử áo trắng này chính là Tôn Diệu Ngọc và đệ tử Thư Thanh Hồng. Hiện giờ Ma Môn đã giương cờ làm phản ở Trung Nguyên, khiến người ta vô cùng bất ngờ. Mấy người Tôn Diệu Ngọc vốn tưởng rằng sau khi Khấu Diệm bị phế võ công, sẽ không còn sức thống trị Ma Môn, Ma Môn nhất định sẽ tan vỡ. Không ngờ Ma Môn không hề xuất hiện nội loạn, trái lại còn nhân lúc Ngõa Thích xâm lược, binh mã các nơi dồn dập về kinh cứu giá, Trung Nguyên bỏ trống, đã liên tiếp chiếm các thành Hứa Xương, Hoài Dương… Điều này khiến người của Thiên Tâm Cư nghi ngờ chuyện Khấu Diệm bị phế võ công, vì vậy Tôn Diệu Ngọc mới cố tình hạ chiến thư với Khấu Diệm để thăm dò phản ứng của lão.
Trong lúc nói chuyện, Ba Triết vừa đi gửi chiến thư khi nãy đã trở về, chắp tay nói với Tôn Diệu Ngọc: “Sư phụ, đệ tử đã gửi xong chiến thư, hiện giờ chỉ còn chờ phản ứng của Ma Môn thôi.”
Tôn Diệu Ngọc gật đầu: “Tốt lắm! Ngươi ở đây chờ tin, ta và Thanh Hồng đưa Hương Hương đi dạo xung quanh. Hương Hương hiếm khi được vào thành chơi, cũng phải để nó mở mang tầm mắt.”
“Hay quá!” Cô bé hoan hô một tiếng, phấn khích kéo Tôn Diệu Ngọc và Thư Thanh Hồng đi, miệng nói liến thoắng: “Con muốn ăn kẹo hồ lô, mua quần áo mới, còn phải đi xem hội chùa nữa!” Trong mắt cô bé, chiến tranh vẫn là một khái niệm lạ lẫm, còn chẳng chân thực bằng kẹo hồ lô và quần áo mới.
Ngoài cửa nha môn đối diện trà lầu, Minh Nguyệt cất thư khiêu chiến đi, dặn dò mấy giáo đồ canh cửa vài câu rồi quay người vào trong phủ. Nha dịch trong phủ đã bị thay bằng hai giáo đồ bận hắc y, vẻ mặt trơ trơ, chẳng nói chẳng rằng, khiến nha môn vốn đã tối tăm nặng nề càng trở nên u ám.
Minh Nguyệt vòng qua bức chiếu bích ở đại đường, bước vào cửa trong, thấy một nữ tử siêu phàm thoát tục, thanh tú như tiên bước tới, nhỏ giọng hỏi: “A Nguyệt, vừa rồi ai vừa đánh trống?”
Minh Nguyệt nhìn thấy nàng, ánh mắt lập tức trở nên dịu dàng, vội đưa bái thiếp trong tay tới: “Bẩm sư tỷ, chính là cao thủ Thiên Tâm Cư Tôn Diệu Ngọc lần trước đã giao thủ với chúng ta, đả thương sư tỷ và Lực Hoành, bà ấy muốn khiêu chiến với môn chủ.”
Thì ra nữ tử này chính là Tịnh Phong sứ đứng đầu trong Quang Minh tứ sứ của Ma Môn, nàng cầm lấy bái thiếp xem qua, ánh mắt thoáng lộ vẻ lo lắng: “Hiện giờ cả Ma Môn không ai là đối thủ của bà ấy, chuyện này phải làm thế nào mới được?”
Minh Nguyệt cười: “Sư tỷ yên tâm, tiểu đệ đã có diệu kế!”
“Đệ có diệu kế gì?” Tịnh Phong thoáng ngạc nhiên hỏi. Minh Nguyệt bước tới gần, cười âm hiểm đáp: “Hiện giờ trong bản môn chỉ có bảy tên kia dám khinh thường quyền uy của chúng ta. Chúng ta sẽ để chúng đi đấu một trận sống mái với Tôn Diệu Ngọc, nếu chúng có thể diệt được Tôn Diệu Ngọc thì tốt, còn nếu bị Tôn Diệu Ngọc giết, với chúng ta cũng là một tin vui.”
Tịnh Phong nhìn dáng điệu âm trầm của Minh Nguyệt, ủ dột nói: “A Nguyệt, lẽ nào chúng ta nhất định phải đưa ra hạ sách này?”
Minh Nguyệt gật đầu, khẽ khàng đáp: “Sư tỷ, chúng ta đã đi tới bước này, chỉ có thể đi tiếp thôi. Nếu không dù chúng ta trốn tới chân trời góc biển, trên dưới Ma Môn cũng quyết không tha cho chúng ta. Sự tàn khốc trong giáo quy của Ma Môn, sư tỷ cũng không phải không biết.”
Tịnh Phong rùng mình, cúi đầu không nói thêm lời nào. Hai người băng qua hành lang tối tăm khúc khuỷu, cuối cùng đến trước một tịnh thất ở hậu viện, Minh Nguyệt bước tới gõ nhẹ lên cửa, cánh cửa tức thì hé ra, Lực Hoành trông chừng bên trong thấy hai người mới thận trọng mở cửa.
Hai người đi qua tiền sảnh vào trong, chỉ thấy trong phòng tuy thanh tịnh trang nhã, nhưng lại có một vẻ âm u nặng nề không nói nên lời. Hai a hoàn đang hầu Khấu Diệm nằm trên giường ăn cháo, còn Tuệ Tâm kiều diễm mê người lại đang thõng tay đứng nhìn. Thấy Minh Nguyệt bước vào, ánh mắt nàng lộ vẻ khác thường.
“Đệ tử Minh Nguyệt bái kiến môn chủ.” Minh Nguyệt chắp tay vái Khấu Diệm đang nằm trên giường bệnh, tuy vẻ mặt tỏ ra cung kính, nhưng ánh mắt lại hoàn toàn không có chút kính sợ.
Thì ra sau khi Khấu Diệm bị Vân Tương đâm nát huyệt Khí Hải, võ công bị phế, nhưng chưa dứt dã tâm, còn muốn dựa vào bốn đệ tử mình tín nhiệm nhất để khống chế Ma Môn, nhân cơ hội Ngõa Thích xâm lược khởi sự ở Trung Nguyên. Ai ngờ vừa chiếm được Hứa Xương thì bị bốn đệ tử liên thủ làm phản, bí mật nhốt lão lại. Hiện giờ thấy Minh Nguyệt huênh hoang như vậy, lão giơ tay đẩy a hoàn đang hầu hạ ra, nhìn chằm chằm vào mấy đệ tử than: “Các ngươi vốn là cô nhi, được Khấu Diệm ta nuôi nấng từ nhỏ, dạy dỗ nên người, đồng thời truyền thụ võ công cao thâm cho, không ngờ hôm nay các ngươi lại đối xử với ta như vậy, lẽ nào không sợ môn quy của Ma Môn và báo ứng sao?”
Minh Nguyệt xua tay lệnh cho a hoàn lui xuống, sau đó cười nói với Khấu Diệm: “Không ngờ sư phụ lại nói đến báo ứng với chúng ta! Không sai, chúng ta đều là cô nhi, do một tay ông nuôi nấng và đích thân truyền thụ võ nghệ. Nhưng ta còn nhớ lúc nhỏ những cô nhi tập võ cùng chúng ta có gần trăm người, ngoài bốn kẻ sống sót chúng ta, ta rất muốn biết những người khác đã đi đâu?”
Trên gương mặt của Tịnh Phong và Tuệ Tâm thoáng vẻ phẫn nộ và bi thương kỳ lạ, tiếng nói bình thản đến lạnh lùng của Minh Nguyệt vang vọng trong phòng: “Tuy ông cố tình che giấu, nhưng chúng ta đều biết, những người đó đã bị đào thải vì khuyết điểm này nọ, đã bị ông xử lý như những phế vật rồi. Từ nhỏ đến lớn, ngày nào chúng ta cũng phải sống trong sợ hãi, vì không muốn bị đào thải, chúng ta ra sức luyện võ, nỗ lực học những thứ mà ông dạy cho chúng ta. Không sai, là ông đã đích thân truyền thụ võ công cao thâm nhất cho chúng ta, nhưng thủ đoạn huấn luyện ấy tại sao ông không dùng cho con trai mình? Để y trở thành tuyệt đỉnh cao thủ giống chúng ta?”
Khấu Diệm nhìn ánh mắt lạnh băng của Minh Nguyệt, khàn giọng hỏi: “Các ngươi… các ngươi đã làm gì Nguyên Kiệt rồi?”
Minh Nguyệt cười gằn đáp: “Điểm này ông không cần lo, tuy từ nhỏ chúng ta đã hận thấu xương gã thiếu chủ xem chúng ta như chó ấy, nhưng chỉ cần ông vẫn còn sống, chúng ta sẽ vĩnh viễn không dám động vào sợi lông chân của y. Lần này y rơi xuống vách núi mất tích hoàn toàn là do tự chuốc lấy, vậy mà ông lại đổ tội lên đầu chúng ta, vừa đánh vừa chửi chúng ta, còn nói không tìm được thiếu chủ thì lấy mạng bốn chúng ta chôn chung! Đáng tiếc ông trời có mắt, để lão Ma quân nhà ông bị người ta phế võ công, chúng ta mới kết thúc được số phận làm nô dịch cho ông. Tiếc rằng tuy võ công đã mất, ông vẫn còn muốn mượn tay chúng ta khống chế Ma Môn, đúng là không biết lượng sức.”
“Không sai! Ta không thể nào ngờ, bốn con chó mà ta tự tay nuôi lớn lại dám liên thủ lại phản bội lão phu!” Ánh mắt oán độc của Khấu Diệm chậm rãi lướt qua Tịnh Phong, Tuệ Tâm và Minh Nguyệt, “Nhưng ta không hiểu, từ nhỏ các ngươi đã phải chém giết đấu đá lẫn nhau như lang sói để không bị đào thải, luôn lạnh lùng vô tình với đồng bạn, tại sao hôm nay lại liên thủ đối phó lão phu?”
Minh Nguyệt thản nhiên cười: “Vì chúng ta là người không phải chó. Tuy ông nuôi chúng ta như chó, nhưng chúng ta vẫn là người, biết ai mới là kẻ thù lớn nhất của mình. Hơn nữa, từ nhỏ chúng ta lớn lên cùng nhau, cùng chịu sự huấn luyện tàn khốc của ông, chịu đủ mọi giày vò đau đớn mới may mắn được sống tiếp, sự tín nhiệm và tình cảm giữa chúng ta ông mãi mãi không thể tưởng tượng được đâu, có lẽ lúc ông huấn luyện chúng ta, cũng không ngờ hôm nay chúng ta lại phản bội, nếu muốn nói tới báo ứng, đây mới chính là báo ứng lớn nhất!”
Khấu Diệm trong lòng sợ hãi song vẫn cố quát: “Lẽ nào các ngươi không sợ môn quy của bản môn? Phải biết các trưởng lão và giáo chúng nếu không nhìn thấy ta, chắc chắn sẽ đoán được sự tình, đến lúc đó các ngươi sẽ phải chịu hình phạt tàn khốc nhất!”
Minh Nguyệt đắc ý cười giơ bái thiếp trong tay lên: “Ông yên tâm, ta đã có cách ứng phó. Đây là thư khiêu chiến của cao thủ Thiên Tâm Cư Tôn Diệu Ngọc, nhưng trông bộ dạng hiện giờ của ông thì không thể ứng chiến rồi. Để không làm hỏng uy danh cả đời ông, ta sẽ để ông sai bảy đại trưởng lão phục kích Tôn Diệu Ngọc. Ta đã sai người theo dõi Tôn Diệu Ngọc, hiện giờ chỉ cần một lệnh dụ của ông, sẽ có thể điều động bảy vị trưởng lão kia xuất thủ lập tức. Ta nghĩ dù họ có đắc thủ, cũng nhất định kẻ chết người bị thương, không thể uy hiếp được chúng ta nữa!”
“Ngươi đừng hòng!” Khấu Diệm giận dữ nói: “Lão phu quyết không để mặc cho ngươi sắp đặt!”
Minh Nguyệt chậm rãi lấy một bình sứ từ trong lòng ra lắc nhẹ, đủng đỉnh cười nói: “Đây là Thất Hồn đơn sư phụ dày công chế luyện, mùi vị của nó thế nào sư phụ cũng từng nếm qua, nếu ông không chịu hợp tác, ta đành phải mang số Thất Hồn Đơn này ném cho chó ăn.”
Khấu Diệm hốt hoảng, mặt xám như tro. Thì ra sau khi bị Minh Nguyệt khống chế, lão cũng bị y lục lấy mất bình Thất Hồn đơn cuối cùng, còn bị ép uống mấy ngày. Hiện giờ, lão đã ỷ lại quá nhiều vào Thất Hồn đơn, giống như phương trượng Thiếu Lâm Viên Thông khi xưa vậy.
Minh Nguyệt đổ một viên đơn hoàn ra khỏi bình, dùng nhiệt lực trong lòng bàn tay thúc mùi hương của dược hoàn bay đến mũi Khấu Diệm. Bị mùi thuốc kích thích, Khấu Diệm lập tức cảm thấy xương tủy vừa đau vừa ngứa, như nghìn vạn con sâu cái kiến đang cắn xé thần kinh của mình. Lão gắng gượng chịu đựng một hồi, sau cùng không thể thoát nổi nỗi khát khao với Thất Hồn đơn, đành u uất nói: “Mang giấy bút tới đây!”
Tuệ Tâm lập tức trải giấy bút tới trước mặt lão, bị dược tính của Thất Hồn đơn giày vò khoan tim xé thịt, Khấu Diệm đành phải viết vội lệnh dụ theo lời của Minh Nguyệt, sau đó cướp lấy Thất Hồn đơn trong tay y, uống chửng ngay vào bụng.
Minh Nguyệt cầm lệnh dụ lên xem, mỉm cười hài lòng: “Chỉ cần sư phụ chịu hợp tác, đệ tử sẽ đáp ứng mọi thứ sư phụ cần. Sư phụ vẫn có thể tiếp tục làm môn chủ Ma Môn, đệ tử nguyện san sẻ trọng trách cùng sư phụ.” Minh Nguyệt nói rồi cất lệnh dụ đi, đủng đỉnh cười nói: “Đệ tử sẽ đi truyền lệnh dụ tới tay bảy vị trưởng lão, chỉ cần Tôn Diệu Ngọc ở gần đây thì chắc chắn không thoát khỏi sự truy sát của bảy trưởng lão, xin sư phụ thong thả đợi tin.”
Con phố dưới ánh hoàng hôn vắng tanh vắng ngắt, tuy thành Hứa Xương đã khôi phục lại trật tự ngày thường, nhưng các cửa tiệm hai bên đường gặp lúc binh đao loạn lạc, phần nhiều đã đóng cửa nghỉ bán, chỉ có những gánh hàng rong buộc phải đầu tắt mặt tối kiếm sống mới mạo hiểm buôn bán. Còn may Bái Hỏa Giáo không phải thổ phỉ, chỉ cần những gánh hàng rong và thương gia nhập giáo thì có thể tiếp tục buôn bán, Bái Hỏa Giáo sẽ bảo vệ lợi ích của họ không bị ảnh hưởng. Đối với người làm ăn mà nói, chỉ cần có thể kiếm tiền thì tin vào cái gì cũng được. Bởi vậy họ nhao nhác treo thánh hỏa kỳ lên cửa tiệm và sạp hàng của mình, để chứng tỏ bản thân là giáo đồ của Bái Hỏa Giáo, như vậy sẽ không bị Bái Hỏa Giáo quấy nhiễu.
Nhóm người Tôn Diệu Ngọc đi dạo trong thành nửa ngày trời, ăn tối tại một sạp hàng ven đường như vậy. Bữa tối rất đơn giản, chỉ có mấy món thường thấy như màn thầu, thịt bò, đậu khô, nhưng Tôn Diệu Ngọc vô cùng hài lòng, dù gì giờ cũng đang là thời kỳ nhạy cảm, vậy mà còn có thể kiếm được đồ ăn ngoài phố lúc trời tối, điều này đã vượt quá tưởng tượng của bà.
Hương Hương hào hứng suốt một ngày cũng đã thấm mệt, gục đầu vào lòng mẹ ngủ gà gật, Ba Triết nhỏ nhẻ nhai nuốt chiếc màn thầu cuối cùng, mặt thoáng vẻ say sưa. Theo Tôn Diệu Ngọc đã lâu, y dần học được cách cảm nhận những điều tốt đẹp trong cuộc sống từ những món ăn dân dã nhất. Lúc này Tôn Diệu Ngọc đột nhiên hỏi: “Khấu Diệm nói ba ngày sau sẽ chấp nhận lời khiêu chiến của ta trên đỉnh Tung Sơn?”
Ba Triết gật đầu: “Tên Minh Nguyệt âm dương quái khí kia nói với đệ tử như vậy.”
Tôn Diệu Ngọc nhíu mày, nghĩ mãi không hiểu. Nữ đệ tử bên cạnh nhỏ giọng nhắc: “Sư phụ, nếu Khấu Diệm đã mất võ công mà lại đồng ý ba ngày sau ứng chiến, e rằng không hay đâu. Liệu y có dùng thủ đoạn bỉ ổi nào với sư phụ trước lúc quyết đấu không?”
Tôn Diệu Ngọc cau mày đáp: “Khấu Diệm tuy là đại ma đầu, nhưng có thể vì một lời hứa mà mười tám năm không đặt chân vào Trung Nguyên, một nhân vật như vậy sao có thể lấy lòng tiểu nhân để so đo? Ta và y tuy là tử địch, nhưng chưa từng hoài nghi khí độ của y.”
Thư Thanh Hồng bèn nói: “Tuy Khấu Diệm cực kỳ tự phụ, nhưng nếu võ công của y đã mất, liệu tính tình có thay đổi không cũng chẳng ai dám chắc. Thành Hứa Xương này hiện giờ là căn cứ địa của y, nếu y muốn gây bất lợi cho sư phụ, e rằng dễ như trở bàn tay. Chúng ta ăn tối xong nên mau chóng ra khỏi thành thôi, rời khỏi mảnh đất thị phi này đã rồi tính.”
Tôn Diệu Ngọc gật đầu, nhưng sau đó lại lắc đầu than: “Ta đã nhìn lầm Khấu Diệm, hiện giờ chúng ta muốn đi e rằng cũng hơi muộn rồi.”
Đầu đường cuối ngõ mông lung u ám dần hiện ra mấy bóng đen, thấp thoáng bao vây sạp hàng lại. Tuy chỉ có vẻn vẹn mấy người, nhưng phương vị chiếm cứ vô cùng xảo diệu, tạo cảm giác bị vây chặt đến giọt nước cũng không lọt.
Tôn Diệu Ngọc đưa mắt nhìn mấy người nọ, lạnh nhạt hỏi: “Nếu ta đoán không sai, mấy vị chắc là thất đại trưởng lão Ma Môn?”
Một lão gia râu tóc bạc phơ đứng đầu thản nhiên nói: “Không sai, lão phu Hạng Phi Vân bái kiến Tôn cư sĩ.”
Tôn Diệu Ngọc gật đầu, chậm rãi nhìn mặt từng người, cười nhạt nói: “Tuy trước giờ chưa từng gặp mặt, nhưng đại danh các vị trưởng lão tại hạ đã được nghe từ lâu. Vị tú tài già mặt dài mắt hí đứng bên trái Hạng trưởng lão chắc hẳn là Thi trưởng lão Thi Bách Xuyên nổi danh quỷ kế đa đoan phải không? Lão phu nhân vẻ mặt lạnh như băng bên phải Hạng trưởng lão chắc chắn là Viên Thôi Hoa thủ đoạn độc ác?” Dứt lời, bà lại quay sang ba người ở đầu bên kia: “Vị lão nhân khí độ bất phàm ở giữa có lẽ chính là Ngụy trưởng lão Ngụy Đông Hải với đôi thiết chưởng danh chấn thiên hạ? Vị đầu bếp béo bên trái chắc là Đồ trưởng lão Đồ Thập Phương lừng danh Sát Nhân Danh Trù, tiểu lão đầu gầy gò âm hiểm bên phải tất nhiên là Lãnh trưởng lão Lãnh Vô Tình giang hồ xưng tụng Sát Nhân Bất Thuyết Thoại, Thuyết Thoại Bất Sát Nhân* đúng chứ?”
Tôn Diệu Ngọc nói tới đây thì ngừng lại, ánh mắt từ từ hướng lên mái nhà, lẩm bẩm: “Hai đầu đường chỉ có sáu vị trưởng lão, vậy vị cuối cùng Phong trưởng lão khinh công trác tuyệt thiên hạ có lẽ đang trốn trên nóc nhà rồi.”
Trên mái vang lên tiếng cười lanh lảnh, một thiếu phụ trung niên mỹ lệ thân hình gợi cảm, đầy nét phong tình xuất hiện, vái chào Tôn Diệu Ngọc từ xa: “Tôn cư sĩ mắt sáng như sao, chút đạo hạnh của tiểu muội sao có thể múa rìu qua mắt thợ? Phong Diểu Diểu bái kiến Tôn cư sĩ.”
Tôn Diệu Ngọc khẽ gật đầu, điềm nhiên cười nói: “Đa tạ chư vị đã xem trọng Diệu Ngọc, thất đại trưởng lão lại liên thủ hành động. Không ngờ Khấu Diệm vừa mất võ công, đến hào tình tráng chí năm xưa cũng chẳng còn, lại phái mấy người các ngươi ra tay để duy trì danh tiếng thiên hạ vô địch thủ của mình, đúng là khiến người khác phải than tiếc.”
Đám người Hạng Phi Vân thoáng lộ vẻ nghi hoặc, Thi Bách Xuyên bèn quát nói: “Tôn cư sĩ, môn chủ chúng ta khát khao có được hiền tài, lại có mối duyên sâu đậm với Thiên Tâm Cư. Năm xưa vì tức giận nhất thời, lỡ làm bị thương sư muội bà, môn chủ ta đã hối hận cả đời. Để bi kịch không bị lặp lại, cũng là nể mặt sư muội bà, môn chủ đã cố tình bỏ trống chức phó môn chủ. Chỉ cần bà đồng ý gia nhập bản giáo sẽ có thể trở thành phó môn chủ dưới một người mà trên vạn người.”
Nghe Thi Bách Xuyên nhắc tới Tố Diệu Tiên, cơn phẫn nộ trong lòng của Tôn Diệu Ngọc dâng trào. Bà nén giận hừ lạnh một tiếng: “Nếu ta không đồng ý thì sao?”
Thi Bách Xuyên xòe tay tỏ ý tiếc nuối: “Vậy chúng ta đành phải bắt sống bà về giao lại cho môn chủ.”
Tôn Diệu Ngọc bật cười: “Khấu Diệm đúng là càng già càng không ra gì, không dám ứng chiến thì thôi, còn giở trò hèn hạ như vậy. Ta lại muốn xem xem, các ngươi bắt ta về thế nào.”
Đám người Hạng Phi Vân từ từ áp sát tới, bầu không khí lập tức trở nên nặng nề. Tôn Diệu Ngọc thầm biết không hay, bèn ra lệnh cho Ba Triết và Thư Thanh Hồng: “Hai ngươi bảo vệ Hương Hương đi trước, đợi sư phụ đuổi mấy tên sâu mọt này xong sẽ đến Tung Sơn hội hợp.”
Tuy Ba Triết lớn lên ở quan ngoại, nhưng cũng biết thất đại trưởng lão Ma Môn ai nấy đều mang tuyệt học, vang danh giang hồ hơn hai mươi năm, không phải là hạng tầm thường. Thấy Tôn Diệu Ngọc muốn ở lại một mình, y bất giác lo lắng nói: “Sư phụ, đệ tử không đi!”
Tôn Diệu Ngọc hừ lạnh một tiếng: “Ngươi không đi, lẽ nào muốn Hương Hương rơi vào tay kẻ địch sao?”
Ba Triết lập tức lặng thinh. Thư Thanh Hồng tuy đã theo Tôn Diệu Ngọc nhiều năm, nhưng võ công không có nhiều tiến bộ, đối mặt với trưởng lão Ma Môn, bảo vệ mình đã khó huống hồ phải bảo vệ con gái. Nếu họ có nguy hiểm, chắc chắn sẽ khiến Tôn Diệu Ngọc phân tâm. Nghĩ tới đây, Ba Triết đành gật đầu nói: “Sư phụ yên tâm, đệ tử sẽ đưa sư tỷ và Hương Hương tới Tung Sơn đợi người.” Đoạn nói, y nhấc Hương Hương đặt lên lung, rồi gật đầu bảo Thư Thanh Hồng: “Sư tỷ, chúng ta đi thôi!”
“Muốn đi? Không dễ thế đâu!” Hạng Phi Vân lạng người tới cản đường Ba Triết. Tôn Diệu Ngọc thấy vậy bất giác quát: “Hạng trưởng lão, người các ngươi muốn đối phó là ta, xin đừng gây khó cho đệ tử ta!”
Hạng Phi Vân cười lạnh nói: “Tôn cư sĩ là tuyệt đỉnh cao thủ tề danh cùng Thiên Tâm Cư Tố Diệu Tiên, chúng ta quả thực không dám chắc có thể giữ bà lại, vì vậy đành phải giữ đệ tử của bà trước. Nếu Tôn cư sĩ quan tâm đến tính mạng của đệ tử mình thì tốt nhất nên bó tay chịu trói đi.”
Tôn Diệu Ngọc thở dài: “Quả thực ta đã đánh giá thấp sự vô sỉ của quý giáo và Khấu Diệm rồi.”
Lúc nói, đám người Thi Bách Xuyên đã bao vây Tôn Diệu Ngọc vào giữa, còn Hạng Phi Vân cũng đã cản được Ba Triết, trên mái nhà còn có Phong Diểu Diểu đang trợ trận, ép dần bốn người phía Tôn Diệu Ngọc vào giữa con phố dài.
Ba Triết biết rõ nếu không sớm thoát khỏi nguy khốn, Tôn Diệu Ngọc sẽ không thể rảnh tay chân để đột phá vòng vây. Y không nói một lời, rút đao lao về phía Hạng Phi Vân đang cản đường. Người chưa tới đao đã tới, Hạng Phi Vân vội rút kiếm đỡ đao. Đao kiếm va chạm bắn tóe ra tia lửa trên con đường u ám. Hai người bất giác lui về sau nửa bước, hằn học gườm nhau. Chỉ một chiêu, cả hai đã nhận ra, đó là kình địch cả đời khó gặp của mình.