Tội Ác- CHương 09
Chương Chín
Gió thổi qua cánh đồng trống, hất tung áo khoác của Maura và chiếc khăn len khi cô đi qua cổng sau và đi về phía đám cảnh sát mặc đồ đen đang chờ cô ở mép đầm. Một lớp băng đã hình thành trên đám tuyết rơi xuống và nó vỡ dưới chân cô như những mảnh đường. Cô có cảm giác mọi người đang nhìn mình khi cô đi qua cánh đồng, các bà sơ đang đứng xem ở cánh cổng sau lưng cô, các viên cảnh sát đang chờ cô đến. Cô là một cái bóng duy nhất đi qua một không gian màu trắng. Trong sự tĩnh mịch của buổi chiều hôm đó, mọi âm thanh dường như được phóng đại, từ tiếng vỡ vụn dưới chân cô đến tiếng thở gấp của chính cô.
Rizzoli tách khỏi đám người, đi về phía trước chào cô.
- Cám ơn cô đã đến đây nhanh như vậy.
- Vậy là Noni đã nói đúng về cái đầm vịt.
- Đúng vậy. Camille đã dành nhiều thời gian ở đây nên không có gì ngạc nhiên khi cô ấy nghĩ đến việc sử dụng đầm nước. Băng ở đây khá mỏng. Có lẽ nó mới hình thành cách đây hai hay ba hôm - Rizzoli nhìn mặt nước - Chúng tôi đã phá băng lần thứ ba.
Đó là một cái đầm nhỏ, phẳng lặng, màu đen và có hình bán nguyệt. Vào mùa hè nó sẽ phản chiếu những đám mây, bầu trời trong xanh và những đàn chim đang bay. Ở bên kia cái đầm, cây lau mọc um tùm như những chỏm măng đá bằng băng. Xung quanh đó, tuyết hoàn toàn đã bị giữ lại và màu trắng của tuyết lẫn với màu bùn.
Ở mép đầm, một vật nhỏ nằm đó, được bọc trong một gói vải có thể mở ra được. Maura cúi xuống cạnh nó. Thám tử Frost với khuôn mặt xạm lại kéo tấm vải lên, để lộ ra một bọc quấn tã bị dính đầy bùn.
- Có vẻ như nó bị chìm xuống vì bị buộc đá - Frost nói - Đó là lý do tại sao nó nằm dưới đáy. Chúng tôi vẫn chưa mở nó ra. Chúng tôi đợi cô.
Maura tháo găng tay len và đeo găng tay cao su vào. Chúng không bảo vệ cô khỏi cái lạnh. Những ngón tay cô nhanh chóng tê cứng khi kéo ngược tấm vải muxơlin lên. Hai viên đá đầu tiên rơi ra. Tấm vải bọc tiếp theo cũng ướt không kém nhưng không dính bùn. Đó là một chiếc chăn len bằng bông màu xanh, màu người ta thường dùng để quấn cho trẻ sơ sinh, cô nghĩ. Một chiếc chăn để giữ đứa bé ấm áp và an toàn.
Giờ các ngón tay cô đã tê cứng và run rẩy. Cô kéo một góc của chiếc chăn, chỉ đủ để nhìn thấy một bàn chân. Nó nhỏ xíu, gần giống chân búp bê, da tái xám và có màu xanh của bi ve.
Đó là tất cả những gì cô cần thấy.
Cô kéo miếng vải lại, đứng lên nhìn RizzoIi.
- Hãy chuyển nó đến nhà xác ngay lập tức. Chúng ta đã thực hiện xong việc mở nó ở đây.
Rizzoli chỉ gật đầu và im lặng nhìn cái bọc nhỏ. Những lớp tã lót ướt át quấn quanh đứa trẻ đã bắt đầu khô trong gió lạnh.
Frost lên tiếng.
- Sao cô ấy có thể làm vậy ? Sao có thể ném một đứa bé xuống đầm như thế ?
Maura tháo găng tay cao su ra và thọc ngay những ngón tay tê cứng vào găng tay. Cô nghĩ về chiếc chăn màu xanh được quấn quanh đứa bé. Đó là chất len ấm áp như đôi găng tay của cô. Camille đã có thể bọc đứa bé bằng bất cứ thứ gì - báo những tấm vải cũ, thảm - nhưng cô đã chọn cảch bọc đứa bé bằng chăn như thể để bảo vệ nó, để ngăn cách nó khỏi nước trong hồ.
- Ý tôi là cô ấy đã dìm chết đứa bé - Frost nhấn mạnh - Cô ấy chắc mất trí rồi.
- Đứa bé có thể đã chết trước đó.
- Rồi, vậy cô ấy giết nó trước. Cô ấy thật điên rồ.
- Chúng ta chưa thể kết luận gì cho đến khi mổ tử thi - Maura nhìn về phía tu viện. Ba bà sơ đang đứng như những bóng ma mặc áo đen dưới mái vòm và nhìn họ. Cô nói với Rizzoli - Cô đã cho sơ Mary Clement biết chưa ?
Rizzoli không trả lời. Ánh mắt cô vẫn dán chặt vào chiếc đầm. Chỉ cần một đôi tay để ném một cái gói vào một chiếc túi bằng cỡ cơ thể, để buộc nó lại bằng một chiếc khóa. Cô nhăn mặt nhìn cái đầm.
Maura hỏi.
- Các bà sơ biết không ?
Cuối cùng Rizzoli nhìn cô.
- Họ đã được thông báo về thứ chúng ta tìm thấy.
- Họ phải biết cha đứa bé là ai.
- Thậm chí họ không biết cô ấy có thai.
- Nhưng bằng chứng ở ngay đó.
Rizzoli khịt mũi.
- Niềm tin còn mạnh hơn cả bằng chứng.
Niềm tin vào cái gì ? Maura tự hỏi. Sự trong trắng của một cô gái ư ? Có ngôi nhà bằng những lá bài nào dễ sụp đổ hơn niềm tin vào sự thanh khiết của con người ?
Họ im lặng khi cái xác được đưa đi. Không cần cáng để đi qua tuyết; một nhân viên đã ôm đứa bé trên tay, nhẹ nhàng như thể anh ta đang bế chính con mình. Giờ anh ta đi không mục đích trên cánh đồng rộng, về phía tu viện.
Điện thoại của Maura đổ chuông, phá vỡ sự im lặng đó. Cô khẽ trả lời.
- Bác sĩ Isles nghe đây.
- Anh xin lỗi, anh phải đi mà không tạm biệt em sáng nay.
Cô thấy mặt mình đỏ lên, tim đập nhanh gấp đôi.
- Victor à.
- Anh phải đến cuộc họp tại Cambirdge. Anh không muốn đánh thức em. Anh mong là em không nghĩ anh chạy trốn em.
- Thật sự thì em đã nghĩ vậy.
- Chúng ta gặp sau nhé, vào bữa tối được không ?
Cô ngừng lại và bỗng nhận ra là Rizzoli đang nhìn cô. Cô cũng tự thấy phản ứng khác lạ của mình khi nghe thấy giọng Victor. Mạch cô đập quá nhanh, có một sự mong đợi hạnh phúc. Anh ấy đã tìm được cách trở lại với cuộc sống của mình, cô nghĩ. Mình đã nghĩ đến khả năng đó.
Cô tránh ánh mắt của Rizzoli, giọng cô biến thành tiếng thì thầm.
- Em không biết khi nào em rảnh. Giờ có quá nhiều việc đang xảy ra.
- Em có thể kể với anh về một ngày của em khi chúng ta ăn tối.
- Việc đó đã trở thành điều viễn vông rồi.
- Anh phải ăn gì chứ, Maura. Anh đưa em ra ngoài nhé ? Đến nhà hàng em yêu thích ?
Cô trả lời nhanh và quá háo hức.
- Không, em sẽ gặp anh tại nhà. Em sẽ cố về nhà lúc bảy giờ.
- Anh không mong là em sẽ nấu cho anh một bữa.
- Vậy thì em sẽ để anh nấu.
Anh cười.
- Một phụ nữ can đảm đấy.
- Nếu em về muộn, anh có thể đi vào qua cửa bên của nhà để xe. Có lẽ anh biết chìa khóa ở đâu.
- Đừng nói là em vẫn giấu nó ở chiếc giày cũ đó nhé.
- Chẳng ai tìm được nó cả. Hẹn gặp anh tối nay.
Cô cúp máy và quay lại thấy cả Rizzoli và Frost đang nhìn cô.
- Hẹn hò nóng bỏng à ? - Rizzoli trêu.
- Ở tuổi tôi thì thật may mắn khi có một buổi hẹn hò - cô nói và bỏ điện thoại vào túi xách - Tôi sẽ gặp hai người ở nhà xác.
Khi cô đi qua cánh đồng, theo dấu tuyết vỡ, cô cảm thấy ánh mắt họ đang dán chặt vào lưng cô. Thật dễ chịu khi cô rút vào cổng sau tu viện. Nhưng mới đi được mấy bước vào sân thì cô nghe thấy ai đó gọi tên mình.
Cô quay lại và thấy cha Brophy đi ra từ lối vào. Ông lại gần cô, một bóng đen im lìm. Trên nền trời xám xịt đầy đe dọa, mắt ông sáng lên một màu xanh.
- Sơ Mary Clement muốn nói chuyện với cô - ông nói.
- Đáng lẽ bà ấy phải nói chuyện với thám tử Rizzoli chứ.
- Bà ấy muốn nói chuyện với cô hơn.
- Tại sao ?
- Vì cô không phải là cảnh sát. Ít nhất thì cô có vẻ lắng nghe những mối quan tâm của bà ấy và hiểu bà ấy.
- Hiểu gì, thưa cha ?
Ông ta ngừng lại. Gió thổi bay áo khoác của họ và quất vào mặt họ.
- Niềm tin không phải là thứ để cho cô lấy làm trò cười - ông nói nghiêm túc.
Đó là lý do tại sao bà Mary Clement không muốn nói chuyện với Rizzoli, người không thể che giấu sự nghi ngờ và sự bất kính của cô với nhà thờ. Có điều gì sâu thẳm trong con người, như niềm tin chẳng hạn không nên bị người khác thách thức
- Điều này quan trọng với bà ấy - Cha Brophy tiếp - cô làm ơn đi !
Cô theo ông vào tòa nhà, xuống hành lang tối tăm và bẩn thỉu, tới văn phòng bà trưởng tu viện. Bà Mary Clement đang ngồi sau chiếc bàn. Bà ta ngẩng lên khi họ bước vào. Đôi mắt bà ta qua cặp kính dày rõ ràng rất tức giận.
- Ngồi đi, bác sĩ Isles !
Dù Trường Những con chiên thần thánh đã lùi xa nhiều năm, hình ảnh một bà sơ giận dữ vẫn khiến cô không thoải mái. Cô lặng lẽ đến bên bàn và ngồi xuống ghế như một nữ sinh mắc lỗi. Cha Brophy đứng cách sang một bên, im lặng quan sát cuộc đấu trí.
- Chúng tôi đã không được thông báo về lý do của cuộc tìm kiếm - bà Mary Clement bắt đầu - Các vị đã xới tung cuộc sống của chúng tôi, xâm phạm sự riêng tư của chúng tôi. Từ đầu chúng tôi đã họp tác bằng mọi cách và các vị luôn đối xử với chúng tôi như kẻ thù. Cô nợ chúng tôi phép lịch sự tối thiểu là cô phải cho chúng tôi biết cô đang tìm gì.
- Tôi nghĩ thám tử Rizzoli mới là người báo cho bà biết về việc này.
- Nhưng cô chính là người khơi mào cho cuộc tìm kiếm.
- Tôi chỉ nói với họ những gì tôi phát hiện trong phòng mổ tử thi. Rằng sơ Camille đã sinh con. Thám tử Rizzoli mới là người lục tìm tu viện.
- Mà không cho chúng tôi biết lý do.
- Những việc điều tra của cảnh sát phải bí mật.
- Đó là vì các vị không tin chúng tôi. Đúng không ?
Maura nhìn khuôn mặt trách móc của bà Mary Clement và thấy cô không thể trả lời bà bằng thứ gì khác ngoài sự thật.
- Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục một cách thận trọng.
Câu trả lời chân thật của cô không khiến bà ta tức giận mà nó có vẻ làm dịu cơn giận dữ của bà Mary. Với một vẻ mệt mỏi đột ngột, bà ta ngồi xuống ghế và biến thành một người đàn bà yếu đuối, già nua như mọi khi.
- Thế giới là thế đấy, thậm chí chúng tôi không được tin tưởng.
- Như mọi người khác thôi, thưa sơ Clement.
- Nhưng chỉ có điều đó thôi, bác sĩ Isles ạ. Chúng tôi không như những người khác. Hãy cho tôi biết tại sao cô lại học ở trường thánh ?
- Cha mẹ nuôi tôi muốn vậy.
- Rồi cô đã quen với cuộc sống của các vị thánh. Nhiều người trong số họ đã nghe thấy Chúa. Cô giải thích sao về chuyện đó ?
Maura lưỡng lự, cô biết điều cô sắp nói có thể xúc phạm đến bà trưởng tu viện.
- Những ảo giác về thính giác thường được diễn giải thành những trải nghiệm về mặt tôn giáo.
Mary Clement không có vẻ gì là tức giận như Maura nghĩ. Bà ta chỉ nhìn cô, cặp mắt kiên định.
- Tôi có gì điên rồ với cô không ?
- Không chút nào.
- Nhưng tôi vẫn ở đây để nói với cô rằng tôi đã từng nghe thấy Chúa - Mắt bà ta lại đưa về phía cửa sổ và bức tường xám, những viên đá của nó lấp lánh băng - Cô là người thứ hai tôi nói cho biết về chuyện này vì tôi biết người ta nghĩ gì. Bản thân tôi cũng sẽ không tin điều đó nếu việc đó không xảy ra với tôi.
Khi cô mới mười tám tuổi, Ngài gọi cô, cô còn lựa chọn nào khác, ngoài việc lắng nghe ? - Bà ta ngồi về phía sau ghế, nói nhẹ nhàng - Tôi có một trái tim nhân hậu. Một người đàn ông đã muốn kết hôn với tôi.
- Đúng vậy - Maura nói - Bà đã cho tôi biết.
- Anh ấy không hiểu nổi. Chẳng ai hiểu tại sao một cô gái trẻ lại muốn trốn tránh cuộc sống, trốn chạy như một kẻ hèn nhát. Tôi đã đầu hàng trước Chúa. Tất nhiên, anh ấy đã cố gắng làm tôi thay đổi ý kiến. Mẹ tôi cũng vậy. Nhưng tôi biết tôi đang làm gì. Tôi biết từ khi tôi được Ngài gọi. Khi đứng ở sân sau, lắng nghe tiếng dế kêu, tôi đã nghe thấy tiếng Ngài, rõ ràng như tiếng chuông. Và tôi đã biết - Bà ta nhìn Maura đang cựa quậy trên ghế, chỉ chực kết thúc cuộc nói chuyện và cảm thấy khó chịu về cuộc nói chuyện kiểu thần học.
Maura nhìn đồng hồ trên tay cô.
- Thưa mẹ bề trên, tôi e là tôi phải đi.
- Cô có thắc mắc tại sao tôi nói với cô chuyện này không ?
- Có chứ.
- Tôi đã kể chuyện này với một người khác. Cô biết đó là ai không ?
- Không.
- Sơ Camille.
Maura nhìn cặp mắt xanh nhăn nheo của bà tu viện trưởng.
- Sao lại là Camille ?
- Vì cô ấy cũng nghe thấy tiếng nói đó. Đó là lý do tại sao cô ấy đã đến với chúng tôi. Cô ấy sinh ra trong một gia đình cực kỳ giàu có và lớn lên ở một lâu đài tại Hyannisport, cách Kennydys không xa. Nhưng cô ấy đã được kêu gọi đến với cuộc sống này, giống như tôi. Khi cô được kêu gọi, bác sĩ Isles, cô biết mình đã được ban phước và cô đáp lại bằng sự vui sướng tràn ngập trong lòng. Cô không nghi ngại về việc thề nguyện. Cô hoàn toàn cam kết tuân theo trật tự này.
- Vậy thì chúng ta giải thích sao về cái thai ? Chuyện đó đã xảy ra thế nào ?
- Thám tử Rizzoii đã hỏi câu đó. Nhưng tất cả những gì cô ấy muốn biết là những cái tên và ngày tháng. Người thợ sửa chữa nào đã đến khu này ? Camille đã về thăm nhà tháng mấy ? Cảnh sát chỉ quan tâm đến những chi tiết rõ ràng chứ không phải những vấn đề tinh thần, không phải tiếng gọi trái tim của Camille. Cô ấy đã mang thai, cho dù đó là do dục vọng hay bị cưỡng bức - Bà trưởng tu viện im lặng một lúc, bà ta nhìn xuống bàn tay mình và nói khẽ - Còn lời giải thích thứ ba, bác sĩ Isles.
Maura chau mày.
- Đó là gì ?
- Cô sẽ giễu cợt tôi về chuyện này, tôi biết. Có lẽ cô tin vào những bài thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, vào những gì cô thấy dưới kính hiển vi. Nhưng đã có lúc nào cô đi ngủ và thấy những điều khó tin chưa ? Khi một nạn nhân lẽ ra đã chết lại đột nhiên sống lại ? Cô đã thấy những điều kỳ diệu chưa ?
- Mỗi nhà vật lý học ít ra cũng ngạc nhiên vài lần trong sự nghiệp của mình.
- Không chỉ ngạc nhiên. Tôi đang nói về điều gì đó làm cô không thể tin nổi, một điều không thể lý giải được.
Maura nhớ lại những năm thực tập tại Bệnh viện Tổng hợp San Francisco.
- Tôi đã gặp một phụ nữ bị bệnh ung thư tuyến tụy.
- Bệnh đó không chữa được, đúng không ?
- Đúng thế. Nó gần như là án tử hình. Cô ấy lẽ ra không nên sống. Khi lần đầu tiên tôi gặp cô ấy, cô ấy đã ở giai đoạn cuối, đã hoang mang và bị ruồng bỏ. Các bác sĩ đã quyết định cho cô ấy ngừng ăn vì cô ấy đã gần kề cái chết. Tôi đã cố để cô ấy thoải mái. Đó là tất cả những gì người ta làm được vào phút chót - giảm bớt nỗi đau. Tôi nghĩ cái chết với cô ấy chỉ còn được tính bằng ngày.
- Nhưng cô ấy đã khiến cô ngạc nhiên.
- Cô ấy thức dậy một buổi sáng và nói với y tá rằng cô ấy đói bụng. Bốn tuần sau, cô ấy về nhà.
Bà trưởng tu viện gật đầu.
- Một phép màu.
- Không, thưa bề trên - Maura gặp ánh mắt bà ta - Sự hồi sinh ngẫu nhiên.
- Đó chỉ là một cách biện hộ cho điều cô không biết.
- Sự hồi phục có xảy ra. Những chứng ung thư tự thu hẹp lại hay những chẩn đoán sai bắt đầu.
- Hay đó là thứ gì khác, một điều khoa học không thể lý giải.
- Bà muốn tôi nói là phép màu ?
- Tôi muốn cô xem xét những khả năng khác. Có rất nhiều người hồi phục khi cái chết đến gần đã kể lại họ đã thấy ánh sáng chói lòa. Hay họ đã thấy những người họ yêu thương nói với họ vẫn chưa đến lúc. Cô giải thích sao về những chuyện sống lại như thế ?
- Các ảo giác của não bộ bị thiếu oxi.
- Hay bằng chứng của sự thần thánh.
- Tôi muốn thấy bằng chứng đó. Sẽ dễ chịu khi biết có thứ gì đó vượt xa cuộc sống vật chất. Nhung tôi không thể chỉ chấp nhận niềm tin. Đó là điều bà đang nhằm vào đúng không ? Rằng cái thai của Camille là một kiểu phép màu ? Một ví dụ khác của sự thần thánh.
- Cô nói cô không tin vào phép màu nhưng cô không thể lý giải tại sao bệnh nhân ung thư tuyến tụy của mình lại sống.
- Không phải lúc nào cũng dễ lý giải.
- Vì y khoa không hoàn toàn hiểu về cái chết. Đúng không ?
- Nhưng chúng tôi rất hiểu khái niệm đó. Chúng tôi biết nó đòi hỏi có một con tinh trùng và một quả trứng. Đó đơn giản là vấn đề sinh học, thưa mẹ bề trên. Tôi không tin vào những quan niệm của sự trong trắng và thuần khiết. Điều tôi thật sự tin là Camille đã quan hệ tình dục. Đứa bé của cô ấy được hình thành một cách bình thường. Nhận dạng của người cha rất có thể dẫn đến vụ án mạng.
- Nếu không tìm thấy cha đứa bé thì sao ?
- Chúng tôi sẽ có cấu trúc ADN của đứa bé. Chúng tôi chỉ cần tên cha nó thôi.
- Cô tin vào khoa học của cô như vậy, bác sĩ Isles. Đó là câu trả lời cho mọi chuyện !
Maura rời ghế.
- Ít nhất tôi tin những câu trả lời đó.
***
Cha Brophy đưa Maura khỏi văn phòng bà viện trưởng và đi bộ cùng cô trở lại hành lang tối tăm, tiếng bước chân của họ vang trên sàn nhà đã mục.
Ông lên tiếng trước.
- Có lẽ chúng ta nên nói về chủ đề đó bây giờ, bác sĩ Isles.
- Chủ đề gì ?
Ông dừng lại nhìn cô.
- Liệu đứa bé có phải con tôi hay không - Ông nhìn thẳng vào mắt cô, cô chỉ muốn quay đi, muốn chạy trốn khỏi ánh nhìn của ông - Đó là điều cô đang băn khoăn phải không ?
- Ông có thể hiểu lý do tại sao
- Đúng thế, trước đây cô đã hỏi điều đó, quy luật tất nhiên của sinh học đòi hỏi có tinh trùng và trứng.
- Ông là người đàn ông duy nhất lui tới tu viện thường xuyên. Ông đọc kinh. Ông nghe những lời xưng tội.
- Đúng.
- Ông biết những bí mật riêng tư nhất của họ.
- Chỉ những điều họ chọn để nói với tôi.
- Ông là hiện thân của quyền lực.
- Vài vị linh mục khoe mẽ đã nói vậy.
- Đối với một nữ tu sĩ mới, ông chắc chắn là như vậy.
- Và điều đó khiến tôi tự nhiên trở thành kẻ bị tình nghi ?
- Ông sẽ không. phải là vị linh mục đầu tiên phản bội lời thề của mình.
Ông thở dài và lần đầu tiên ông không nhìn cô nữa, không phải là sự trốn tránh mà là một cái gật đầu buồn bã tỏ vẻ cảm ơn.
- Đó là việc không dễ dàng, nhất là trong những ngày này. Mọi người nhìn ngó chúng tôi, những câu chuyện châm chọc sau lưng chúng tôi. Khi tôi đọc kinh, tôi nhìn những khuôn mặt trong nhà thờ và tôi biết họ đang nghĩ gì. Họ thắc mắc không biết tôi có sờ soạng những đứa bé trai, hay ve vãn những cô gái không. Tất cả bọn họ đều thắc mắc như cô. Và cô đã kết luận một điều sai lầm.
- Đứa bé đó có phải của ông không, thưa cha Brophy ?
Cặp mắt màu xanh một lần nữa nhìn cô. Cái nhìn rất kiên định.
- Không. Tôi chưa từng phản bội lời thề.
- Ông hiểu chứ, rằng chúng tôi không thể chỉ tin vào lời nói của ông.
- Không, có thể nào tôi giống kẻ đang nói dối chứ ? - Mặc dù ông không cao giọng, cô vẫn nhận ra sự giận dữ trong âm điệu. Ông tiến lại gần cô hơn nhưng cô đứng im, kiên quyết không lùi lại - Tôi có thể âm mưu vụ này cùng ai đó. Cô thấy chuỗi sự việc này dẫn tới đâu ? Nói dối ! Chỉ là một đám các bà sơ. Giết người chăng ?
- Cảnh sát phải xem xét mọi động cơ. Cả động cơ của cha nữa.
- Và tôi nghĩ là cô muốn có mẫu ADN của tôi.
- Điều đó sẽ loại bỏ cha là bố của đứa bé.
- Hoặc nó sẽ chỉ ra tôi là kẻ bị tình nghi giết người.
- Nó có thể diễn ra theo một trong hai cách, còn tùy vào kết quả.
- Vậy cô nghĩ nó sẽ cho thấy điều gì ?
- Tôi không biết.
- Nhưng cô phải có một linh cảm nào đó chứ. Cô đang đứng đây nhìn tôi và cô thấy một tên sát nhân chứ ?
- Tôi chỉ tin vào những bằng chứng.
- Số liệu và sự thật. Đó là tất cả những gì cô tin.
- Đúng vậy.
- Và nếu tôi nói với cô là tôi hoàn toàn tình nguyện cho cô mẫu ADN của tôi thì sao ? Rằng tôi sẽ đưa cô mẫu máu của tôi ngay tại đây và ngay lập tức thì cô có sẵn sàng lấy nó không ?
- Việc đó không đòi hỏi mẫu máu. Chỉ cần một chút nước bọt thôi.
- Một chút dịch thôi à. Tôi chỉ muốn làm rõ là tôi hoàn toàn tự nguyện trong việc này.
- Tôi sẽ nói với thám tử Rizzoli. Cô ấy sẽ lấy nó.
- Điều đó sẽ khiến cô thay đổi suy nghĩ chứ ? Về việc tôi có tội ?
- Như tôi đã nói, tôi sẽ biết khi tôi xem kết quả - Cô mở cửa và bước ra ngoài.
Ông theo cô ra sân. Ông không mặc áo khoác nhưng có vẻ như ông không còn để ý đến cái lạnh. Mọi sự chú ý của ông đều dồn vào cô.
- Cô nói là cô lớn lên trong nhà thờ Thiên chúa giáo ? - Ông chưa muốn kết thúc.
- Tôi đã theo học tại trường cấp ba của đạo Thiên chúa. Trường Các con chiên thần thánh, ở San Francisco.
- Nhưng cô vẫn chỉ tin vào các xét nghiệm máu. Vào khoa học của cô.
- Thay vào đó tôi nên tin vào thứ gì đây ?
- Bản năng thì sao ? Niềm tin thì sao ?
- Tin ông à ? Chỉ vì ông là một cha đạo ?
- Chỉ vì ư ? - Ông lắc đầu và cười buồn bã, hơi thở ông tạo thành vệt màu trắng trong không khí - Tôi nghĩ đó là câu trả lời cho các câu hỏi của tôi.
- Tôi không phỏng đoán. Tôi không đưa ra bình luận gì về những người khác vì thường thì họ khiến ta ngạc nhiên.
Họ ra đến cổng trước. Ông mở cửa cho cô và cô bước ra ngoài. Cánh cổng đóng lại giữa họ và đột nhiên tách thế giới của ông ta khỏi thế giới của cô.
- Cô biết người đàn ông ngã ở lối đi không ? - Ông hỏi - Người mà chúng ta đã hô hấp nhân tạo đó ?
- Có.
- Anh ta vẫn sống. Tôi đã đến thăm anh ta sáng nay. Anh ta đã tỉnh táo và nói chuyện được.
- Tôi vui khi biết điều đó.
- Cô không nghĩ là anh ta làm được điều đó.
- Những điều kỳ lạ đã xảy ra với anh ta.
- Vậy là cô thấy đấy ? Đôi khi những con số, những thống kê đều sai.
Cô quay đi.
- Bác sĩ Isles ! - Ông gọi - Cô đã lớn lên trong nhà thờ. Cô không còn chút niềm tin nàọ hay sao ?
Cô quay lại nhìn ông.
- Niềm tin không đòi hỏi bằng chứng - cô nói - Nhưng tôi thì có.
***
Việc mổ tử thi một đứa bé sơ sinh là một công việc mà bất cứ một nhà bệnh học nào cũng sợ. Khi Maura đeo găng tay chuẩn bị dụng cụ, cô tránh không nhìn vào cái gói nằm trên bàn, cố tránh xa nó càng lâu càng tốt, tránh khỏi sự thật đáng buồn mà cô sẽ phải quen. Trừ tiếng dụng cụ va vào nhau, căn phòng hoàn toàn im lặng. Không ai có mặt trong phòng muốn nói một câu gì.
Maura luôn tạo ra một không khí nghiêm túc trong phòng mổ của mình. Là một sinh viên y khoa, cô đã theo dõi việc mổ tử thi của các nạn nhân đã chết khi được cô chăm sóc. Mặc dù các chuyên gia bệnh học phải mổ trên các thi thể được coi là những người lạ đồng nhất nhưng cô đã biết những người bệnh đó khi họ còn sống. Cô không thể nhìn họ được đặt lên bàn mà không nghe thấy giọng nói của họ hay nhớ lại họ đã tỉnh táo thế nào khi còn mở mắt. Phòng mổ tử thi không phải là nơi đùa cợt hay nói về những cuộc hẹn hò ban đêm. Cô không thể chịu nổi những hành động đó. Chỉ cần một ánh mắt nghiêm khắc là cô có thể khuất phục một tay cảnh sát bất kính nhất. Cô biết họ không vô tâm, cô biết sự hài hước là cách họ đối mặt với những mảng tối trong công việc của họ nhưng cô mong họ kìm chế sự vui vẻ ở cửa ra vào, nếu không họ sẽ bị cô mắng thậm tệ.
- Những lời nói đó không cần thiết khi một đứa bé được đặt lên bàn mổ.
Cô liếc nhìn hai thám tử. Barry Frost như mọi khi có vẻ mặt xanh xao. Anh đứng cách xa bàn mổ một chút như thể sắp chạy trốn. Hôm nay, không phải những mùi khó chịu khiến việc mổ tử thi này khó khăn mà đó là tuổi của nạn nhân. Rizzoli đứng cạnh anh, khuôn mặt cương nghị. Dáng người nhỏ nhắn của cô gần như bị che hết sau chiếc áo khoác cho bác sĩ phẫu thuật và nó có vẻ quá khổ. Cô đứng đối diện bàn mổ, một vị trí như muốn thông báo: tôi đã sẵn sàng, tôi có thể đối mặt với bất cứ việc gì. Đó cũng là điều Maura thấy ở những người phụ nữ làm bác sĩ phẫu thuật. Đàn ông gọi họ là những kẻ quái dị nhưng cô nhận ra bản chất của họ: những người phụ nữ luôn đấu tranh, luôn làm việc hết mình để tự khẳng định mình trong một công việc mà họ thực sự phải khoác lên mình dáng vẻ của đàn ông.
Rizzoli có vẻ ngoài rất mạnh mẽ nhưng khuôn mặt cô không hợp với dáng vẻ không biết sợ là gì. Mặt cô trắng bệch và căng thẳng, chỗ da dưới mắt trũng xuống vì mệt mỏi.
Yoshima chiếu đèn vào cái bọc và đứng chờ bên khay dụng cụ.
Chiếc chăn ướt sũng. Nước lạnh buốt trong đầm rỉ ra khi cô nhẹ nhàng tháo nó, để lộ ra một lớp quấn khác. Bàn chân bé xíu cô thấy trước đó giờ đã lộ ra, thò ra khỏi tấm vải lanh ướt. Một vỏ gối màu trắng được gắn vào hình dạng đứa bé sơ sinh bằng các đinh ghim như một tấm vải liệm. Có những đốm màu hồng quanh tấm vải.
Maura dùng chiếc kẹp thọc sâu vào cái bọc ẩm ướt và lấy ra một nhánh cây.
- Đây không phải là giấy trang trí - cô nói - Đây là hoa khô.
Ý nghĩa của khám phá này khiến cả căn phòng im lặng. Một biểu tượng của tình yêu, cô nghĩ, của sự tiếc thương. Cô nhớ mình đã xúc động thế nào khi cách đây lâu rồi cô biết là người Phần Lan chôn hoa cùng người chết. Điều đó thể hiện sự thương xót và cũng là tính nhân văn của họ. Đứa bé này, cô nghĩ, đã được thương xót. Nó được quấn trong vải lanh, được rắc những cánh hoa khô và bọc trong một tấm chăn len. Đó không phải là sự rũ bỏ mà đó là hành động chôn cất, một lời giã biệt.
Cô nhìn vào bàn chân như búp bê thò ra khỏi vải liệm. Da đứa bé sơ sinh bị nhăn nheo do ngâm trong nước nhưng không có sự phân hủy rõ ràng, các mạch máu không nổi vân lên. Cái đầm đã ở nhiệt độ gần đóng băng và cái xác đã ở tình trạng gần như được bảo quản trong nhiều tuần. Thời gian của cái chết, cô nghĩ, có thể khó, nếu không nói là không thể xác định được.
Cô bỏ những cái kẹp sang một bên và tháo bốn ghim băng ở mép cuối vỏ gối. Chúng tạo nên một âm thanh nhỏ khi cô thả chúng vào khay. Cô nâng mảnh vải lên, nhẹ nhàng kéo nó và cả hai chân đứa bé hiện ra, đầu gối cong cong, hai cái đùi tách ra như một chú ếch nhỏ.
Kích cỡ của nó khớp với một bào thai đã đầy đủ tháng.
Cô để lộ ra bộ phận sinh dục và sau đó là một sợi dây rốn phồng lên, được buộc lại bằng một sợi dây lụa màu đỏ. Cô bỗng nhớ về những bà sơ ngồi ở bàn ăn, những bàn tay nhăn nheo của họ tìm hoa khô và những dải lụa để làm túi thơm. Một đứa bé được quấn túi thơm, cô nghĩ, được rắc hoa khô và thắt dải lụa.
- Đó là một bé trai - Rizzoli nói, giọng cô đột nhiên vỡ vụn.
Maura nhìn lên và thấy mặt Rizzoli tái hơn, cô đứng dựa vào bàn như thể để khỏi ngã. - Cô cần ra ngoài không ? Rizzoli nuốt nước bọt.
- Đó chỉ là...
- Gì ?
- Không sao. Tôi ổn.
- Những chuyện này khó chấp nhận, tôi biết. Những đứa bé thường là những trường hợp khó. Nếu cô muốn ngồi xuống...
- Tôi đã nói rồi, tôi ổn.
Phần tồi tệ nhất vẫn chưa đến.
Maura kéo vỏ gối lên trên ngực, nhẹ nhàng mở cánh tay đầu tiên, rồi cánh tay còn lại để chúng không bị vướng vào vải ướt. Những cánh tay đã được hình thành một cách hoàn chỉnh, những ngón tay nhỏ xíu được sinh ra để chạm vào khuôn mặt của mẹ nó, để nắm mớ tóc của mẹ nó. Tiếp theo là khuôn mặt, những bàn tay... và thật đau lòng khi thấy chúng.
Maura luồn tay vào trong vỏ gối để đỡ sau đầu khi cô tháo bỏ phần vải cuối cùng.
Ngay lập tức, cô thấy có gì đó không ổn.
Tay cô đang nâng một hộp sọ không bình thường, không giống con người. Cô dừng lại, cổ họng bỗng khô ran. Cô sợ hãi kéo mảnh vải lên và đầu đứa bé sơ sinh lộ ra.
Rizzoli há hốc miệng rồi quay mặt khỏi cái bàn.
- Lạy Chúa ! - Frost kêu lên - Chuyện quái gì xảy ra với nó vậy ?
Quá sợ hãi, Maura không nói được, cô chỉ có thể nhìn cái hộp sọ đáng sợ, mở toác, não hở cả ra. Trên mặt có những nếp nhăn như một mặt nạ cao su bị bóp méo.
Một chiếc khay kim loại đột nhiên lật úp và rơi xuống.
Maura ngước lên và kịp thấy Rizzoli, mặt cô ấy tái nhợt, khuỵu dần xuống sàn nhà.