Ánh sáng phương Bắc (Tập 2) - Phần II - Chương 17 - Phần 2
Vì thế cô gọi, vẫy và đẩy bọn trẻ chạy tiếp. Khi những ngọn đèn phía sau họ đổ những bóng dài trên tuyết, Lyra thấy trái tim mình lao trong đêm tối thăm thẳm của Bắc cực và cái lạnh cắt da cắt thịt, lao vào nó để học cách yêu nó như Pantalaimon đang làm, một con thỏ rừng đang sung sướng vì tự do sải bước.
“Chúng mình đi đâu đây?” Ai đó hỏi.
“Ở ngoài này chẳng có gì ngoài tuyết!”
“Có một đội giải cứu đang đến đây,” Lyra nói với chúng. “Có khoảng năm mươi người Gypsy có con em bị mất tích, họ đều cử đại diện đến.”
“Mình không phải người Gypsy.” Một cậu bé nói.
“Không sao đâu. Họ cũng sẽ đưa cậu đi.”
“Đi đâu?” Ai đó nói với giọng cáu kỉnh.
“Về nhà.” Lyra trả lời. “Đó là lý do mình đến đây, để giải cứu các bạn, mình đưa những người Gypsy tới đây để đưa các bạn trở về nhà. Chúng mình chỉ việc đi thêm chút nữa rồi sẽ tìm thấy họ. Con gấu đi cùng với họ, vì thế họ không thể ở xa đây được.”
“Cậu có nhìn thấy con gấu đó không!” Một cậu bé lên tiếng. “Khi nó quật con nhân tinh xuống, người đàn ông chết ngay như thể có người moi trái tim của anh ta ra, đúng là như thế đấy!”
“Mình chưa hề biết là nhân tinh có thể bị giết,” đứa nào đó nói.
Tất cả bọn trẻ giờ đều nói chuyện, sự hào hứng và nhẹ nhõm khiến mọi người đều muốn nói chuyện. Nếu chúng vẫn tiếp tục đi, việc nói chuyện sẽ không gây trở ngại gì.
“Có đúng không?” Một cô bé nói. “Chuyện người ta làm ở đó ấy?”
“Ừ,” Lyra nói. “Mình không bao giờ nghĩ sẽ nhìn thấy người nào không có nhân tinh. Nhưng trên đường đến đây, mình đã tìm thấy một cậu bạn chỉ có một mình mà không có con nhân tinh nào bên cạnh. Cậu ấy cứ luôn miệng hỏi về nó, nó đang ở đâu, nó có tìm thấy cậu ấy không. Cậu ấy tên là Tony Makarios.”
“Mình biết cậu ấy!” Một đứa trẻ nói, những đứa khác hùa theo: “Đúng rồi, họ đưa cậu ấy đi khoảng một tuần…”
“Ừ, họ đã tách con nhân tinh của cậu ấy ra,” Lyra nói, cô hiểu nói như thế sẽ tác động đến bọn trẻ như thế nào. “Một khoảng thời gian ngắn sau khi chúng mình tìm được cậu ấy, cậu ấy đã chết. Còn tất cả những con nhân tinh họ tách ra khỏi chủ, họ giam trong những chiếc lồng trong một toà nhà hình vuông ở đó.”
“Đúng đấy,” Roger lên tiếng. “Lyra đã thả chúng ra trong buổi lập phòng chữa cháy.”
“Đúng rồi,” Billy Costa nói. “Lúc đầu mình không nhìn ra chúng là cái gì, nhưng mình đã thấy chúng bay đi cùng một con ngỗng.”
“Nhưng tai sao họ lại làm vậy?” một cậu bé thắc mắc. “Tai sao họ lại tách nhân tinh của con người ra? Như thế thật là đau đớn! Sao họ lại làm vậy?”
“Bụi,” ai đó nói với giọng ngờ vực.
Nhưng cậu bé cười một cách khinh thường. “Bụi!” Cậu nói. “Chẳng có thứ đó đâu! Họ chỉ bịa ra thôi! Mình không tin là có nó.”
“Đây này,” ai đó nói. “Hãy nhìn điều đang xảy ra với khí cầu zeppelin!”
Tất cả chúng đều quay lại. Dưới ánh sáng chói loà, nơi cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, thân hình rất dài của chiếc khí cầu không còn trôi nổi tự do tại chiếc cột trụ khí cầu nữa. Đầu nó đang chúi xuống phía dưới, và phía dưới nổi lên một khối cầu…
“Khinh khí cầu của Lee Scoresby!” Lyra reo lên, thích thú vỗ hai bàn tay đeo bao tay vào nhau.
Những đứa trẻ khác bắt đầu phân tâm. Lyra đẩy chúng đi tiếp, thắc mắc không hiểu làm thế nào ông ấy có thể lái chiếc khinh khí cầu của mình đi xa đến thế. Rõ ràng là ông ấy đã làm được, và đó là một ý kiến hay, khi bơm đầy khinh khí cầu bằng khí gas lấy từ trong lòng đất để trốn thoát.
“Nhanh lên nào, tiếp tục đi đi, nếu không các bạn sẽ bị chết cóng đấy.” Cô nói, vì vài đứa trẻ đang run lập cập và rên rỉ vì lạnh, những con nhân tinh của chúng cũng đang kêu lên khe khẽ.
Pantalaimon nhận thấy như thế không ổn, trong hình dạng con chồn gu-lô nó vỗ vào con nhân tinh sóc của cô bé đang nắm ngang qua vai chủ và khẽ rên rỉ.
“Chui vào áo khoác của cô ấy đi! Hãy làm cho cậu to lên và sưởi ấm cho cô ấy!” Pantalaimon gầm gừ, con nhân tinh của cô bé hoảng hốt bò vào chiếc áo choàng của cô chủ ngay lập tức.
Rắc rối là ở chỗ chiếc áo chần bông không thể ấm bằng chiếc áo lông thú, dù nó có được chần bông dày đến đâu. Một số đứa trẻ trông như những cây nấm di động, quần áo của chúng rất cồng kềnh, nhưng được may trong các nhà máy và phòng thí nghiệm, không phù hợp để mặc ở ngoài này. Quần áo lông thú của Lyra trông tơi tả và bốc mùi hôi, nhưng nó giữ ấm rất tốt.
“Nếu không nhanh chóng tìm thấy những người Gypsy thì các bạn ấy sẽ không cầm cự được đến cùng đâu.” Lyra thì thầm với Pantalaimon.
“Vậy cứ thúc họ đi tiếp đã,” nó thì thầm lại. “Nếu họ mà nằm xuống thì kết thúc luôn đấy. Cậu có biết Farder Coram nói…”
Farder Coram đã kể rất nhiều chuyện ly kỳ về các chuyền đi của ông ở phương Bắc, và cả bà Coulter nữa — cứ giả định rằng bà ấy nói đúng đi. Nhưng cả hai đều rất chắc chắn ở một điểm, đó là phải cố gắng tiếp tục đi.
“Chúng mình phải đi bao xa?” một cậu bé hỏi.
“Cậu ấy bắt bọn mình ra đây để giết bọn mình đấy.” một cô bé nói.
“Thà ở ngoài này còn hơn ở trong đó,” ai đó nói.
“Mình thì không thích thế! Trong trạm sẽ ấm hơn. Có thức ăn, đồ uống nóng và tất cả các thứ khác.”
“Nhưng nó đang bị cháy!”
“Nhưng bọn mình sẽ làm gì ở ngoài này? Mình cá tất cả sẽ chết vì đói cho mà xem.”
Tâm trí Lyra đầy ắp những câu hỏi u ám bay vòng vòng như những phù thuỷ, nhanh chóng mặt và không thể chạm vào được, ở đâu đó, một nơi cô không thể đến được, có một chiến thắng và cô không hiểu nổi tại sao.
Nhưng nó mang đến cho cô một luồng sức mạnh, cô lôi một cô bạn khỏi đám tuyết, thúc vào lưng cậu bé đang uể oải và gọi to cho tất cả mọi người cùng nghe: “Đi tiếp đi nào! Hãy theo dấu chân của con gấu! Nó đến cùng những người Gypsy, vì thế các dấu chân sẽ dẫn chúng ta đến chỗ họ! Cứ tiếp tục bước đi!”
Những bông tuyết lớn bắt đầu rơi. Chúng sẽ rất nhanh chóng lấp đầy những dấu chân của Iorek Byrnison. Giờ bọn trẻ đã đi khuất khỏi ánh đèn Bolvangar, những ánh lửa chỉ còn là tia sáng lấp lánh lờ mờ, ánh sáng duy nhất đến từ mặt đất phản chiếu màu tuyết trắng mờ. Những đám mây nặng nề che phủ cả bầu trời, vì thế không có cả trăng lẫn Ánh Sáng Phương Bắc, nhưng nếu nhìn thật chăm chú, bọn trẻ vẫn tìm ra vết chân rất sâu Iorek Byrnison để lại trên nền tuyết. Lyra khuyến khích, hoan hô, đá đít, dìu, mắng mỏ, kéo, đẩy, nhấc lên nhẹ nhàng bất cứ lúc nào cần, và Pantalaimon (bằng cách luôn ở gần những con nhân tinh) nói cho cô biết cần làm gì trong từng trường hợp.
Mình sẽ đưa mọi người đến đó, cô liên tục tự nhủ. Mình đến đây để giúp họ và mình giúp họ bằng mọi giá.
Roger bám theo cô, Billy Costa đang dẫn đường, vì là người tinh mắt hơn cả. Tuyết nhanh chóng rơi rất dày, chúng bíu vào nhau để không bị lạc; Lyra nghĩ, có lẽ tất cả chúng ta nằm gần nhau và giữ ấm như thế… đào những cái lỗ trong tuyết…
Cô nghe thấy tiếng gì đó như tiếng gầm của động cơ, không phải tiếng bình bịch nặng nề của khí cầu zeppelin mà thanh hơn, giống tiếng vo ve của ong bắp cày. Nó chập chờn lúc có lúc không.
Rồi có tiếng hú… Những con chó? Những con chó kéo xe? Khoảng cách xa quá nên rất khó đoán chắc, bị bao phủ bởi hàng triệu bông tuyết, bay tứ tán bởi những cơn gió nhẹ. Đó có thể là những con chó kéo xe của những người Gypsy, cũng có thể là những linh hồn lang thang trên lãnh nguyên, hay thậm chí là những con nhân tinh đã được thả tự do khóc cho những đứa trẻ mất tích, chủ của chúng.
Cô đang nhìn thấy gì đó… Không có ánh sáng nào trong tuyết, phải vậy không nhỉ? Chắc chắn đó phải là những hồn ma… Trừ khi bọn trẻ đang đi vòng lại và quay về Bolvangar.
Nhưng đó là những tia sáng của đèn lồng vàng, không phải thứ ánh sáng trắng của đèn điện anbaric, chúng đang chuyển động, những tiếng hú gần hơn, trước khi cô chắc chắn có phải mình đang mơ hay không, Lyra đã lọt vào giữa những bóng dáng thân quen. Những người đàn ông mặc áo lông thú đang bế cô lên: vòng tay mạnh mẽ của John Faa nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất, Farder Coram đang cười sung sướng. Xa hơn cô có thể nhìn xuyên qua cơn bão tuyết, những người Gypsy đang nhấc bọn trẻ vào xe kéo, quấn quanh chúng áo choàng lông thú, cho chúng nhai thịt hải cẩu. Tony Costa cũng đang ở đó, ôm Billy, thụi nhẹ nó một cái rồi lại ôm chặt và lắc nó trong mừng rỡ. Và Roger…
“Roger sẽ đi cùng với chúng cháu,” cô nói với Farder Coram. “Lúc đầu chính cậu ấy là người cháu muốn cứu. Sau này bọn cháu sẽ cùng về Jordan. Âm thanh gì thế…”
Tiếng gầm đó lại vang lên, tiếng động cơ ấy, như sinh vật bay do thám liên loạn đó nhưng lớn gấp hàng nghìn lần.
Đột nhiên có một cú đấm làm cô ngã vật ra, Pantalaimon không thể bảo vệ cô, vì con khỉ vàng…
Bà Coulter…
Con khỉ vàng đang vật lộn, cắn xé và cào cấu Pantalaimon, còn Pantalaimon đang biến đổi thành rất nhiều hình dạng đến mức khó mà nhìn thấy nó và đánh trả: chích, đốt, quật, cào xé. Bà Coulter, khuôn mặt ẩn trong lớp lông thú, ánh mắt băng giá đầy vẻ căng thẳng, đang kéo Lyra ra phía sau một chiếc trượt tuyết gắn động cơ, Lyra vùng vẫy dữ dội không kém con nhân tinh của mình. Tuyết dày đến mức họ gần như bị cô lập một mình giữa trận bão tuyết, ánh đèn của chiếc xe trượt khi hiện ra cách vài phân giữa những bông tuyết quay cuồng dày đặc.
“Cứu với!” Lyra kêu lên, với những người Gypsy đứng ngay ở đó trong màn tuyết dày đặc và chẳng nhìn thấy gì hết. “Cứu với! Farder Coram! Ngài Faa! Ôi chúa ơi, cứu cháu!”
Bà Coulter hét lên và ra lệnh bằng ngôn ngữ của dân Tartar miền bắc. Màn lốc tuyết mở ra, họ ở đó, một nhóm, trang bị súng trường, những con nhân tinh chó sói gầm gừ. Người trưởng nhóm thấy bà Coulter đang vật lộn, nhấc Lyra lên bằng một tay như thể cô là một con búp bê và đẩy cô vào trong xe kéo, trong tình trạng choáng váng mụ mẫm.
Một tiếng súng vang lên, rồi một tiếng khác, khi những người Gypsy nhận thấy điều gì đang xảy ra. Nhưng nổ súng vào những mục tiêu không nhìn thấy rất nguy hiểm khi chính bạn cũng không biết những người phe mình đang đứng ở đâu. Những người Tartar, giờ thành một nhóm đứng sát nhau quanh chiếc xe kéo đã dễ nhìn thấy hơn, nhưng những người Gypsy không dám nổ súng vì sợ làm bị thương Lyra.
Ôi, cô cảm thấy thật đau đớn! Thật mệt mỏi!
Vẫn trong tình trạng mụ mẫm, trong đầu ong ong, cô gượng dậy tìm kiếm Pantalaimon đang chiến đấu một mình với con khỉ, hai hàm răng chồn gu-lô đang nghiến chặt vào cánh tay màu vàng. Và ai nữa kia?
Không phải Roger đấy chứ?
Đúng là Roger, cậu đang lao vào bà Coulter đấm đá, thụi đầu vào đầu bà ta, và bị ngã dụi bởi một người Tartar đánh vào người cậu như người ta xua một con ruồi. Giờ thì tất cả trở thành ảo ảnh: trắng, đen, một vệt màu xanh bay vụt qua mắt, những cái bóng tả tơi, ánh đèn đang di chuyển…
Một ngọn lốc lớn gạt màn tuyết sang một bên, Iorek Byrnison đang bước tới, tiếng kim loại chạm vào kim loại leng keng. Một lát sau, hai bên hàm táp sang phải, sang trái, và một cú táp xé tung lồng ngực mặc áo giáp, những chiếc răng trắng, tấm kim loại đen, lớp lông ướt màu đỏ…
Rồi có gì đó đang kéo cô thật mạnh, lên trên, chộp lấy cả Roger, giật cậu khỏi bà Coulter và nắm thật chặt, nhân tinh của hai đứa trẻ biến thành một con chim kêu chiêm chiếp thích thú trong khi một con lớn hơn lượn xung quanh chúng, rồi Lyra thấy trong khoảng không bên cạnh mình là một phù thuỷ, một trong những bóng trang nhã màu đen tơi tả trên bầu trời cao, nhưng đủ gần để chạm tới. Có một cánh cung trên đôi tay trần của bà phù thuỷ, bà tung cánh tay trần xanh xao (trong không khí lạnh giá như thế này!) để giương cung và bắn một mũi tên vào chiếc áo giáp đan mắt lưới làm người Tartar bắn tung ra xa mấy mét…
Những mũi tên tiếp tục lao đi và đổi lại, con nhân tinh hình chó sói của người đàn ông biến mất trong khi đang nhảy lên thậm chí trước khi kịp chạm đất.
Bay lên! Giữa không gian, Lyra và Roger được giữ và bay lượn, rồi nhận thấy mình đang bám vào một cành thông mây bằng những ngón tay yếu ớt, trên đó một phù thuỷ trẻ đang ngồi nghiêm, duyên dáng và cân bằng, bà nghiêng về bên trái, có gì đó khổng lồ hiện ra lờ mờ rồi mặt đất hiện ra.
Chúng lộn nhào xuống nền tuyết bên cạnh chiếc giỏ trên khinh khí cầu của Lee Scoresby.
“Nhảy vào trong đi,” người đàn ông Texas gọi, “và giữ lấy bạn của cháu bằng mọi cách. Cháu có thấy con gấu đó không?”
Lyra nhìn thấy ba phù thuỷ đang giữ một sợi dây thừng cuốn quanh một mỏm đá, găm chặt chiếc túi đựng khí xuống đất.
“Vào đây!” Cô hét lên với Roger, và trèo qua bờ mép viền da cảu chiếc giỏ rồi lăn xuống một đống gì đó xốp như tuyết. Một lát sau Roger ngã lên trên cô, rồi một âm thanh nửa như tiếng gầm, nửa như tiếng tống vang lên làm cả mặt đất rung chuyển.
“Nhanh lên, Iorek! Lên trên này đi, anh bạn cũ!” Lee Scoresby gào lên, và ở một bên vang lên tiếng cây mây kêu cọt kẹt là tiếng gỗ uốn cong.
Rồi một luồng khí nhẹ hơn gạt làn sương và tuyết sang một bên trong khoảnh khắc, đột nhiên Lyra nhìn thấy tất cả mọi thứ đang xảy ra xung quanh cô. Cô nhìn thấy một nhóm người Gypsy đang chiến đấu với đạo quân tập hậu người Tartar và dồn chúng chạy về Bolvangar đang cháy rụi. Cô thấy những người Gypsy khác đang giúp từng đứa trẻ lên xe kéo an toàn, ủ chúng vào lớp chăn lông thú ấm áp; cô nhìn thấy Farder Coram đang lo lắng đốc thúc mọi việc, dựa người vào vây gậy chống, con nhân tinh màu mùa thu nằm trên tuyết, nhìn ngược nhìn xuôi.
“Farder Coram!” Lyra gọi to. “Cháu ở đây!” Ông già nghe tiếng và quay sang thích thú nhìn chiếc khinh khí cầu nối với sợi dây thừng và mấy phù thuỷ đang kéo xuống, Lyra đang vẫy rối rít trong chiếc giỏ.
“Lyra!” Ông gọi to. “Cháu an toàn chứ, cô bé? Cháu có an toàn không?”
“Cháu vẫn an toàn!” Cô hét lên trả lời. “Chào ông, Farder Coram! Chào ông! Ông đưa tất cả các bạn ấy về nhà nhé!”
“Chúng ta sẽ làm thế, chắc chắn như chuyện đang sống vậy! Cháu đi thuận buồm xuôi gió nhé, cô bé của ta — đi thuận buồm xuôi gió — đi thuận buồm xuôi gió, cháu cưng…”
Cùng lúc đó người lái khinh khí cầu hạ tay xuống ra hiệu những phù thuỷ thả sợi dây ra.
Chiếc khinh khí cầu nâng lên ngay lập tức và bay lên vùng không gian dày đặc tuyết vối tốc độ Lyra không thể tin nổi. Một lát sau, lặt đất đã biến mất trong sương mù, họ lên cao, ngày càng nhanh hơn, đến mức cô nghĩ không có tên lửa nào có thể rời khỏi mặt đất nhanh đến thế. Cô nằm xuống bên Roger trên sàn chiếc giỏ, bị éo chặt bởi tốc độ ngày càng tăng cao.
Lee Scoresby đang vui, đứng cười nói và ngân nga những tiếng kêu thích thú của người Texas; Iorek Byrnison đang lặng lẽ cởi bộ áo giáp sắt, khéo léo lồng móng vuốt vào tất cả các mối nối và tháo chúng ra chỉ bằng một lần rút trước khi gói các tấm kim loại lại thành một gói. Đâu đó bên ngoài, tiếng không khí phần phật, vun vút qua những cành thông mây và những tấm thảm bay cho biết các phù thuỷ vẫn bay theo họ lên cao.
Lyra dần lấy lại được hơi thở, cân bằng và nhịp tim. Cô đứng lên nhìn xung quanh.
Chiếc giỏ rộng hơn cô tưởng tượng rất nhiều. Xếp viền xung quanh là các thiết bị khoa học, có những đống đồ lông thú, không khí đóng chai và rất nhiều những thứ khác quá nhỏ bé và rối rắm để nhận ra trong làn sương mù dày đặc họ đang đi qua.
“Đây có phải là một đám mây không?” cô hỏi.
“Chắc rồi. Hãy cuộn bạn của cháu lại trong những tấm lông thú trước khi cậu ấy đóng băng. Ở đây rất lạnh, nhưng sẽ còn lạnh hơn nữa đấy.”
“Làm thế nào bác tìm được chúng cháu?”
“Các phù thuỷ. Có một bà phù thuỷ muốn nói chuyện với cháu đấy. Khi chúng ta ra khỏi các đám mây, chúng ta sẽ lấy lại trang thái cân bằng, lúc đó có thể ngồi xuống và hàn huyên một chút.”
“Iorek,” Lyra nói, “Cảm ơn vì anh đã đến.”
Con gấu kêu khụt khịt, ngồi xuống và liếm những vết máu trên lông. Sức nặng của nó khiến chiếc giỏ nghiêng sang một bên, nhưng như thế cũng không sao. Roger trông rất cảnh giác, nhưng Iorek Byrnison chẳng quan tâm đến nó nhiều hơn một bông tuyết. Lyra tự hài lòng với việc bám vào thành giỏ ngay phía dưới mà mình khi đứng, và mở to mắt nhìn ra những đám mây bên ngoài đang bay cuồn cuộn.
Chỉ mấy giây sau, chiếc khinh khí cầu bay qua đám mây, nó vẫn bay lên cao với tốc độ chóng mặt, vút lên bầu trời.
Cảnh tượng mới tuyệt làm sao!
Ngay phía trên đầu họ là chiếc khinh khí cầu phình to thành một đường cong vĩ đại. Phía trên và trước mặt họ là hiện tượng cực quang đang chiếu sáng, rực rỡ và hùng vĩ hơn tất cả những lần cô được chiêm ngưỡng trước đó. Ánh sáng ở khắp mọi nơi, hay gần như, họ là một phần của nó. Những dải ánh sáng lớn rung rinh, đung đưa như những đôi cánh thiên thần đang vẫy, những vầng hào quang của tầng phát quang nhào xuống những vách đá vô hình rồi nằm trên những chiếc bể xoáy lốc hay treo lên như những thác nước khổng lồ.
Lyra nhìn mê mài, rồi cô trông xuống phía dưới, và thấy một cảnh tượng thậm chí còn tuyệt diệu hơn.
Ở phía xa, đến tận đường chân trời theo các hướng khác nhau, một đại dương cuồn cuộn những ngọn sóng không màu mở rộng không có điểm dừng. Những đỉnh nhọn mềm mại hay những khe nứt nhô lên hay nở ra khắp mọi nơi, nhưng trông nó hầu như giống một khối băng khổng lồ.
Bay qua đó đơn lẻ hay theo từng nhóm là những bóng đen nhỏ, những chiếc bóng tả tơi duyên dáng, những phù thuỷ đang cưỡi trên những cành thông mây của mình.
Họ bay rất nhanh, rất nhẹ nhàng không cần cố sức, lên cao và về phía chiếc khinh khí cầu, bay dọc hai bên dẫn đường. Một trong số đó, người đã bắn cung cứu Lyra khỏi tay bà Coulter, bay thẳng đến bên chiếc giỏ, và lần đầu tiên Lyra được nhìn bà ta được rõ.
Bà ấy còn trẻ, trẻ hơn bà Coulter, và rất đẹp, với đôi mắt màu xanh lá cây lấp lánh, áo choàng lạu đen như tất cả các phù thuỷ khác, nhưng không có thứ đồ lông thú, mũ trùm hay bao tay nào cả. Dường như bà ấy không hề cảm thấy chút lạnh. Quanh trán bà là một vành hoa nhỏ màu đỏ giản dị. Bà ngồi trên cành thông mây của mình như thể nó là một con ngựa, và đang ghìm cương ngựa trong khi Lyra ngây người nhìn.
“Lyra phải không?”
“Vâng! Còn bà là Serafina Pekkala?”
“Chính là tôi đây.”
Lyra có thể hiểu vì sao Farder Coram yêu bà, và tại sao điều đó lại làm trái tim ông ta tan nát, dù chỉ một lúc trước đây thôi cô không hề biết cả hai điều này. Ông đang già đi, ông chỉ lả một người đàn ông già yếu, còn bà sẽ trẻ mãi không già.
“Cháu có giữ chiếc máy đọc biểu tượng đúng không?” bà phù thuỷ nói bằng chất giọng giống như tiếng hát thánh thót của hiện tượng cực quang khiến Lyra khó lòng nhận ra cảm giác về âm thanh ngọt ngào của nó.
“Vâng. Cháu để nó trong túi áo, nó vẫn an toàn.”
Tiếng đập cánh rất lớn cho thấy có ai đó đang bay tới, rồi nó lướt đến bên bà: con nhân tinh ngỗng xám. Nó nói nhanh rồi quay đi lượn vòng quanh chiếc khinh khí cầu vẫn tiếp tục lên cao.
“Những người Gypsy đã phá tan Bolvangar.” Serafina Pekkala nói. “Họ đã hạ được hai mươi hai lính canh và chín nhân viên, họ châm lửa đốt tất cả những phần còn chưa sụp đổ của toà nhà. Họ sẽ phá huỷ nó hoàn toàn.”
“Thế còn bà Coulter?”
“Không thấy tin tức gì của bà ta cả.”
Bà kêu to một tiếng, những phù thuỷ khác lượn vòng rồi bay đến chiếc khinh khí cầu.
“Ông Scoresby.” Serafina nói, “quăng dây thừng cho chúng tôi nếu ông muốn.”
“Thưa bà, tôi rất hân hạnh. Chúng tôi vẫn đang lên cao, tôi đoán chúng tôi sẽ lên cao thêm một chút nữa. Sẽ cần bao nhiêu người phía bà để kéo chúng tôi về phía bắc?”
“Chúng tôi rất khoẻ,” bà chỉ nói có vậy.
Lee Scoresby đang buộc một đoạn dây thừng to vào một chiếc vòng kim loại đang tập hợp tất cả những dây thừng bao quanh chiếc túi đựng khí, nhờ đó chiếc giỏ được treo lơ lửng. Khi nó đã được cố định lại an toàn, ông ném đầu dây còn lại ra, ngay lập tức sáu phù thuỷ bay đến, bắt lấy, và bắt đầu kéo, thúc những cành thông mây bay về phía Sao Bắc cực.
Khi chiếc khinh khí cầu bắt đầu bay theo hướng đó, Pantalaimon đến đậu trên thành giỏ trong hình dạng một con nhạn biển. Nhân tinh của Lyra ra ngoài nhìn ngó xung quanh, nhưng bò vào ngay, vì Roger đang nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, giống Iorek Byrnison. Chỉ có Lee Scoresby là còn thức, lặng lẽ nhai một điếu xì gà dài và nhìn ngắm các thiết bị đo đặc của mình.
“Vậy là, Lyra,” Serafina Pekkala nói, “cháu có biết tại sao cháu phải đến chỗ ngài Asriel không?”
Lyra ngạc nhiên: “Để đưa ông ấy Chân-kế, tất nhiên là vậy rồi!” cô nói.
Cô chưa bao giờ nghĩ đến câu trả lời, nó đã quá hiển nhiên. Bà đã gợi cho cô động lực đầu tiên, điều cô gần như đã quên bẵng từ lâu.
“Hoặc là… để giúp ông ấy trốn thoát. Thế đấy ạ. Chúng cháu sẽ giúp ông ấy thoát ra.”
Nhưng nói xong, cô thấy nghe có vẻ buồn cười. Trốn thoát khỏi Svalbard? Điều đó là không thể!
“Dù sao, cũng phải thử chứ.” Cô nói thêm với vẻ cứng cỏi. “Tại sao bà hỏi vậy?”
“Ta nghĩ có những điều ta cần nói với cháu.” Serafina Pekkala nói.
“Về Bụi phải không ạ?”
Đó là điều đầu tiên Lyra muốn biết.
“Đúng vậy, cùng với những điều khác nữa. Nhưng giờ cháu mệt rồi, và đó sẽ là một cuộc chiến đấu lâu dài. Chúng ta sẽ nói chuyện khi nào cháu ngủ dậy.”
Lyra ngáp dài một cái khiến xương quai hàm kêu răng rắc và phổi bị ép lại kéo dài đến một phút hoặc cảm tưởng là lâu đến thế, cô không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ. Serafina Pekkala đưa một tay qua gờ chiếc giỏ và chạm vào mắt cô. Khi Lyra nằm xuống sàn, Pantalaimon bay xuống, biến thành chồn ecmin, bò vào chỗ ngủ quen thuộc bên cổ cô.
Bà phù thuỷ cho cành thông mây bay nhanh bên chiếc giỏ trong khi nó bay về phía bắc đến Svalbard.