Ánh sáng phương Bắc (Tập 2) - Phần III - Chương 18 - Phần 2
Serafina Pekkala không nói gì một lúc lâu. Pantalaimon biến thành một con nhạn biển và bay đến đậu bên chủ.
Rồi Lyra lại hỏi: “Tại sao con người lại có nhân tính, Serafina Pekkala?”
“Ai cũng hỏi như vậy, và không có ai biết câu trả lời. Cho đến khi còn tồn tại con người thì vẫn còn những con nhân tinh. Đó là điều làm cho chúng ta khác biệt với động vật.”
“Vâng! Đúng là chúng ta khác biệt với chúng… Như những con gấu ấy. Người ta nghĩ nó giống con người, rồi đột nhiên nó làm điều gì đó rất kì lạ hay độc ác mà con người không thể hiểu nổi… Nhưng bà có biết Iorek nói gì với cháu không, rằng anh ấy bộ áo giáp sắt cũng giống như con nhân tinh với loài người vậy. Đó là linh hồn của anh ấy, anh ấy nói thế. Nhưng điều này cũng lại khác so với con người, vì chính anh ấy đã tạo ra bộ áo giáp sắt cho chính mình. Họ cướp bộ áo giáp sắt đầu tiên của anh ấy khi bắt anh ấy đi đày, rồi anh ấy tìm được những mảnh kim loại của bầu trời và làm một bộ áo giáp sắt mới, như tạo ra một linh hồn mới. Chúng ta không thể tạo ra con nhân tinh. Rồi những người ở Trollesund chuốc cho anh ấy say rượu và ăn cắp nó mang đi, rồi cháu tìm được chỗ người ta giấu nó và anh ấy mang nó về… Nhưng điều cháu thắc mắc là, tại sao anh ấy lại đến Svalbard? Họ sẽ đánh anh ấy. Có thể họ sẽ giết anh ấy… Cháu yêu quý Iorek. Cháu yêu anh ấy rất nhiều và ước gì anh ấy đừng đến đây.”
“Anh ta đã nói với cháu anh ta là ai chưa?”
“Chỉ nói mỗi tên thôi. Tên anh ấy là do ông Lãnh sự ở Trollesund nói cho chúng cháu biết.”
“Anh ta thuộc dòng dõi hoàng gia đấy. Anh ta là một hoàng tử. Thực ra, nếu không phạm tội. giờ đây anh ta đã là vua rồi.”
“Anh ấy nói với cháu vua của những con gấu là Iofur Raknison.”
“Iofur Raknison trở thành vua sau khi Iorek Byrnison bị đi đày. Iofur là một hoàng tử, tất nhiên. Ông ta không có được vương quyền nhưng ông ta thông minh như con người. Ông ta lôi kéo đồng minh và có những thỏa thuận. Ông ta không sống theo cách của những con gấu, trong một pháo đài tuyết, mà trong một cung điện xây dựng theo kiểu mới. Ông ta đàm phán để trao đổi đại sứ với các quốc gia của con người và phát triển các mỏ than với sự trợ giúp từ máy móc của loài người… Ông ta rất khôn ngoan và xảo quyệt. Có người nói ông ta đã kích động khiến Iorek phạm vào tội đi đày này, còn những người khác nói, thậm chí nếu ông ta không làm thế, ông ta cũng khiến họ nghĩ là ông ta đã làm. Vì chuyện này làm tăn thêm danh tiếng về mánh khóe và sự quỷ quyệt của ông ta.”
“Iorek đã làm gì? Bà biết không, một lí do để cháu yêu Iorek, đó là cha cháu cũng làm những điều anh ấy làm và bị trừng phạt. Dường như với cháu, họ rất giống nhau. Iorek nói anh ấy đã giết một con gấu khác, nhưng không bao giờ kể mọi chuyện xảy ra như thế nào.”
“Chuyện xảy ra là vì một con gấu cái. Con gấu đực mà Iorek Byrnison giết đã không thể hiện những tín hiệu run sợ thông thường khi rõ ràng là Iorek Byrnison mạnh hơn. Những con gấu bao giờ cũng nhận thấy một sức mạnh lấn át từ con gấu khác và run sợ trước sức mạnh đó, nhưng vì một lí do nào đó con gấu này lại không làm như vậy. Có người nói Iofur Raknison đã xúi giục, hay đưa cho anh ta một loại thảo dược gây nhầm lẫn nào đó. Dù thế nào, con gấu kia cũng khăng khăng cố chấp, và Iorek Byrnison dã cho phép cơn thịnh nộ chế ngự mình. Vụ án không có gì là phức tạp, đáng ra con gấu kia chỉ nên bị thương, không nên bị giết.”
“Nếu không anh ấy đã là vua,” Lyra nói. “Và cháu đã nghe được điều gì đó về Iofur Raknison từ Giáo sư Palmerian ở Jordan, vì ông ấy đã lên phương Bắc và gặp ông ta. Ông ấy nói… giá mà cháu nhớ được ông ấy nói gì… Cháu nghĩ là giáo sư nói ông ta đã lừa đảo để có được ngai vàng hay sao đó… nhưng bà biết không, Iorek Byrnison từng một lần nói với cháu rằng một con gấu không thể bị lừa, anh ấy đã cho cháu thấy rằng cháu không thể lừa nổi anh ấy. Nghe có vẻ như cả hai bọn họ đã bị lừa, anh ấy và con gấu kia. Có thể chỉ có gấu mới lừa được gấu, có thể loài người không thể lừa được chúng. Ngoại trừ… những người ở Trollesund, họ đã lừa anh ấy phải không? Khi họ chuốc cho anh ấy say và ăn cắp bộ áo giáp sắt của anh ấy?”
“Khi những con gấu xử sự như con người, có thể chúng cũng bị lừa,” Serafina Pekkala nói. “Khi những con gấu xử sự như những con gấu, có thể chúng không bị lừa. Thường thì không có con gấu nào có thể uống rượu. Iorek Byrnison uống để quên đi nỗi hổ thẹn bị đi đày, chính vì thế người ở Trollesund mới lừa được anh ta.”
“À, đúng rồi.” Lyra nói, gật gật đầu. Cô hài lòng với ý kiến này. Sự ngưỡng mộ của cô đối với Iorek Byrnison dường như là không có giới hạn, cô rất sung sướng khi có thể khẳng định được về sự cao quý của nó. “Bà thật là thông minh,” cô nói. “Nếu bà không nói có lẽ cháu chẳng bao giờ biết cả. Cháu nghĩ có lẽ bà còn thông minh hơn cả bà Coulter.”
Họ tiếp tục bay, Lyra nhai một mẩu thịt hải cẩu cô tìm thấy trong túi áo.
“Serafina Pekkala,” một lúc sau cô nói, “Bụi là gì vậy? Vì dường như với cháu, tất cả những rắc rối này đều do Bụi gây ra, mà chẳng có ai nói với cháu nó là gì cả.”
“Ta không biết,” Serafina Pekkala nói với cô. “Các phù thủy không có gì phải lo lắng về Bụi. Tất cả những gì ta có thể nói là nơi nào còn có các thầy tu thì ở đó còn có sự sợ hãi về Bụi. Bà Coulter không phải là một thầy tu, tất nhiên là thế, nhưng bà ta là một mắt xích quan trọng của Tổng giáo giám mục, chính bà ấy là người lập nên Ủy ban Tôn giáo và thuyết phục Giáo hội chi tiền cho những hoạt động diễn ra tại Bolvangar, vì bà ta quan tâm đến Bụi. Chúng tôi không thể hiểu được những cảm nhận của bà ta về nó. Nhưng có rất nhiều chuyện chúng ta chẳng bao giờ hiểu được. Chúng ta nhìn thấy người Tartar đục những cái lỗ trên xương sọ, chúng ta chỉ có thể thắc mắc về sự kỳ quặc của việc đó. Vì thế có thể Bụi là kì lạ, và chúng ta thắc mắc về nó, nhưng chúng ta không bực dọc xé cái gì đó ra để nghiên cứu nó. Hãy để việc đó cho Giáo hội.”
“Giáo hội?” Lyra hỏi. Có điều gì đó gợi lại trong cô: cô nhớ lại cuộc nói chuyện với Pantalaimon, trong Vùng đầm lầy, về cái gì đó có thể đang khiến những chiếc kim của Chân-kế chuyển dịch và họ nghĩ đến chiếc máy đo ánh sáng để trên mái trần cao tại Học viện Thánh Gabriel, làm thế nào các hạt cơ bản có thể làm xoay chiếc chong chóng gió. Người Trợ lễ biết rõ về mối liên hệ giữa các hạt cơ bản và tôn giáo. “Có thể là như vậy.” Cô nói và gật đầu. “Rốt cuộc thì người ta đều giữ bí mật tất cả những thứ thuộc về Giáo hội. Nhưng hầu hết những thứ thộc về Giáo hội đều cũ kỹ. Bụi thì không cũ, theo những gì cháu được biết. Cháu tự hỏi không biết ngài Asriel có nói với cháu…”
Cô lại ngáp dài.
“Tốt hơn là cháu nằm xuống,” cô nói với Serafina Pekkala, “nếu không có lẽ cháu bị tê cóng mất.”
“Lúc ở dưới đất cháu đã bị lạnh. Nhưng cháu chưa bao giờ ở một nơi lạnh như thế này. Cháu nghĩ cháu sẽ chết mất nếu không khí còn lạnh thêm.”
“Vậy hãy nằm xuống và cuộn mình trong lớp lông thú.”
“Vâng, cháu sẽ làm thế. Nếu cháu phải chết, thà chết ở trên này còn hơn ở dưới đấy, nếu có ngày đó. Cháu nghĩ khi người ta đặt chúng cháu dưới lưỡi dao đó, cháu tưởng đã… Cả hai bọn cháu đều nghĩ thế. Ôi, thật là khủng khiếp. Nhưng giờ bọn cháu sẽ nằm xuống. Hãy đánh thức chúng cháu khi đến đó nhé,” cô nói và ngả người xuống đống lông thú, khắp người mỏi nhừ, đau nhức bởi không khí lạnh ghê gớm. Cô nằm thật sát cạnh Roger đang ngủ.
Và rồi bốn nhà du hành tiếp tục đi. Họ thiếp đi trong chiếc khinh khí cầu phủ đầy băng tuyết, bay về phía những mỏm đá và sông băng, những mỏ than và những pháo đài tuyết ở Svalbard.
***
Serafina Pekkala gọi người lại khinh khí cầu, ông thức dậy ngay lập tức người lảo đảo vì lạnh, nhưng qua chuyển động của chiếc giỏ, ông nhận thấy có gì không ổn. Nó đang lắc lư dữ dội khi những cơn gió mạnh thổi qua chiếc túi đựng khí, những phù thủy đang kéo những sợi dây thừng khó lòng giữ được nó. Nếu họ thả tay ra, chiếc khinh khí cầu có thể văng đi ngay lập tức, liếc mắt vào la bàn, ông tính toán nó có thể văng về phía Nova Zembla với tốc độ gần một trăm dặm một giờ.
“Chúng ta đang ở đâu?” Lyra nghe thấy ông gọi. Cô cũng đang lơ mơ, cảm thấy khó chiu bởi chuyển động của khinh khí cầu, và lạnh đến nỗi khắp người tê cóng.
Cô không nghe được tiếng bà phù thủy trả lời, nhưng qua chiếc mũ chùm mở ra một nửa, cô nhìn thấy, trong ánh sáng cảu một ngọn đèn cồn, Lê Scoresby đang giữ thanh chống và kéo sợi dây thừng ròng trên chiếc túi khí. Ông ghì chặt và nhìn lên đêm tối đang lồng lộn trước khi vòng sợi dây vào chiếc vòng treo.
“Tôi sẽ xả một ít khí ra,” ông hét lên với Serafina Pekkala. “Chúng ta sẽ xuống thấp. Chúng ta đang ở trên cao quá.”
Bà phù thủy hét to đáp lại, nhưng Lyra vẫn không nghe được. Roger cũng đã tỉnh dậy. Tiếng kẽo kẹt của chiếc giỏ to đến nỗi đủ để đánh thức người ngủ say nhất, chưa nói đến sự rung và xóc nảy người. Nhân tinh của Roger và Pantalaimon bám chặt vào nhau như những con khỉ đuôi sóc, Lyra cố tập trung vào việc nằm im để không nhảy lên vì hoảng sợ.
“Không sao đâu,” Roger nói, nghe giọng có vẻ vui vẻ hơn cô rất nhiều. “Chúng ta sẽ hạ cánh sớm thôi rồi đốt lửa và sưởi ấm. Mình có mấy que diêm trong túi. Mình thó được trong nhà bếp ở Bolvangar đấy.”
Chiếc khinh khí cầu đã hại xuống chút ít. Những mảnh vụn và đám bùi nhùi bay đầy vào trong giỏ, rồi tất cả mọi thứ đều tói mịt. Nó như một màn sương dày đặc nhất. Lyra từng nhìn thấy. Sau một lúc có tiếng hét của Serafina Pekkala, người lái khinh khí cầu tháo sợi dây thừng cuộn quanh chiếc cọc và thả ra. Nó rút lên trên qua tay ông, tiếng kẽo kẹt và tiếng gió rít, Lyra cảm nhận thấy một cú đập mạnh ở cao phía trên đầu.
Lee Scoresby nhìn thấy đôi mắt đang mở to của cô.
“Đó là chiếc van khí,” ông hét to, “nó giữ khí gas bên trong. Khi chúng ta kéo nó xuống, khí sẽ thoát ra từ phía trên, chúng ta mất độ cao và đi xuống.”
“Thế chúng ta đã gần…”
Cô chưa kịp nói hết câu, vì một điều khủng khiếp đã xảy ra. Một sinh vật to bằng nửa người thường, có đôi cánh bằng da thịt và chân có móng vuốt đang bò lên thành giỏ về phía Lee Scoresby. Nó có đầu dẹt, hai mắt lồi và cái miệng nhái rộng ngoác, từ mình nó bốc lên một thứ mùi hôi thối thật tởm lợm. Lyra không có thời gian để hét lên, trước khi Iorek Byrnison lao tới và quật nó văng đi. Nó rơi khỏi giỏ và biến mất sau một tiếng rít.
“Kền kền núi.” Iorek nói ngắn gọn.
Tiếp theo đó, Serafina Pekkala xuất hiện và bám vào một bên thành giỏ, nói gấp gáp.
“Những con kền núi đang tấn công. Chúng tôi sẽ đưa chiếc khinh khí cầu xuống dưới đất, và sau đó chúng ta sẽ phải tự bảo vệ mình. Chúng…”
Nhưng Lyra không nghe thấy tiếng bà nói gì tiếp theo, vì có tiếng giăng xé, và tất cả nghiêng sang một bên. Rồi một luồng gió đẩy mạnh cả ba người vào một bên khinh khí cầu nơi treo bộ áo giáp sắt của Iorek Byrnison. Iorek đặt một bàn tay to lớn lên giữ nó vì chiếc giỏ đang lắc lư dữ dội. Serafina Pekkala đã biến mất. Những âm thanh thật ghê rợn; vượt lên trên tất cả những âm thanh khác là tiếng rít của những con ma núi. Lyra nhìn thấy chúng lao qua, và ngửi thấy mùi hôi hám bốc lên từ chúng.
Tiếp theo là một cú chao đảo nữa, rồi nó đột ngột ném mọi người xuống sàn, rồi chiếc giỏ lao xuống với một tốc độ đáng sợ, xoay vòng liên tục. Có cảm giác như nó bị giằng khỏi khinh khí cầu và đang rơi xuống không gì ngăn lại nổi; tiếp đến là những cú lắp lư và va chạm khác, chiếc giỏ đang tròng trành dữ dội từ bên này sang bên kia như thể họ đang nảy lên trên những bức tường đá.
Cảnh tượng cuối cùng có thể nhìn thấy là Lee Scoresby đang bắn khẩu súng lục vào mặt một con kền núi; rồi cô nhắm chặt mắt lại, bíu chặt lấy bộ lông Iorek Byrnison trong cơn hoảng hốt tột cùng. Những tiếng gầm, tiếng rít, tiếng gió gào thét, tiếng kẽo kẹt của chiếc giỏ như một con vật đang bị thương, khắp nới tràn ngập những âm thanh khủng khiếp và hoang dại.
Tiếp đến là một cú lắc mạnh chưa từng thấy, cô thấy mình văng ra ngoài. Bàn tay đang bám của cô rời ra, tim cô như thể bật ra ngoài khi cô hạ cánh trong tình trạng không biết đâu là trên đâu là dưới, khuôn mặt ẩn sau chiếc mũ chùm đầu buộc chặt của cô bám đầy bụi, những thứ khô, lạnh, trong suốt.
Đó là tuyết, cô đã rơi xuống một đống tuyết. Cô ê ẩm đến nỗi gần như không suy nghĩ được nữa. Cô nằm thẳng đờ nhiều giây rồi mệt mỏi nhổ tuyết ra khỏi miệng, cô vũng vẫy yếu ớt cho đến khi có chút không gian để thở.
Dường như không có chỗ nào bị đau nghiêm trọng, cô chỉ cảm thấy rất khó thở. Cô thận trọng thử di chuyển, nhúc nhích chân, bàn tay, cánh tay, cẳng chân và ngẩng đầu lên. Cô nhìn được rất ít vì chiếc mũ chùm đầu vẫn dính đầy tuyết. Cô cố gắng hết sức, hai bàn tay nặng như chì, gạt tuyết ra và nhìn quanh. Cô nhìn thấy một thế giới màu xám, xám nhạt, xám đen, những mảng tuyết bay qua, bay lại như những hồn ma.
Những âm thanh duy nhất cô nghe thấy được là những tiếng rít xa xa của bọn kền núi, tiếng gió đập váo vách núi gần đó.
“Iorek!” cô kêu lên. Giọng cô yếu ớt và run rẩy. Cô thử lại nhưng không có tiếng đáp. “Roger!” cô gọi, cũng không có lời đáp.
Có lẽ cô chỉ còn một mình trong thế giới này, nhưng tất nhiên là không bao giờ như thế. Pantalaimon bò ra khỏi áo choàng của cô trong hình dạng một con chuột để làm bạn với cô.
“Mình đã kiểm tra Chân-kế,” nó nói. “Ổn cả. Không có chỗ nào bị vỡ.”
“Chúng mình bị lạc rồi, Pan!” cô nói. “Cậu có trông thấy những con kền núi đó không? Lee Scoresby đã bắn chúng à? Chúa cứu rỗi nếu chúng mò xuống tận đây…”
“Tốt hơn là chúng mình phải tìm chiếc giỏ,” nó nói, “có lẽ là vậy.”
“Chúng mình tốt hơn chớ nên gọi to,” cô nói. “Mình vừa làm thế, nhưng có lẽ tốt hơn đừng, phòng trường hợp chúng nghe được. Uớc gì biết được bọn mình đang ở đâu.”
“Có thể bọn mình sẽ không thích nếu biết nơi này là đâu,” nó giảng giải. “Có thể chúng ta đang ở dưới chân một vách núi không có đường ra, và có những con kền núi đứng trên đỉnh sẽ nhìn thấy chúng ta một khi sương tan.”
Cô nhìn ra xung quanh sau khi đã nghỉ ngơi thêm mấy phút nữa và nhận thấy mình đã rơi vào một khoảng trống giữa hai ngọn núi phủ đầy tuyết. Băng giá bao trùm mọi nơi; một bên là tiếng gió đập vào vách đá cách vài chục mét, dù có vẻ đã giảm đi chút ít. Cô chỉ nhìn được hai đến ba mét trong bóng tối, ngay cả đôi mắt tinh như cú vọ của Pantalaimon cũng chẳng giúp ích được gì.
Cô chật vật tìm đường, bò và trườn trên những mỏm đá sắc thô ráp và nhận thấy chẳng có gì khác ngoài núi đá và băng tuyết, không thấy dấu hiệu nào của chiếc khinh khí cầu hay của những người ngồi trên đó.
“Họ không thể đều biến mất được,” cô thì thầm.
Pantalaimon mò mẫm thêm một chút trong hình dạng mèo hoang và đụng vào bốn túi cát đã vỡ ra, cát bên trong đã đông cứng lại.
“Những bao cát.” Lyra nói. “Chắc ông ấy đã ném nó xuống để lại bay lên.”
Cô nuốt mạnh cục nước bọt trong cổ họng, hoặc nỗi sợ hãi trong ngực, hoặc cả hai.
“Ôi Chúa ơi, mình sợ quá,” cô nói. “Mình hy vọng họ an toàn.”
Pantalaimon quay trở lại vòng tay cô và biến thành một con chuột, bò vào mũ chùm của chủ nơi không ai nhìn thấy, cô nghe thấy một âm thanh, có gì đó đang đạp vào vách đá và quay lại nhìn.
“Iorek!”
Nhưng cô ghìm lại không nói hết, vì đó hoàn toàn không phải Iorek Byrnison. Đó là một con gấu lạ mặc một bộ áo giáp sắt đánh bóng, những hạt sương đọng trên đó đã đóng băng, và một chiếc lông vũ cắm trên chiếc mũ sắt đội đầu.
Họ vẫn đứng, cách nhau khoảng chục mét, cô nghĩ số phận mình thực sự đã kết thúc.
Con gấu mở miệng và rống lên. Một tiếng dội lại từ những vách đá và còn rung động từ rất xa phía trên. Từ trong màn sương mù hiện lên một con gấu, rồi một con nữa. Lyra vẫn đứng im, nắm chặt bàn tay lại.