Ánh sáng phương Bắc (Tập 2) - Phần III - Chương 21 - Phần 2
Ông không có dấu hiệu gì để lấy nó, và cô để nó trên chiếc khay đồng chắn than quanh lò sưởi.
“Con nghĩ là con nên nói cho cha biết bà Coulter đang trên đường đến Svalbard. Ngay khi nghe tin điều đã xảy đến với Iofur Raknison, bà ấy sẽ lên đường đến đây. Trong một chiếc khí cầu, với rất nhiều quân lính, họ sẽ giết tất cả chúng ta, theo lệnh của Tổng giáo giám mục.”
“Họ sẽ không bao giờ đến được chỗ chúng ta,” ông bình thản nói.
Ông lặng lẽ và thư thái đến nỗi cơn giận dữ của cô nguội đi phần nào.
“Cha không biết đâu,” cô nói với vẻ không chắc chắn.
“Ta biết chứ.”
“Vậy là cha có một Chân-kế khác phải không?”
“Ta không cần đến một Chân-kế để biết được điều này. Giờ thì ta muốn nghe về chuyến đi của con tại đây, Lyra. Hãy kể từ đầu. Ta muốn nghe tất cả.”
Vậy là cô kể. Cô bắt đầu từ việc trốn trong Phòng nghỉ, tiếp tục với việc bọn gà trống tây bắt mất Roger, thời gian ở cùng bà Coulter, và tất cả việc xảy ra khác.
Đó là một câu chuyện dài, khi kể xong cô nói:
“Vậy còn một điều con muốn biết, và con đoán mình có quyền được biết, như con có quyền biết mình thực sự là ai. Và nếu cha đã không cho con biết chuyện đó, hãy nói con biết điều này, để bù lại. Đó là: Bụi là gì? Và tại sao tất cả mọi người đều sợ nó?”
Ông nhìn cô chằm chằm như thể đang đoán xem cô có hiểu được điều ông sắp nói hay không. Trước đây, ông chưa bao giờ nhìn cô chăm chú, cô nghĩ; cho đến bây giờ ông vẫn luôn giống một người lớn làm thỏa mãn đứa trẻ bằng trò lường gạt tài tình. Nhưng có lẽ ông nghĩ cô đã đủ lớn để biết.
“Bụi là thứ làm Chân-kế hoạt động.”
“À… Con đã nghĩ như thế! Nhưng còn gì nữa? Làm sao họ tìm thấy nó?”
“Ở một khía cạnh nào đó. Giáo hội luôn quan tâm đến nó. Họ đã thuyết giáo về nó nhiều thế kỉ nay, có điều không gọi nó bằng tên này.
“Nhưng vài năm trước, một người Moscow tên là Boris Mikhailovich Rusakov khám phá ra một loại hạt cơ bản mới. Con đã nghe về electron, photon, neutron và những loại hạt cơ bản khác rồi chứ? Chúng được gọi là các hạt cơ bản vì con không thể phá vỡ chúng nhỏ thêm được nữa: không có gì ở bên trong chúng ngoài chính chúng. Đó, loại hạt mới này đúng là hạt cơ bản, nhưng rất khó đo đếm vì nó không phản ứng theo bất cứ những cách thông thường nào. Điều khó hiểu nhất đối với Rusakov là tại sao loại hạt mới này lại tụm lại ở những nơi có người, như thể chúng bị hút vào chúng ta. Mà đặc biệt là với người lớn. Trẻ con cũng có nhưng không nhiều lắm cho đến khi nhân tinh của chúng cố định lại hình dáng. Trong suốt những năm ở tuổi dậy thì, chúng trở nên hút Bụi rất mạnh, và nó phủ lên người chúng nhiều như người lớn.
“Giờ đây, tất cả những khám phá về thể loại này, vì chúng có liên quan đến học thuyết của giáo hội, phải được thông báo lên Tổng giáo giám mục tại Geneva. Khám phá này của Rusakov kỳ lạ và phi lý đến nỗi thanh tra viên của Tòa án kỷ luật Tôn giáo nghi ngờ Rusakov thuộc thế giới ma quỷ. Ông ta niệm thần chú trong phòng thí nghiệm, ông ta chất vấn Rusakov theo những quy tắc của Tòa án dị giáo, nhưng cuối cùng người ta phải công nhận thực tế rằng Rusakov đã không nói dối hay lừa gạt: Bụi thực sự tồn tại.
Việc này đặt họ trước một vấn đề là quyết định nó là cái gì. Và với bản chất của giáo hội, chỉ có một điều duy nhất để chọn lựa. Tổng giáo giám mục quyết định rằng Bụi là bằng chứng hiển nhiên của tội lỗi căn nguyên. Con có biết tội lỗi căn nguyên là gì không?”
Cô mím môi, thật giống như quay trở lại Jordan, bị đố những điều cô chỉ học rất lơ mơ. “Một thứ gì đó,” cô nói.
“Không, con không biết rồi. Hãy đến chiếc giá sách bên cạnh bàn và mang cho ta cuốn Kinh thánh.”
Lyra làm theo và đưa cho cha mình cuốn sách lớn màu đen.
“Con có nhớ câu chuyện Adam với Eve không?”
“Có chứ,” cô nói. “Bà ấy không được phép ăn loại trái đó và con rắn đã xúi giục bà, rồi bà đã ăn.”
“Rồi điều gì đã xảy ra?”
“Ừm… Họ đã bị ném xuống trần gian. Chúa đã ném họ khỏi khu vườn.”
“Chúa đã nói họ không được ăn trái cấm, vì nếu thế họ có thể chết, hãy nhớ là, họ khỏa thân trong khu vườn, họ giống như những đứa trẻ, nhân tinh của họ biến thành bất cứ con vật nào chúng muốn. Nhưng đây là điều đã xảy ra.”
Ông lật sang Chương ba trong cuốn “Sáng thế” và đọc:
“Và người phụ nữ nói với con rắn, chúng tôi được phép ăn các loại quả có trong vườn.
Nhưng là quả của loại cây mọc giữa vườn, Chúa đã nói, ngươi không được ăn nó, cũng không được chạm vào nó, nếu không ngươi sẽ chết.
Và con rắn nói với người phụ nữ, cô không chắc là sẽ chết:
“Vì Chúa không biết rằng trong ngày cô ăn nó vào, mắt của cô sẽ được khai mở, con nhân tinh của cô có được hình hài đúng của mình, và cô sẽ giống như những vị thánh, biết được việc thiện việc ác.”
Rồi người phụ nữ thấy cái cây đó ngon lành, rất vui mắt, cái cây sẽ hé lộ hình dáng thật của con nhân tinh, cô nhón lấy thứ quả đó, và ăn, và còn đưa nó cho người chồng của mình, anh ta đã ăn.
Và mắt của hai người được khai mở, họ nhìn thấy hình dạng thật của con nhân tinh của mình, và nói chuyện với chúng.
Nhưng khi người đàn ông và người phụ nữ biết về con nhân tinh của chính mình, họ biết có một thay đổi lớn đã đến, vì cho đến thời khắc đó dường như họ giống hệt mọi sinh vật dưới mặt đất lẫn trên bầu trời, và không có gì khác biệt giữa họ:
Rồi họ đã nhìn thấy sự khác biệt, và giờ họ đã biết cái tốt và cái xấu; họ thấy xấu hổ, và họ khâu những chiếc lá với nhau để che đậy sự trần truồng của mình…”
Ông gập cuốn sách lại.
“Đó chính là cách tội lỗi đến với thế giới,” ông nói. “Tội lỗi, sự hổ thẹn và cái chết. Nó đến khi con nhân tinh của họ cố định lại hình dáng.”
“Nhưng…” Lyra cố gắng tìm từ mình muốn nói. “Nhưng như thế không đúng, phải không? Nó không giống như ngành hóa học hay cơ khí học. Không thực sự có Adam và Eve? Học giả Cassington nói với con rằng đó chỉ là một loại truyện cổ tích.”
“Học giả Cassington được coi là một nhà tư tưởng tự do. Công việc của ông ta là thách thức niềm tin của các Học giả. Tất nhiên ông ta sẽ nói như vậy. Nhưng hãy nghĩ về Adam và Eve như một số ảo, như căn bậc hai của âm một (–1). Con có thể không bao giờ thấy một bằng chứng chắc chắn chứng minh nó tồn tại, nhưng nếu con bảo gồm chúng vào các phép tính của mình, con có thể tính toán tất cả những thứ mà thiếu nó sẽ không tưởng tượng ra được.
Dù sao, đó là điều Giáo hội rao giảng hàng nghìn năm nay. Khi Rusakov phát hiện ra Bụi, cuối cùng cũng có một bằng chứng hiển nhiên rằng có điều gì đó xảy ra khi thời kỳ ngây thơ chuyển sang thời kỳ trưởng thành.
Thật trùng hợp, cuốn Kinh thánh cũng cho chúng ta tên Bụi. Lúc đầu chúng được gọi là hạt Rusakov, nhưng sau đó có người chỉ ra ở phần cuối Chương ba cuốn Sáng thế, lúc Chúa đuổi Adam ra khỏi thiên đường vì ăn trái cấm.”
Ông lại mở cuốn Kinh thánh ra và chỉ cho Lyra xem. Cô đọc:
“Với khuôn mặt đẫm mồ hôi, ngươi sẽ phải ăn bánh mì, cho đến khi ngươi trở về với lòng đất; vì từ đó là thứ ngươi đã lấy đi: thứ bụi mà ngươi sở hữu, và ngươi sẽ trở về với bụi…”
Ngài Asriel nói: “Các học giả của Giáo hội thường bối rối trước bản dịch này. Có người nói không nên dịch là ‘ngươi sẽ trở về với bụi’ mà phải là ‘người sẽ biến thành bụi’, những người khác lại nói cả bản dịch này là một trò chơi chữ với chữ ‘mặt đất’ và ‘bụi,’ và nó thực ra có nghĩa rằng Chúa đang ca ngợi bản chất phần nào tội lỗi của chính mình. Không ai đồng ý cả. Không ai có thể, bởi vì văn bản đã bị mục nát. Nhưng đó là một từ quá đắt giá, thật phí phạm nếu không sử dụng, và đó là lý do loại hạt này được gọi là Bụi.”
“Thế còn bọn Gà trống tây thì sao?” Lyra hỏi.
“Tổng Ủy ban Tôn giáo… băng đảng của mẹ con. Bà ấy đã rất khôn khéo khi giành lấy cơ hội thiết lập nền tảng quyền lực cho mình, nhưng bà ấy là một phụ nữ thông minh, ta dám chắc con cũng nhận thấy như vậy. Tổng giáo giám mục rất thích thú với việc để cho mọi loại tổ chức khác nhau mọc lên như nấm sau mưa. Họ có thể kích cho tổ chức này chống lại tổ chức kia, nếu một trong hai thắng, họ sẽ giả như ủng hộ tổ chúc đó ngay từ đầu, và nếu nó thất bại, họ lại làm như nó là một tổ chức phản bội bị loại bỏ chưa bao giờ được chính thức thừa nhận.
Con thấy đấy, mẹ của con luôn đam mê quyền lực. Đầu tiên bà ấy thử giành lấy nó bằng cách thông thường, qua hôn nhân, nhưng không có tác dụng, ta nghĩ chắc con đã được nghe kể. Vì thế bà ấy phải quay sang Giáo hội. Tất nhiên bà ấy không thể đi theo con đường của một người đàn ông — làm thầy tu hay tương tự như vậy — bà ấy sẽ phải đi theo con đường không chính thức. Bà ấy phải tự thiết lập cho mình một con dường riêng, con đường dẫn đến quyền lực, và đi theo chúng. Sẽ thuận lợi hơn nếu tập trung vào Bụi. Tất cả mọi người đều e sợ nó; không ai biết phải làm gì; và khi bà ấy đề nghị tổ chức một cuộc điều tra nghiên cứu, Tổng giáo giám mục đã thở phào nhẹ nhõm và ủng hộ bà ấy tài lực cũng như mọi loại phương tiện cần thiết.”
“Nhưng bọn họ đang cắt rời…” Lyra không thể ngăn mình nói ra điều đó; từ đó tắc nghẹn trên môi cô. “Cha biết họ đang làm gì rồi đấy! Tại sao Giáo hội lại để họ làm một việc như thế?”
“Có một tiền lệ từ trước. Điều tương tự đã xảy ra trước đây. Con có biết từ ‘thiến’ có nghĩa là gì không? Đó là cắt bỏ bộ phận sinh dục của một cậu bé để nó không thể phát triển những đặc tính của người đàn ông. Một người con trai bị thiến có giọng cao gấp ba mức bình thường trong suốt cuộc đời, diều này được Giáo hội cho phép: nó rất có tác dụng đối với dàn nhạc trong nhà thờ. Một vài người con trai bị thiến trở thành những ca sĩ nổi tiếng thế giới, những nghệ sĩ tài năng. Rất nhiều người chỉ trở thành một người nửa đàn ông nửa đàn bà béo ú và mục rữa. Một số người chết do tác động của cuộc phẫu thuật. Nhưng Giáo hội sẽ không nao núng trước một ca mổ nhỏ, như con thấy đấy. Đã có tiền lệ như vậy rồi. Và như thế còn vệ sinh hơn rất nhiều so với phương pháp cũ, khi chưa có thuốc gây mê và băng vô trùng hay những sự chăm sóc thích đáng. Nếu so sánh như thế thì vẫn còn nhẹ nhàng.”
“Không hề!” Lyra nói với giọng dữ dội. “Không hề!”
“Không. Tất nhiên là không. Chính vì vậy họ mới phải trốn lên tận phương Bắc, trong bóng tối và không ai biết tới. Giáo hội rất vui mừng khi có một người phụ trách công việc như mẹ con. Ai có thể nghi ngờ một người duyên dáng đến thế, giỏi giao thiệp đến thế, ngọt ngào và nhiều lý lẽ đến thế? Nhưng vì đó là một loại phẫu thuật mờ ám và không chính thức, bà ấy cũng là người mà Tổng hội giám mục có thể phải đề phòng.”
“Nhưng ý tưởng chia tách đó đầu tiên là của ai?”
“Là của bà ấy. Bà ấy nhận định rằng hai thứ xảy ra trong thời kỳ dậy thì có thể quan hệ với nhau: sự thay đổi ở con nhân tinh và thực tế là Bụi bắt đầu phản ứng. Có thể nếu nhân tinh bị tách khỏi con người, có thể chúng ta sẽ không bao giờ bị phụ thuộc vào Bụi — tức tội lỗi căn nguyên nữa. Vấn đề là có thể tách nhân tinh khỏi con người mà không giết chết người đó được không? Nhưng bà ấy đã đi rất nhiều nơi, và biết tất cả mọi thứ. Ví dụ như bà ấy từng đến Châu Phi. Người Châu Phi có một cách chế tạo nô lệ là thây ma. Nó không có trí khôn gì cả. Nó sẽ lao động suốt ngày suốt đêm mà không kêu ca hay bỏ trốn. Trông nó giống một xác chết…”
“Đó là một người không có nhân tinh!”
“Chính xác. Vì thế bà ấy nhận ra là có thể chia tách người với nhân tinh.”
“Và… Tony Costa kể với con về những bóng ma rùng rợn trong những khu rừng trên phương Bắc. Con nghĩ chúng cũng là một dạng kiểu này.”
“Đúng thế đấy. Dù sao, Ủy ban Tôn giáo chung cũng ra đời từ ý tưởng này, và từ ám ảnh về tội lỗi căn nguyên của giáo hội.”
Nhân tinh của Ngài Asriel giật giật hai tai, ông đặt tay lên cái đầu xinh đẹp của nó.
“Còn có điều gì đó khác nữa xảy ra khi họ thực hiện chia cắt,” ông tiếp tục. “Và họ đã không nhận thấy điều đó. Năng lượng liên kết con người với nhân tinh vô cùng mãnh liệt. Khi sự chia tách diễn ra, tất cả năng lượng tan biến chỉ khoảng thời gian một giây đồng hồ. Họ không để ý vì họ tưởng lầm đó là một cơn sốc, hay sự giận dữ, hay tổn thương tinh thần, và họ tự rèn luyện mình để thờ ơ với nó. Vì thế họ đã bỏ lỡ mất những điều nó có thể làm, và họ không bao giờ nghĩ đến việc khai thác nó…”
Lyra không thể ngồi yên được. Cô đứng lên và đi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài màn đêm rộng lớn bên ngoài với đôi mắt vô hồn. Họ quá độc ác. Dù việc tìm hiểu tội lỗi căn nguyên có quan trọng đến mức nào, việc họ làm với Tony Makarios và tất cả những đứa trẻ khác thật là độc ác. Không gì có thể biện hộ được cho hành động đó.
“Vậy cha đang làm những gì?” cô nói. “Cha từng thực hiện một cuộc chia cắt nào không?”
“Ta quan tâm đến những thứ hoàn toàn khác. Ta không nghĩ Ủy ban Tôn giáo đi đủ xa. Ta muốn tìm hiểu đến nguồn gốc của chính bản thân Bụi.”
“Nguồn gốc? Vậy nó đến từ đâu?”
“Từ thế giới khác mà chúng ta có thể nhìn thấy qua hiện tượng cực quang.”
Lyra quay đầu lại. Cha cô đang ngả lưng trên ghế, thư thái và mạnh mẽ, con mắt ông dữ dội như mắt con nhân tinh của mình. Cô không yêu ông, cô không thể tin ông, nhưng cô không khỏi ngưỡng mộ ông, ngưỡng mộ sự xa hoa ông bài trí trong nơi ở cách biệt của ông, ngưỡng mộ sức mạnh tỏa ra từ tham vọng của ông.
“Thế giới khác đó là gì?” cô nói.
“Một trong số hàng tỉ nhưng thế giới tồn tại đồng thời với nhau. Các phù thủy đã biết về những thế giới này hàng thế kỉ trước, nhưng nhà thần học đầu tiên chứng minh sự tồn tại của chúng theo phương thức toán học đã bị rút phép thông công năm mươi năm trước hoặc hơn. Tuy nhiên, sự thật là thế; không có cách nào để có thể chối bỏ nó được.
Nhưng không có ai nghĩ rằng có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác. Điều này có thể vi phạm các điều luật cơ bản, chúng ta nghĩ thế. Thế đấy, chúng ta đã sai lầm; cho đến nay, chúng ta đã học cách nhìn nhận thế giới này. Nếu ánh sáng đi qua thì chúng ta cũng có thể. Và chúng ta cần phải học được cách để hiểu nó, Lyra ạ, cũng giống như việc con học cách đọc Chân-kế.
Giờ thì thế giới đó, và các thế giới khác, đã trở thành kết quả của một khả năng. Lấy ví dụ việc tung đồng xu - nó có thể rơi xuống mặt trái hay mặt phải, chúng ta không biết sẽ là mặt nào trước khi nó rơi xuống. Nếu là mặt phải, điều đó có nghĩa là khả năng lật lên mặt trái đã tiêu tan. Cho đến thời điểm đó hai khả năng vẫn cân bằng.
Nhưng trong một thế giới khác, nó là mặt trái. Và khi điều này xảy ra, hai thế giới tách ra làm đôi. Ta dùng ví dụ tung đồng xu chỉ để diễn đạt rõ ràng hơn. Trên thực tế, những khả năng bị tiêu biến này xảy ra ở mức độ các hạt cơ bản., nhưng chúng cũng diễn ra y theo cùng cách: một khoảnh khắc rất nhiều thứ có khả năng xảy ra, khoảnh khắc tiếp theo chỉ có một thứ xảy ra, và phần còn lại không tồn tại. Trừ khi có những thế giới khác nảy sinh, để cho các khả năng đó xảy ra thực sự.”
“Và ta sắp đến thế giới đó nhờ Hiện tượng cực quang,” ông nói, “bởi vì ta nghĩ rằng tất cả Bụi trên thế giới này đều đến từ đó. Con đã nhìn thấy những bản kính dương đèn chiếu ta chỉ cho các Học giả trong Phòng nghỉ. Con đã thấy Bụi tràn xuống thế giới này từ Hiện tượng cực quang. Chính mắt con đã nhìn thấy thành phố đó. Nếu ánh sáng có thể đi qua ranh giới giữa các thế giới, nếu Bụi có thể, nếu chúng ta có thể nhìn thấy thành phố đó, vậy chúng ta có thể xây một cây cầu và đi qua. Việc này cần một vụ bùng nổ năng lượng phi thường. Nhưng ta có thể làm được. Ở đâu đó ngoài kia là cội nguồn của tất cả Bụi, tội lỗi, đau đớn, hủy diệt trong thế giới. Loài người không thể nhìn thấy thứ gì mà không muốn phá hủy nó, Lyra ạ. Đó chính là tội lỗi căn nguyên. Ta sẽ phá hủy nó. Cái chết sẽ bị diệt vong.”
“Có phải vì thế mà người ta giữ cha ở đây không?”
“Đúng. Họ sợ. Và điều này có lý do của nó.”
Ông đứng lên, con nhân tinh cũng vậy, kiêu hãnh, đẹp đẽ và đáng sợ. Lyra vẫn đứng tại chỗ. Cô sợ cha mình, nhưng cô ngưỡng mộ ông một cách tự hào, và cô nghĩ ông đã hoàn toàn điên rồ; nhưng cô là ai mà có thể phán xét đây?
“Đi ngủ đi,” ông nói. “Thorold sẽ chỉ phòng ngủ cho con.”
Ông quay người đi.
“Cha quên cái Chân-kế này,” Lyra nói.
“À, đúng. Hiện giờ ta chưa thực sự cần nó.” Ông nói. “Dù sao nó chẳng giúp gì được cho ta nếu không có cuốn sách. Con biết không, ta nghĩ ông hiệu trưởng Jordan có ý đưa nó cho con. Ông ấy có thực sự bảo con mang nó đến cho ta không?”
“Ừm, vâng!” Cô nói. Nhưng sau đó cô nghĩ lại, và nhận thấy thực ra ông hiệu trưởng không bảo cô làm việc đó, ngay từ đầu đến giờ cô vẫn đoán là thế, vì nếu không ông ta đưa cho cô làm gì? “Không,” cô nói, “con không biết. Con đã nghĩ…”
“Được rồi, ta không cần nó. nó là của con, Lyra ạ.”
“Nhưng…”
“Chúc ngủ ngon, con gái.”
Nín lặng, quá hoang mang vì việc này đến mức không thể lên tiếng hỏi bất cứ câu hỏi đang hiện lên cả tá trong tâm trí mình, cô ngồi cạnh lò sưởi và dõi theo ông rời khỏi phòng.