Con Đường Mây Trắng - Chương 1 - Phần 1

PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG LINH ẢNH

LINH ẢNH TẠI ĐỀN TSAPARANG

Mặc chiếc áo hữu hiện,

Chân Như bị hạn chế.

Lấy dạng hình thi ca,

Vận động nhẹ như bông.

(Rabindranath Tagore)

Đó là một đêm đầy dông bão trên cổ điện hoang tàn
tại Tsaparang, ngày xưa là thủ phủ của một vương quốc hùng hậu của miền tây Tây
Tạng. Mây kéo nhau qua dầy đặc trên bầu trời, làm vầng trăng tròn khi chiếu rọi
khi biến mất, để cho ánh trăng, như phát ra từ một chiếc đèn ma quái, nhảy múa
trên một sân khấu khổng lồ, diễn lại lịch sử của một bi kịch bất tử. Tôi nói
“bất tử” vì đó là bi kịch miên viễn của sự hoại diệt, của sự phục hưng trong
trò chơi kỳ diệu của sức mạnh và thiện mỹ, của vẻ rực rỡ thế gian và của thành
tựu tâm linh.

Sức mạnh đã suy tàn nhưng vẻ đẹp vẫn còn vương
trên cung điện hoang phế, còn nằm yên trong những tác phẩm nghệ thuật, chúng đã
được tạo thành bằng sự kiên trì và nhẫn nhục, trong bóng tối của một thời thịnh
trị. Cái rực rỡ và hùng mạnh đã trở thành cát bụi, cái thần của văn hóa và niềm
xác tín tôn giáo đã rút lui trong sự độc cư xa lánh cuộc đời, chúng còn hiện
diện trong ngôn ngữ từ hay tác phẩm của thánh nhân, thi sĩ hay đạo sư và qua đó
mà khẳng định lại lời của Lão Tử, rằng cái mềm yếu mới sống còn, cái cứng mạnh
chỉ thuộc về cõi chết.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người
yêu sách.]

Số phận của Tsaparang đã an bài. Công trình của
con người và tạo tác của thiên nhiên hầu như không còn phân biệt được nữa. Cổ
điện đã biến thành cát đá và cát đá vươn lên như cung điện uy nghi. Toàn bộ
ngọn núi hùng vĩ hiện ra như một tảng đá cẩm thạch vĩ đại, trong đó khắc họa
một thành quách hoang đường: với lâu đài và cung điện, với tháp với vách, cao
như muốn đụng đến mây, dựng đứng trên vách đá thẳng cheo leo, như một tổ ong
với hàng trăm hàng ngàn ngăn hộc.

Ánh trăng mờ tỏ chiếu rọi làm cảnh vật hầu như vô
thực và thêm đáng sợ, trong đó mọi sự đột nhiên biến mất, nhanh như chúng đã
xuất hiện.

Ngôi đền màu đỏ thờ Phật Thích-Ca Mâu-Ni chìm
trong bóng tối tĩnh lặng. Chỉ riêng khuôn mặt bức tượng vàng to lớn Thích-Ca
Mâu-Ni hầu như tỏa ra một thứ ánh sáng êm dịu, ánh sáng này được tiếp nhận và
phản chiếu bởi tượng của các vị Thiền Phật ở bên cạnh tả hữu của Ngài.

Bỗng nhiên tường vách của ngôi đền bắt đầu rung
động và tiếng ầm ầm đáng sợ của đá đổ vang lên. Hộp gỗ đựng đèn thờ Phật
Thích-Ca bỗng vỡ tung và khuôn mặt tượng Phật rực sáng ánh trăng, cả ngôi đền
được chiếu sáng rực.

Cả không gian bỗng đầy tiếng than thở, hầu như cả
ngôi đền rên rĩ dưới sức nặng của bao thế kỷ.

Một kẽ nứt to lớn hiện ra trên bức tượng bên cạnh
bức họa nữ thần sắc trắng Tara và gần đụng một cánh hoa nằm cạnh tòa
sen của thần.

Thần thức sống trong cánh hoa hoảng sợ nhảy ra
khỏi trú xứ của mình, hai tay chắp lại hướng về thần Tara:

“Hỡi thần, kẻ cứu độ mọi loài sinh linh, hãy cứu
chúng con và ngôi đền thiêng liêng này, đừng để bị hoại diệt!”

Với cặp mắt từ bi, Tara nhìn chỗ phát
tiếng nói và hỏi: “Ngươi là ai, thần thức nhỏ bé kia?”

“Con là thần thức của cái đẹp, trú trong cánh hoa
bên cạnh Ngài.”

Tara nở một nụ cười đẹp như người mẹ và chỉ
vào một góc khác của ngôi đền: “Trong các lời giáo hóa quí báu hiện được cất
chứa trong các bộ kinh có một kinh mang tên Bát-Nhã Ba-la-mật. Trong đó có lời
dạy sau đây của Đức Thế Tôn.

Cần phải quán như sau:

như đám mây trôi nổi,

như sao sớm bầu trời,

như ánh lửa vô thường,

như sóng nước suy tàn,

như bóng ma, ảo ảnh,

như giấc mộng chóng tan”.

Thần thức cánh hoa nước mắt đầy tròng: “Ôi, những
lời này chân thực biết bao, hết sức chân thực, hết sức thiện mỹ! Và nơi đâu có
vẻ đẹp, dù cho chỉ một lần để ánh mắt ngời sáng, là ở đó có một dây đàn bất tử
dã rung lên trong ta. Vâng, chúng ta đều ở trong cơn đại mộng, và ta hy vọng
cuối cùng sẽ thức tỉnh, như Như Lai, Đức Thế Tôn, vì lòng từ bi đã xuất hiện
trong “dạng mộng” của Ngài để đưa chúng ta đến giác ngộ”.

Khi nói như thế, thần thức của cái đẹp nghiêng
mình hướng về Thích-Ca Mâu-Ni, mà tượng Ngài cũng như tất cả mọi hình tượng
khác của ngôi đền, trong phút giây kỳ diệu này đã trở thành sống động.

“Không phải vì con thôi”, thần thức nói tiếp, “mà
con xin Ngài cứu độ. Con biết tất cả mọi sắc thể đáng sống nơi đây sẽ hoại diệt
- cũng như những lời dạy của Đức Như Lai chứa trong các kinh bản bám bụi đã
nói. Điều con mong cầu là: đừng để cho các kinh điển đó mất đi trước khi chúng
ta truyền được thông điệp vĩ đại đã ghi trong đó.

Con lạy Ngài, hỡi mẹ của tất cả sinh linh, của
tất cả các vị Phật, hãy có lòng từ bi với tất cả mọi người chỉ vướng ít bụi
trong mắt, những người có thể thấy và hiểu được, chỉ cần chúng ta ở lâu thêm
một chút trong dạng đại mộng của mình, để cho thông điệp của chúng ta đến được
với họ, hay trao được cho những người có thể phổ biến thêm ra, vì ích lợi của
mọi loài hữu tình.

Đạo sư của chúng ta là Thích-Ca Mâu-Ni ngày xưa
cũng được các thiên nhân khẩn cầu, khoan hãy nhập Đại Niết bàn khi Ngài đạt
giác ngộ vô thượng. Hãy cho con được cầu khẩn Ngài với lý do như thế, xin được
quy y với Ngài và với vô số dạng hình của Ngài”.

Thần thức lại cúi mình, hai tay chắp trước trán,
trước hình tượng uy nghi sáng rực của Phật Thích-Ca Mâu-Ni và tất cả chư Phật
và Bồ-tát tề tựu xung quanh.

Thần Tara nhắc tay bắt ấn cứu độ và khuôn mặt
sáng rực của Thích-Ca Mâu-Ni mỉm cười đồng ý. “Thần thức của cái đẹp đã nói lên
sự thực, tâm của thần thức đày lòng thành khẩn. Vì làm sao khác được? Không
phải cái đẹp là kẻ chuyên chở và phụng sự cho Chân như sao? Cái đẹp là nơi thể
hiện của sự hòa điệu mọi dạng hình, dù đó là sắc thấy được hay âm nghe được, dù
đó là vật chất hay phi vật chất. Dù mọi dạng hình là vô thường nhưng sự hòa
điệu, điều mà các dạng đó trình bày và thể hiện, thuộc về vương quốc bất tử của
tâm, thuộc về quy luật sâu kín nhất của Chân như mà ta gọi là Pháp.

Nếu ta không diễn đạt Pháp vĩnh cửu đó bằng sự
hòa điệu hoàn hảo trong ngôn từ và tư tưởng, thì ta cũng đã không thông qua
thần thức của vẻ đẹp mà kêu gọi loài người, giáo pháp của ta đã không rung động
tim óc họ, giáo pháp đó đã không sống nổi một thế hệ.

Ngôi đền này sẽ sụp đổ cũng như các kinh sách nằm
trong các góc nọ sẽ tàn tạ, đó là những kinh sách mà các đệ tử của ta đã chép
lại, với sự nghiêm túc và nhiệt thành vô lượng. Nhưng những người khác cũng đã
chép lại, từng chữ một, cho nên dù các văn bản này có thể bị hủy hoại, giáo
pháp vẫn tiếp tục được truyền bá. Cũng như thế, mong sao các công trình khác
của nghệ sĩ hay thánh nhân, các vị đã làm nên ngôi đền thiêng liêng này, sẽ
được bảo toàn cho những thế hệ sau.

Hỡi thần thức cái đẹp, mong ước của ngươi sẽ được
toại nguyện. Dạng hình của ngươi cũng như tất cả các dạng hình sống trong đền
này sẽ không bị hủy hoại, bao lâu thông điệp cả các ngươi chưa đến với thế
gian, thì bấy lâu mục đích thánh thiện của các ngươi chưa được toàn vẹn”.

LINH ẢNH CỦA ĐẠO SƯ

Trên hàng ngàn ngọn núi,

Nơi đỉnh cao cô quạnh,

Một mái lều xa vắng,

Nửa lều, chỗ sư ở,

Nửa kia dành cho mây.

Nửa đêm dông bão tới,

Thi đám mây đi xa.

Có bao giờ mây hỏi,

Mình ở lâu nơi nào?!

Ryowan

Lạt ma Ngawang Kalsang sống độc cư mười hai năm
trong hang động cheo leo, tu tập thiền định. Không ai biết ông là ai, không ai nghe nói gì về ông. Ông là một trong
hàng ngàn tu sĩ vô danh đã được tu học tại một trong những tu viện lớn nhất
(Garden) gần Lhasa. Mặc dù đạt được học vị Gésché (tiến sĩ khoa học nhân
văn) nhưng ông nhận thức rằng, muốn thực hiện những gì đã học, mình cần phải
sống trong sự cô tịch và độc cư trong thiên nhiên - xa rời mọi tiếng ồn ào của
chợ búa cũng như đời sống thường nhật của một tu sĩ trong các tu viện lớn hay
trong không khí trí thức của các đại học tôn giáo.

Thế gian đã quên ông cũng như ông đã quên thế
gian - không phải ông thờ ơ với thế gian mà ngược lại, ông đã không còn thấy
giữa mình và thế giới có cái gì khác biệt. Điều mà ông thực sự quên không phải là thế gian mà là chính bản
thân mình - vì “thế giới”chỉ có thật trong quan hệ với cái “tôi”.

Dã thú hay đến hang động thăm ông và trở thành
bạn với ông. Tâm ông rộng mở với tất cả mọi sinh vật, với mọi loài biết đau xót
trong sự thông hiểu sâu xa. Vì lý do đó mà ông không hề cảm thấy bị quên lãng
trong cuộc sống độc cư và hưởng sự an lạc trong niềm vui tự tại, sự an lạc xuất
phát từ tri kiến cao quí do thiền định mang lại.

Ngày nọ có một người chăn cừu, khi đi tìm thảo
nguyên mới cho đàn cừu của mình, đã lạc trên núi cao, nghe tiếng chuông damaru đánh
nhịp nhàng, đó là tiếng chuông mà các vị lạt ma và du sĩ khổ hạnh thường đánh
lên trong lúc tụng niệm, lẫn với tiếng khánh bạc. Lúc đầu ông tưởng minh nghe
lầm vì ông cho rằng không người nào có thể sống trong cảnh cô quạnh thế này
được. Đến khi nghe rõ tiếng
chuông, ông bắt đầu thấy sợ; vì nếu chuông không phải do người đánh lên thì
chắc hẳn do một sức mạnh huyền bí.

Bị cuốn hút giữa sợ hãi và tò mò, cuối cùng ông
đi theo tiếng chuông, như có một lực nam châm nào không thể cưỡng lại kéo mình
đi và không bao lâu sau ông thấy hình dáng của một vị độc cư ngồi thiền định
sâu lắng trước hang động. Thân người đó gầy nhưng không khô héo, khuôn mặt hầu
như chứa đầy sự bình an tươi sáng, sáng rực một thứ lửa của sự toàn tâm nội
tại. Người chăn cừu liền hết sợ hãi và sau khi vị độc cư chấm dứt thiền quán,
ông đến gần, đầy lòng kính trọng và xin ban phước.

Khi vị độc cư rờ tay trên đầu thì ông thấy thân
mình dường như có một luồng khí lực chạy qua và một niềm an lạc không thể tả
được đến nỗi ông quên hết những gì mình muốn hỏi và vội vã chạy về bình nguyên
để loan truyền cho mọi người biết sự khám phá quí báu của mình.

Lúc đầu mọi người không ai tin chuyện này, nhưng
khi ông đưa họ lên động của vị độc cư thì tất cả đều ngạc nhiên tột độ. Làm sao
con người có thể sống trong cảnh hoang dã này được? Ông lấy thực phẩm ở đâu,
không ai biết đến ông? Làm sao ông qua nổi giá lạnh của mùa đông, khi núi rừng
đầy ngập băng tuyết, dù cho có chút chất đốt ít ỏi như rễ cây cũng không đủ,
chứ đừng nói đến có thức ăn hay không. Điều chắc chắn là chỉ một tu sĩ khổ hạnh
với năng lực siêu nhân mới có thể sống trong môi trường này được.

Mọi người quì xuống chân ông và khi ông ban
phước, họ thấy mình như được chuyển hóa - như thấy chính bản thân mình là bình
chứa cho một niềm an lạc siêu thế và một hạnh phúc chưa từng có. Ông đã cho họ
nếm vị của cái mà mỗi người đều có thể đạt đến, khi mà ta ý thức được năng lực
tiềm tàng trong ánh sáng, như năng lực của hạt giống nằm sâu trong tự thân. Với
phước lành, vị lạt ma độc cư chia sẻ cho mọi người sự chứng thực của chính
mình, để khuyến khích họ đồng hành với mình.

Tin tức về vị độc cư kỳ diệu đó loan truyền dưới
lũng như một mồi lửa. Thế nhưng chỉ thanh niên khỏe mạnh mới dám xông pha leo
lên hang động xa xôi đó; còn những người khác vì già yếu không thể đi được,
nhưng cũng cần đến khai thị tâm linh, họ cầu khẩn xin vị độc cư hãy xuống bình
nguyên để ban phước cho những ai cần đến.

Dưới bình nguyên chỉ có một ngôi đền nhỏ, xơ xác với vài tu sĩ, có tên là
“Đền sò trắng” (Dungkar Gompa). Nó nằm trên một đỉnh đồi đá, giữa một vùng bình
nguyên mầu mỡ lúa mì (vì thế có tên là Tomo, có nghĩa là “đồng lúa mì”). Ngôi
đền này bây giờ được trao cho vị lạt ma độc cư, vị này từ nay mang tên là Tomo
Géshé Rimposché, có nghĩa là “Bảo ngọc của tri kiến tại đồng lúa mì”.

Không bao lâu sau nhiều tu sĩ và cư sĩ xa gần đều kéo đến Dunkar, để học hỏi dưới chân Tomo Géshé
và chỉ sau một thời gian ngắn thì đền Sò trắng trở thành một nơi tu học tâm
linh và là trung tâm tôn giáo quan trọng, với đền đài xinh đẹp và phòng ốc rộng
rãi. Trong phòng lớn của chính điện Tomo Géshé cho dựng một bức tượng vàng Di
Lặc rất lớn, vị Phật tương lai, vị Từ thị, là biểu tượng của tâm linh tương lai
và của sự tái sinh chính pháp bất diệt, chính pháp đó thể hiện trong mọi kẻ giác
ngộ và phải được tìm thấy lại trong trái tim của mỗi con người.

Tuy thế Tomo Géshé chưa hài lòng với thành quả
của mình tại Dungkar. Ông cho dựng tượng Di Lặc ở nhiều nơi khác, để nhắc nhở
người theo Phật rằng không nên yên nghỉ trong sự huy hoàng của quá khứ mà còn
phải chủ động tham gia xây dựng tương lai, trong tinh thần đạt tới sự thành tựu
cuối cùng mà ai cũng có, là chuẩn bị cho sự xuất hiện của vị Phật sắp đến.

Thế nhưng một biến cố xảy ra, nó cũng bất ngờ và
kỳ lạ như việc khám phá và trở lại thế gian của vị lạt ma độc cư, biến cố này
đã gián đoạn công trình đang được thực hiện của ông. Nguyên do của biến cố này
là một lời tiên tri cao cấp tại Lhasa, đòi Tomo Géshé phải đi hành hương
tại Tschorten Nyima, một nơi chốn trở nên thiêng liêng nhờ Liên Hoa Sinh [1]. Liên Hoa Sinh là người đầu
tiên đem đạo Phật đến Tây Tạng,
cho đạo Phật một nền tảng vững chắc hằng cách thiết lập tu viện đầu tiên
(Samyé) và đưa kinh sách Phật giáo vào ngôn từ Tây Tạng. Công trình này được
tiếp tục bởi nhà phiên dịch Rintschen Sangpo, vị này sẽ được nhắc đến về sau.

[1] Padmasambhava,
đại sư Ấn Độ, sống khoảng thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Sư là người đưa Phật
giáo vào Tây Tạng và sáng lập tông phái Nyigmapa. Sư thường sử dụng thần thông,
nhiếp phục ma quái, được xem là vị Phật thứ hai sau Thích-Ca Mâu-Ni (ND).

Những điều này đặc biệt quan trọng đối với chúng
ta vì chúng nêu rõ rằng, một trong những biến cố quan trọng trong đời của Tomo
Géshé là liên hệ với thời kỳ thành lập của Phật giáo Tây Tạng, và tại miền tây
Tây Tạng, nhất là tại Tsaparang, nó đóng một vai trò quan trọng

*

Tschorten Nyima nằm ở một trong những vùng cao
nhất của cao nguyên Tây Tạng, gần biên giới Bắc Sikkim, trên một vùng cao
nguyên khoáng đãng, uốn lượn nhẹ nhàng, tiếp cận với phía Nam của những đỉnh
tuyết Hymalaya, những đỉnh này hầu như xuyên thủng bầu trời xanh đậm tiêu biểu
ở đây. Đây là nơi mà Trời và Đất gặp nhau trong một mức độ vĩ đại và đáng kính
sợ như nhau: nơi mà cảnh vật của Đất có cái vô tận và nhịp điệu của đại dương
và Trời có chiều sâu của không gian. Đó là nơi mà con người thấy mình gần hơn
với các thiên thể, nơi mà mặt trời mặt trăng là láng giềng và ngàn sao là bạn.

Và cũng nơi đây đã xảy ra điều đó, các vị Phật và Bồ-tát quả nhiên đã gây cảm hứng cho
các nghệ nhân
Tsaparang, để dưới tay họ xuất hiện những dạng hình thấy được, báo thân các vị
đó đã xuất hiện ra trước mắt của Tomo Géshé. Trong màu xanh đậm của bầu trời,
các vị đã xuất hiện ở dạng như kết nên bằng ánh sáng, rực rỡ trong mọi sắc của
cầu vồng, di chuyển chầm chậm trong bầu trời, từ chân trời phía đông qua phía
tây.

Sự xuất hiện này lúc đầu chỉ thấy được với Tomo
Géshé. Nhưng, như một nghệ sĩ lớn biết làm cho người khác thấy được linh ảnh
của mình bằng cách vẽ lại những hình ảnh xuất hiện trong nội tâm trên giấy mực,
thì cũng thế mà vị đạo sư nhờ sự sáng tạo của tâm mình mà làm cho linh ảnh này
trở nên thấy được với mọi người hiện diện. Không phải tất cả ai cũng cảm nhận
linh ảnh được như nhau trong các chi tiết, vì mực độ cảm thọ mỗi người một
khác.

Đối với ai không chứng được điều này - thậm chí
cả với người đã tự mình chứng thực - thật không thể mô tả vẻ đẹp của linh ảnh này bằng lời hay nói lên được ấn tượng sâu sắc còn lại trong tâm người
thấy.

Trong kinh Lăng Nghiêm [2] có đoạn mô tả một biến cố
tương tự, nơi đây được ghi lại để độc giả có thể hình dung về những gì mà Tomo
Géshé và các người đi cùng đã thấy.

[2] Suragama Sutra.

“Phật Thích-Ca Mâu-Ni ngự giữa chư Phật và Bồ-tát
của mười phương thế giới và chiếu tỏa hào quang siêu thế của Ngài trên toàn thể
chư vị. Từ tứ chí cũng như báo thân Ngài toát ra ánh sáng mầu nhiệm, đọng lại
trên đỉnh đầu của chư vị Phật và Bồ-tát.

Và cũng thế, hào quang phát ra từ tứ chí và báo
thân của chư Phật và Bồ-tát của mười phương thế giới đọng lại trên đỉnh đầu của
Phật Thích-Ca Mâu-Ni, cũng như trên đỉnh đầu của mọi vị Phật, Bồ-tát và thánh
nhân khác đang hiện diện.

Đồng thời sóng nước của muôn vàn nguồn suối vang
lên bài ca chính pháp và vô số những ánh hào quang siêu thế đó diệt nên một tấm
lưới ngọc, trùm khắp thế gian.

Con mắt trần thế chưa ai được nhìn thấy một cảnh
quan tuyệt diệu như thế, cảnh quan giữ mọi người hiện diện trong sự im lặng
kính sợ. Và trước khi mọi người hiểu ngộ điều gì đang xảy ra thì họ đã được đưa
vào trạng thái an lạc của đại định. Một cảm giác hỉ lạc của sự giải thoát và an bình thấm nhuần tất cả mọi
người như một cơn mưa hoa ngũ sắc, hầu như chúng phản ánh sắc màu óng ánh của
không gian rộng mở trong thân mình.

Tất cả các dạng hình khác biệt của núi sông, của
hoa của đá, của vạn sự tan
chảy hòa chung làm một và biến mất, để chỉ còn một sự chứng thực cái nhất thể
uyên nguyên; nó không phải là sự cứng nhắc đơn điệu mà chứa đầy sự rung động
của sức sống và ánh sáng, đầy tiết điệu hoàn hảo, đầy âm thanh của thành hoại,
chứa dựng lẫn nhau, dung thông cho nhau và cuối cùng tan hòa trong thể tịch
tịnh vĩ đại.

Dòng tâm thức an tịnh,

tràn ngập niềm an lạc.

Rỗng dang và trong suốt,

xuyên suốt cả không gian.

Đợt sóng vòng tròn nọ,

không còn nhấp nhô nữa.

Như tiết điệu cuối cùng,

buổi hòa âm thiên nhạc.

Âm thanh đã ngưng bặt,

tĩnh lặng thành âm nhạc.

Ánh sáng chiếu rực rỡ,

bóng tối đã biến mất.[3]

[3] Bài thơ trích từ Madala, Meditations gedichte und
Betrachtungen
của Lama Anagarika Govinda. Những dòng thơ này sinh ra
từ một buổi thiền định, được viết lúc tác giả chưa biết đoạn kinh Lăng Nghiêm ở
trên (TG)
.

Những biến cố này tuy hiếm có nhưng không phải
duy nhất và có lẽ tuân theo một qui luật nội tại nào đó, dường như chứa đựng
yếu tố giống nhau. Thế nhưng linh ảnh tại Tschorten Nyima là một trường hợp lạ
lùng trong lịch sử các biến cố tâm lý, trong đó linh ảnh này không phải chỉ là
một sự chứng thực chủ quan của một cá nhân - và vì thế không kiểm chứng được -
mà được một số lớn nhân chứng xác nhận và ghi vào sách vở.[4]

[4].
Điều này làm ta nhớ đến phép lạ Madonna Fatima
xảy ra gần đây, được một số lớn người ghi nhận, trong đó có sự xuất hiện của
ánh sáng kỳ diệu tương tự. (TG)

Điều này đã xảy ra sau khi những người hành hương
Tschorten Nying về lại, trong đó mỗi người kể lại những gì mình nghe thấy, theo
mô tả của nhân chứng và được sự chấp nhận của vị đạo sư (sau khi học trò yêu
cầu đã đồng ý) thì những cảnh tượng này đã được một nghệ nhân có tài tại
Tschorten Nyima vẽ lại trong một bích họa lớn tại tu viện ở Dungkar.

Một trong những nhân chứng của biến cố đáng ghi
nhớ này là vị sư trưởng cuối cùng của Dungkar Gompa, ông là người lãnh đạo tu
viện này cho tới khi Tomo Géshé Rimpotsché tái sinh. Không những cho chụp hình
bức họa quí báu này, ông giải thích mọi chi tiết của bức tranh, cũng như kể lại
mọi biến cố trong lần đi hành hương đó. Ông mô tả mình dã tận mắt thấy như thế
nào cũng như kể những điều mà ông không đủ sức thấy được, chỉ nghe người khác
kể lại. Ông nhắc lại sự thực hiếm có là một linh ảnh mà thấy được nhiều giờ để
cho ai đã thấy đều ghi nhớ sâu xa được, và để cho mọi người trao đổi và chỉ dẫn
cho nhau.

Tôi xin nhắc thêm là người Tây Tạng không xem
linh ảnh là sự bày tỏ thiêng liêng của thực tại cuối cùng mà biết đến tính tương
đối và nguồn gốc tâm lý của những linh ảnh đó. Trong Đại Thừa Khởi tín
luận
, ta thấy: “Khi người học đạo thấy linh ảnh của thiên thần, Bồ-tát và
Như Lai, xung quanh là ánh sáng rực rỡ thì họ nên nghĩ rằng, đó cũng là do tâm
tạo và không có thực tính”.

Nhưng bao lâu nó còn là sự thực tương đối do tâm
tạo tác thì bấy lâu sự sáng tạo đó là “thực”, tức là có một năng lực thực.
Chúng sinh thành và hoại diệt như mỗi một tác phẩm nghệ thuật, chúng được sinh
ra từ chứng thực cao nhất của tâm và dù chúng không có thực tính, không chứa
thực tại tự thân thì chúng vẫn chứa những biểu tượng, mà dạng của những biểu
tượng đó cứ luôn trở lại để chỉ đường, để nhắc nhở ta đến cái thành tựu cao
tột, đến sự giác ngộ.

Vì thế trong các kinh sách (nhất là kinh sách Mật
tông Tantra) luôn luôn ta được nhắc nhở phải tránh hai cực đoan, một bên cho
linh ảnh của những tầng lớp ý thức cao là thực tại cuối cùng - nếu bị như thế
ta sẽ vướng nơi chúng và kẹt giữa đường, - còn bên kia phủ nhận mọi tính cách
có thực của chúng, cho chúng chỉ hoàn toàn do tâm tạo. Nếu thế chúng ta sẽ nhận
thức sai về vai trò quyết định của tâm thức cũng như khả năng tiềm tàng của nó và đánh mất một phương
tiện quí báu của sự tiến bộ.

Tomo Géshé rất ý thức về hai cực đoan này của tư
tưởng con người cho nên khi học trò xin vẽ lại những linh ảnh tại Tschorten
Nyima để truyền lại cho đời sau thì ông đồng ý nhưng không quên nhắc đến sai
lầm khả dĩ là, tưởng một dạng xuất hiện nào đó là thực thể cuối cùng. Những
linh ảnh này đã có ảnh hưởng lớn lao đến Tomo Géshé và học trò của ông. Những
linh ảnh đó cho ông một thẩm quyền mà tại Tây Tạng, các vị tái sinh (Tulku) mới
có, đó là những vị chứa tâm Bồ-tát, có thệ nguyện kiên định là lấy hiện thân
làm sinh vật, các vị đó có quyền năng chủ động tái sinh trong tương lại, có đầy
đủ điều kiện cần thiết, để mang lại lợi ích cho con người.

Kết quả trực tiếp của linh ảnh tại Tschorten
Nyima là Tomo Géshé cảm thấy mình không chỉ có trách nhiệm với dân tộc và đất
nước mình trong việc trao truyền pháp giác ngộ, mà cả thế giới bên ngoài, không
phân biệt chủng tộc, giai cấp hay tôn giáo. Vì thế mà ông bỏ bình nguyên yên
tĩnh của mình để đi đến các nước quanh vùng Himalaya. Và bất cứ nơi đâu
đặt chân đến, ông gieo trồng niềm tin và hy vọng trong lòng mọi người. Ông cứu
giúp kể bệnh tật chỉ băng cách rờ đến họ và bằng sức mạnh tâm ý mình, ông giảng
đạo pháp thiêng liêng, làm cho họ “vui thích lúc đầu, vui thích lúc giữa, vui
thích lúc cuối”[5]; ông khai
thị cho những ai sẵn sàng đón nhận sự thực của Pháp và có khi phải bỏ lại đồ đệ
của mình để lên đường mang chính pháp đi truyền bá cũng như đã vì thế mà ông đã
bỏ thung lũng hiền hòa của mình ra đi.

[5] Đây là một đoạn hay được
ghi lại trong kinh sách của văn hệ Pali, đặc trưng của tinh thần hỉ lạc trong
Phật giáo, từ chối mọi dạng ép buộc. (TG)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3