Con Đường Mây Trắng - Chương 2 - Phần 4
NYANG-TO KYI-PHUG TU VIỆN CỦA NGƯỜI NHẬP THẤT
Tất cả những gì mà tôi nghe thấy ở trung tâm tu
phép Lung-gom tại Nyang-to Kyi-phug (hang động phước lại tại Nyang) xác định
lòng tin của tôi là, mục đích của lung-gom, như phép thần túc thông hay bay
bổng lên không, vượt xa tham vọng đạt thần thông, và trung tâm này không phải
là nơi tụ họp của những kẻ tham vọng hay ích kỷ, vì cái đầu tiên đòi hỏi một
người học phép lung-gom là hoàn toàn ẩn danh.
Khi nhập thất thì người đó đã chết đối với thế
gian: không ai được biết tên tuổi, quyến thuộc hay quê hương người đó. Người đó
đã bỏ luôn cái quá khứ của mình và sau nhiều năm khi ra khỏi động thì không còn
gì của ngày xưa tồn tại với mình nữa, không ai biết người đó là ai. Đó là một
người như mới sinh ra kẻ không những quá khứ đã chết, mà là người đã chủ động
đi qua cánh cửa của thần chết và tái sinh lại, sống cuộc đời xả bỏ mọi tham
chấp riêng tư. Con người mới đó sẵn lòng vì lợi ích của sự giác ngộ của mọi
người mà còn giúp họ thoát vòng vô minh.
Điều này còn được lòng tin của quần chúng xác
nhận rằng gốc của lung-gom là mong ước của một vị thánh nhân, muốn vượt lên cái
chết bằng cách từ bỏ chính tự ngã mình. Vị này là nhà sử học danh tiếng Buston,
sinh năm 1289 gần Schigaste và là tu viện trưởng của Schalu. Nơi đó là trung
tâm khổ luyện phép lung-gom. Cách đó không xa có một nhà đại huyễn thuật tên
Yung-ton Dorje Pal, trong một buổi lễ đặc biệt đã khẩn cầu thần chết, đừng bắt
ai phải chết trong một thời gian mười hai năm. Thần chết đồng ý nhưng với điều
kiện là phải có ai hy sinh thân mình để đổi mạng (ý này dễ chấp nhận vì một cái
chết để cúng dường có giá trị bằng hàng ngàn mạng người chết vì phải chết).
Trong buổi lễ đó không ai dám chịu cả chỉ trừ Buston. Cũng vì thế mà nhà huyễn
thuật phải thừa nhận vị thánh nhân này là người duy nhất có thể cử hành buổi
lễ, nên thay vì nhận sự hy sinh của Buston, ông trao cho Buston các đệ tử trách
nhiệm cứ mười hai năm cử hành buổi lễ một lần.
Trong buổi lễ vì phải mời các vị phẫn nộ thần của
các chính điện tại trung tâm Tây Tạng và chỉ có sứ giả không biết sợ và có tài
đi nhanh đến các thánh thất đó trong vòng hai mươi bốn tiếng mới thực hiện được
sứ mạng, nên người ta thiết lập trung tâm đào tạo Lung-Gom tại Samding và
Nyang-to Kyi-phug, từ đó mà các sứ giả được gửi đi, cứ mười hai năm thay đổi
lẫn nhau.
Câu chuyện này tôi được nghe tại Kyi-phug cũng
được Alexandra David-Neel kể lại trong cuốn sách của bà. Tôi không có dịp thăm
Samding nhưng cách đây vài năm tôi đọc một bài của Sven Hedin, trong đó ông nói
về một cái hang “nằm cao hơn Linga và Pesu”, trong hang đó có một vị lạt ma
nhập thất bít kín cửa. Ông thăm chỗ này vào một ngày mùa đông. Hang động này
nằm dưới chân một vách đá cao, mang tên Samde-phug. Hang động có cửa sổ, cửa
lớn; nhưng có một nguồn suối phun nước từ trong ra, dưới vách tường bít kín cửa
ra vào.
“Khi vị lạt ma Rimpotsché bí ẩn này đến liga cách
đây ba năm, ông
nguyện với các sư trong viện sẽ sống vĩnh viễn trong bóng tối. Qua nghiên cứu
kinh sách, người ta xác định ngày tốt sẽ bít cửa. Đến ngày đó thì tất cả các sư
tề tựu đông đủ để tiễn ông vào mồ. Câm lặng và chậm rãi như trong một đám tang,
các sư từ bình nguyên tụ về cao nguyên, đi từng bước, gần như muốn kéo dài phút
giây cuối cùng để cho vị này còn được thấy mặt trời, ánh sáng và màu sắc. Ông
biết rằng mình sẽ rời thế gian này vĩnh viễn, không bao giờ được thấy các ngọn
núi đứng canh mồ mình. Ông biết mình sẽ chết trong hang, không còn ai nhớ tới.
Sau khi hang được bịt kính, ánh sáng sẽ tắt mãi
mãi với ông. Ông sẽ cô đơn, không bao giờ nghe được tiếng người, chỉ còn vang
vọng giọng nói của chính mình. khi ông cầu nguyện không còn ai nghe thấy ông,
khi ông gọi không còn ai thưa đáp. Đối với bạn đồng môn đã chôn sống ông thì
ông đã chết. Họ im lặng xuống tu viện và làm công việc hàng ngày của mình. Mối
đây duy nhất giữa họ và người trong động chi là trách nhiệm mỗi ngày phải mang
cơm nước cho ông. Một chén nhỏ gồm có tsampa, trà và bơ được chuồi vào khe nhỏ dưới vách, nhưng khe này nhỏ tới mức mà
tiếng động, ánh sáng khó vào được với ông. Cách duy nhất để biết ông còn sống
hay không là xem ông có ăn uống không. Khi thức ăn suốt sáu ngày liền không
được đụng đến thì người ta phá cửa. Nhiều nhà sư kể lại đã có nhiều trường hợp
xảy ra: “Cách đây ba năm có vị lạt ma chết sau khi ở trong thất mười hai năm,
trước đây mười lăm năm có vị chết, vị này vào thất lúc hai mươi tuổi và sống
trong bóng tối bốn mươi năm”.
Sven Hedin cố tưởng tượng những năm tháng vô tận
mà kẻ nhập thất phải chịu đựng trong bóng tối: “Người đó không thể đếm ngày
nhưng cứ tới mùa hè thì biết một năm đã trôi qua. Về sau chắc người đó không
còn nhớ mình đã ở bao nhiêu năm. Cái duy nhất mà người đó đếm được là những hạt
của tràng hạt và các lời cầu nguyện… Cuối cùng, sau những năm dài đằng đẵng có
ai gõ cửa hang, người đó duỗi tay để đón bạn. Đó là cái chết đã đến ngưỡng cửa.
Người tu hành đui mù này suốt chục năm chìm trong bóng tối, đột nhiên thấy ánh
sáng rực rỡ… Người đó đã thoát khỏi cảnh luân hồi và đi vào ánh sáng của ân
phước vĩnh viễn”.
Câu chuyện xúc động này theo đuổi bên tôi mãi,
làm tôi thán phục liệu có ai và làm sao được, suốt một đời sống trong bóng tôi,
không có khí trời trong lành, thiếu vận động mà chịu nổi - đó là chưa nói tới
sự cùn lụt tâm trí bắt buộc không có khi không tiếp xúc với người. Có thể tin
được chăng, khi loại bỏ ánh sáng mặt trời người ta tìm được ánh sáng tự thân
hay thậm chí sự giác ngộ? Không phải chính Đức Phật cũng lên án cách tu hành
khổ hạnh ép xác cũng như sự hưởng thụ dục lạc thế gian?
Sự tự hủy diệt tâm lý không bao giờ được đạo Phật
xem là phương tiện thay đức hạnh. Và người Tây Tạng, dù họ tin nơi sức mạnh
siêu nhiên và năng lực chuyển hóa, nhưng từ xưa đến nay trong cuộc sống thường
ngày cũng như trong phương pháp tu hành, luôn luôn là người có đầu óc tỉnh táo.
Tính chất của họ là thực tiễn và quan niệm tôn giáo của họ không hề hắc ám hay
tách rời cuộc sống.
Điều này thì khi đến tại Nyang-to Kyi-phug, tôi
hoàn toàn rõ, dù nơi đây có kỷ luật cao
độ và tu hành nghiêm túc, tất cả những gì hiện diện nơi đó đều ngược lại với ý
niệm cho rằng lung-gom phải tu trong bóng tối (điều mà bà David-Neel hình như
cũng tin) và trong điều kiện thiếu vệ sinh không xứng hợp với con người. Ngược
lại! Tôi vui mừng thấy các thất thiền định nằm trên dốc núi cao hơn các tu viện
hay đền đài, được chăm sóc kỹ lưỡng, chúng được xây dựng hết sức thích hợp để
bảo toàn cho sức khỏe vật lý cũng như tâm lý của hành giả, tạo cho họ một sự an
tĩnh tuyệt đối, không bị quấy rầy. Nơi đây đúng là “tinh thần minh mẫn trong
thân tráng kiện”.
Mỗi một thất đều xây sao cho không khí, nước và
mặt trời đều vào được và người ở trong đó phải được vận động. Dù cách ly với
thế giới bên ngoài, hành giả vẫn liên hệ được với không gian rộng lớn và có thể
theo dõi vận động của trời mây và thiên thể cũng như quang cảnh của bốn mùa.
Thất không phải là nơi hành xác hay hay chịu tội mà là chốn của an vui và đi
sâu vào quán tưởng. Hoàn toàn không phải là một nấm mồ, thất đưa con người đến
tâm an lạc, cũng như gọi tên của Kyi-phug (hang động an lạc). Ấn tượng chung đó
làm tôi cũng ước muốn một ngày kia sẽ thiền định và quán tưởng không bị quấy
rầy trong một cái thất như thế, trong một thời gian dài.
Kẻ nhập thất có thể mang theo sách vở, hình
tượng, tranh thanka, tùy theo phép tu của họ, cũng như vật dụng để cử hành nghi
lễ hàng ngày như kim cương chử,
chuông, đèn, bình đựng, kể cả tschoktse - một loại bàn thấp để bày biện các
thứ. Từ những điều đó ta biết rõ, thời giờ của hành giả được chia rất cẩn thận,
gồm học hỏi kinh sách, lễ nghi cầu nguyện và thiền định, chỉ bị gián đoạn bởi
sự tập luyện thân thể và các công việc cần thiết như nấu nướng, giữ gìn thân
thể và áo quần sạch sẽ, lau chùi các vật dụng tế tự. Với trình độ ngày càng cao
thì những hành động đó cũng trở thành các bước thiền quán, rồi cuối cùng toàn
bộ cuộc sống của hành giả chỉ là hoạt động đơn thuần của thiền định.
Các thất này thường có một bếp nhỏ với vài cái
nồi chảo để nấu trà bơ, đó là phần không thể thiếu được trong thực phẩm Tây
Tạng (vì hầu như không thể nuốt tsampa khô rốc xuống họng được) và các món đơn
giản khác. Các cứ sĩ đến thăm tu viện thường chỉ cúng dường các thứ chưa nấu và
một ít thực phẩm khác, chuồi dưới khe bên cạnh cửa đã niêm phong. Bên cạnh bếp
thường có một khoảng nhỏ, dưới đó là một con lạch tách từ một dòng suối chảy
qua, dùng cho mọi nhu cầu quan trọng, kể cả vệ sinh cá nhân.
Chỗ thiền định thật sự thì rộng và thoáng - nhờ
một khoảng trần trống hình vuông nên thành một cái sân nhỏ, xung quanh có mái.
Mái che xung quanh một bên rộng, ba bên kia hẹp. Dưới mái rộng là chỗ ở chính
của hành giả. Nơi đó gồm có một cái bệ hơi cao bằng đá và đất, dùng làm chỗ
ngồi và nằm, trải trên đó là một tấm chiếu mỏng. Đối diện với chỗ ngồi là bàn
thờ với tranh tượng, đèn, chén nước và các vật dụng khác. Vách tường đối diện,
dưới mái che hẹp là nơi dùng để chứa chất đốt, vật dụng quan trọng trong thời
tiết lạnh lẽo của Tây Tạng mà trà nóng hầu như là phương tiện duy nhất để giữ
ấm. Tại Tây Tạng chất đốt quá quí, không ai dùng để sưởi phòng, mà trong trường
hợp này lại càng không thể, vì trần mở phía trên.
Chất đốt sử dụng trong các thất không phải là
phân trâu thông thường vì trong đó hay có sâu bọ - vì thế không phù hợp cho kẻ
tu hành có lòng từ bi thương mọi chúng sinh - mà thường là tro trấu hay một
loại thảo có hình nấm, có xơ gỗ, giống như một loại rêu cứng mọc trên các triền
núi. Người ta cho rằng trong chất đốt này không có loại động vật nào cả.
Từ sân nhỏ có thang lên mái xung quanh và mỗi
ngày hành giả có thể lên đó mà không ai thấy; nhờ có vách tường cao che kín có
thể lên đó mà không ai thấy; nhờ có vách tường cao che kín nên có thể thiền
hành mà không bị quấy rầy. Nhờ thế, hành giả có thể đi cả dặm mỗi ngày tùy
thích mà không phải rời thất.
Cách đi này được gọi là “kinh hành” của thời Phật
giáo nguyên thủy, ngày nay còn được thực hành trong các nước theo Thượng tọa
bộ. Khi đi kinh hành các vị sư nhẩm đọc kinh sách. Còn các hành giả lung-gom
thì đi trên mái nhằm giữ sức khỏe thân thể, vì đối với người nhập thất suốt cả
tháng cả năm thì đó là cách duy nhất được vận động trong khí trời và ánh sáng.
TU LUYỆN THÂN THỂ
Có những phép tu luyện lung-gom, chủ yếu là nhảy
từ thế ngồi hai chân tréo, nhưng không dùng tay. Trước khi nhảy, hành giả
lung-gompa hít không khí đầy ngực. Cứ áp dụng phương pháp này hàng ngày thì
hành giả nhảy được ngày càng cao và thân thể ngày càng nhẹ dần. Quan trọng nhất
là hít thở thật sâu, phối hợp với kỷ luật thuộc thân. Tôi chưa tập phép này bao
giờ và cũng không nhớ có ai nhắc đến nó tại Nyang-to Kyi-phug hay không. Thế
nhưng theo bà Alexandra David-Neel thì phép này được xem là một cách thử nghiệm
cho lung-gom.
“Người ta đào một cái hố, chiều sâu khoảng bằng
chiều cao của thí sinh. Trên hố có một cái vòm với chiều cao cũng khoảng như
thế. Trên đỉnh vòm có một cái lỗ. Như thế khoảng cách giữa đáy hố và đỉnh vòm
khoảng chừng gấp đôi chiều cao cơ thể của thí sinh. Thí sinh phải ngồi xếp bàn
tròn, nhảy dựng lên và lọt qua lỗ trên đỉnh vòm. Tôi được nghe người Khampa kể
trong xứ họ phải đạt được như thế, nhưng chưa bao giờ thấy tận mắt.
Như đã nói, tôi không nghe tại Nyang-to Kyi-phug
xác nhận điều này, lạ một điều là có sự trùng hợp với mô tả của John Blofeld về
nhà huyễn thuật Meng Goong tại làng Miao ở bắc Thái Lan. Nhà huyễn thuật này
ngồi trước bàn thờ tổ tiên “… trên cái ghế cao khoảng một mét, tay đập trống và
giọng của ông khỏe mạnh nhưng đáng sợ, nghe không phải tiếng người, vang lên
trong buổi lễ. Thỉnh thoảng xảy ra những điều phi thường, có thực và khiếp đảm.
Với một tiếng rống ghê gớm ông bắn mình lên cao một mét hay mét rưỡi và rơi
thịch xuống băng ghế làm nó rung rinh muốn gãy. Vận động này của một người, hai
chân vẫn khoanh tròn không hề duỗi ra, đối với tôi đáng sợ đến mức toát mồ hôi
lạnh.”
Sự mô tả của một tác giả tiếng tăm và đáng tin
cậy chứng minh hai điều: thứ nhất, phép tu của người Tây Tạng không phải là
hoang tưởng nhưng nhiều độc giả có thể nghĩ; thứ hai, không phải chỉ có sức
mạnh cơ bắp trong chuyện này. Nơi đây người Tây Tạng thấy có sự hiện diện của
phép bay bổng, dù ngắn ngủi nhưng được sinh ra bởi cái nhẹ nhàng phi thường và
sức mạnh tâm linh của một nhà Lung-gompa.
Dù gì đi nữa, những thuật tương tự như thế được
thực hành ở đông Tây Tạng và bắc Thái Lan đã xác nhận cảm giác đầu tiên của tôi là tại Tây Tạng, phép
nhảy đó không phải của riêng mà cũng chẳng là điều chủ yếu, nó được một truyền
thống khác bổ túc vào. Gốc gác đích thực là phép Long-gum, như đã nói, là phép
niệm hơi thở pranayana của Ấn Độ cổ (cũng là phần chủ yếu của phép tu du già của Ấn Độ giáo và Phật giáo),
trong đó phép luyện thân thể
không hề có vai rò gì. thế nên ta cũng không thể nói kẻ luyện lung-gom là những
người chịu “chôn sống” hay nguyện “vĩnh viễn sống trong bóng tối”. Trong thế
gian không có gì mà không chịu sự biến đổi hay chuyển hóa; ý muốn và ước vọng,
tư tưởng và cảm xúc con người lại càng không, ngay cả thệ nguyện sống đời tu sĩ cũng không hề “vĩnh viễn” hay không
được xét lại. Những ai tự thấy đời tu sĩ không hợp với mình hay không mang lại
tiến bộ tâm linh đều có quyền quay trở lại cuộc sống bình thường. Đời sống
trong tu viện, trong cảnh độc cư hay nhập thất cách ly hoàn toàn chỉ là phương
tiện đưa đến mục đích, tự nó không phải là cứu cánh.
* *
*
Thời gian mà một nhưng nhập thất phải sống cách
ly tùy thuộc phép tu và trình độ tu luyện. Người đó không bao giờ bị ép phải
tiếp tục tu luyện nếu sức khỏe hay năng lực giảm sút. Tại Nyang-to Kyiu-phug
thì các thời kỳ nhập thất được tính toán kỹ lưỡng và hiển nhiên là không ai tu
tập mà không được thầy của mình chuẩn bị chu đáo. Thời gian ngắn nhất kéo dài
khoảng một tới ba tháng, thời gian trung bình từ một tới ba năm và thời gian
dài nhất là chín năm. Thời gian dài nhất đó xem như để hoàn tất phép lung-gom,
hành giả có thể tăng lên mười hai năm như truyền thống để lại. Để tránh chuyện
khai dối thời gian tu luyện (thường thì uy tín của hành giả lung-gom dựa trên
thời gian đó), cửa vào thất được niêm phong bởi các cơ quan tôn giáo hay thế
tục, thí dụ của tu viện trưởng hay chức sắc Nhà nước (vì Tây Tạng là một xứ sở
của tăng lữ, các công việc thế tục và tinh thần không tách rời hẳn). Bảng niêm
phong nếu không được phép của các vị chức sắc thì không được mở ra. Vì chỉ có
sức mạnh ý chí và lòng thiết tha cao độ mới chịu nổi sự cách ly tuyệt đối trong
một thời gian dài mà không bị nguy hại, nên thời gian đó được coi trọng. Nó
được xem là thử nghiệm của sự kiên trì va tính chất mạnh mẽ của hành giả.
Trong thời gian tôi nghiên cứu tại đó thì có sáu
người nhập thất ở Nyang-to Kyi-phug. Một trong số đó đã ba năm tịnh khẩu và
thiền định, và người ta đoán là ông sẽ không ra khỏi thất trước sáu năm tới
đây.
Không ai được phép nói chuyện với một hành giả
Lung-gom, cũng như không được nhìn thấy thân thể, dù chỉ chút ít. Quy luật đó
là để bồ đề tính chất vô ngã ẩn danh. Vì lý do mà tay của hành giả được vải che kín khi ông thò ra lấy thức ăn
nơi khe cửa, không cho thấy hình dạng đặc biệt của tay mình, như có vết sẹo hay
xăm tay, cho nên không ai biết được người đó là ai. Khe hở đó, tôi đo là 22,5 x 25 cm, cũng chính là nơi mà hành giả lung-gom chui qua sau chín năm tu
luyện.
Người ta nói rằng, sau thời gian đó thì thân hành
giả nhẹ và mềm dẻo tới mức
có thể chui lọt lỗ đó, lỗ không to hơn bao nhiều một bàn tay của một người bình
thường và hành giả có thể chạy nhanh như ngựa phi nước đại, chân hầu như không
đụng đất. Nhờ khả năng đó mà hành giải có thể đến các thánh thất tại trung Tây
Tạng (U-Tsang) trong một thời gian không thể tin được.
Và người Tây Tạng cũng tin rằng sau khi thực hiện
xong sứ mạng trên thì hành giả lung-gom tìm một chỗ độc cư theo ý thích, trong
một hang động hay một thất tự mình xây hay tín đồ xây tặng; trong đó ông ta sẽ
thiền định và giáo hóa chúng sinh cho đến cuối đời bằng cách thực hành những
trách nhiệm tinh thần, phù hợp với phép tu của mình, tùy theo yêu cầu của tha
nhân và đệ tử.
Đối với những ai tìm tới mình, ông sẽ chia sẻ ân
phước, cứu chữa kẻ ốm đau, giúp người hoạn nạn. Thời gian tu luyện đã cho ông những sức mạnh tâm linh để chữa
bệnh, có khi chỉ cần rờ tay đến hay qua những nghi lễ đặc biệt như sử dụng dược
thảo hoặc thuốc men đã được ban phép, các thứ này đóng một vai trò quan trọng
trong Phật giáo Tây Tạng. Các năng lực thiêng liêng này đều nhờ những hoạt động
tâm linh mà có.người Tây Tạng tin rằng ai càng đi xa trên con đường đạo thì
càng có nhiều năng lực cứu giúp cho kẻ khác, càng có thể ấn chứng vật thể bằng
năng lực mang lại phước lành của mình.