Xác Ấm - Phần I - Chương 04
TÔI DẪN JULIE đến khu ăn uống, và nàng ném cho tôi ánh mắt tò mò khi thấy tôi ngay lập tức tiến về phía nhà hàng Thái. Khi chúng tôi lại gần nàng nhăn mặt và đưa tay lên bịt mũi. “Lạy Chúa,” nàng kêu lên. Những cái hộp hâm nóng đặt ở trước quầy giờ đầy thức ăn thối rữa đã khô đét đi cùng với giòi chết và nấm mốc. Bây giờ tôi hầu như không còn ngửi thấy gì được nữa, nhưng cứ nhìn vẻ mặt của Julie thì biết chắc là tởm lắm. Chúng tôi lục tìm một lát ở buồng sau, nhưng điện lưới sân bay chập chờn khiến các tủ lạnh thỉnh thoảng mới chạy, vì vậy mọi thứ bên trong đã thối hết. Tôi đi về phía quầy bán bánh burger. Julie lại nhìn tôi vẻ tò mò và đi theo tôi. Trong buồng đá, chúng tôi tìm thấy mấy miếng thịt băm đang còn lạnh, nhưng rõ ràng là đã bị tan đi đông lại nhiều lần. Ruồi chết lấm tấm trên nền sàn trắng của buồng đá.
Julie thở dài. “Thế nào?”
Tôi nhìn về đằng xa ngẫm nghĩ. Trong sân bay cũng có một quầy bán sushi... nhưng tôi không nhớ mấy về sushi, và nếu một miếng cá cam tươi có thể hỏng chỉ sau vài giờ thì tôi không muốn biết nó sẽ ra sao sau hàng năm trời.
“Trời ạ,” Julie thốt lên trong khi tôi tần ngần đứng đó, “Anh giỏi sắp xếp bữa tối thật đấy.” Nàng mở mấy hộp bánh mì mốc meo ra, và nhăn mũi lại. “Anh chưa bao giờ làm việc này đúng không? Đưa một con người còn sống về nhà ấy?”
Tôi lắc đầu vẻ xin lỗi, nhưng cách nàng dùng từ “con người” làm tôi đau nhói. Tôi chưa bao giờ thích sự phân biệt đó. Nàng là Người Sống còn tôi là Người Chết, nhưng tôi muốn tin rằng chúng tôi đều là con người cả. Tôi lý tưởng chúng như thế đấy.
Tôi giơ một ngón tay lên để ngăn nàng lại. “Một... chỗ nữa.”
Chúng tôi đi ra cạnh khu ăn uống, đến một chỗ không có biển chỉ dẫn. Đi qua vài cánh cửa nữa thì chúng tôi đến được kho hàng trung tâm sân bay. Tôi cạy một cánh cửa buồng đá ra, và một luồng khí lạnh như băng phả lên. Tôi cố giấu vẻ nhẹ nhõm. Cứ thế này mãi thì cũng ngại thật. Chúng tôi bước vào trong và đứng giữa những cái giá chất đầy các khay thức ăn máy bay.
“Để xem ở đây có gì nào...” Julie nói và bắt đầu lục lọi các giá thấp, kiểm tra những khay đựng món thịt bò băm và khoai tây đã qua xử lý. Nhờ có các chất bảo quản kỳ diệu nào đó mà những món này nhìn vẫn còn ăn được.
Julie nhìn nhãn tên ở các giá trên mà nàng không với tới và đột nhiên toét miệng cười, để lộ hai hàm răng trắng đều tăm tắp nhờ đeo dây kẽm chỉnh nha từ bé. “Nhìn kìa, có mì xào Thái! Tôi thích...” Nàng bỗng nhận ra mình đang nói gì và im bặt, mắt nhìn tôi vẻ lúng túng. Nàng chỉ lên giá. “Tôi sẽ ăn món ấy.”
Tôi vươn tay qua đầu nàng nhặt lấy một ôm mì xào Thái đông lạnh. Tôi không muốn Người Chết nào nhìn thấy Julie ăn những thứ rác rưởi không sức sống, những calorie rỗng không này, vì vậy tôi dẫn nàng đến một cái bàn nằm khuất sau mấy quầy bán bưu ảnh đã sập. Tôi cố đưa nàng đi càng xa Trường càng tốt, nhưng chúng tôi vẫn nghe thấy những tiếng kêu gào khủng khiếp vang vọng khắp hành lang. Julie giữ vẻ mặt hoàn toàn vô cảm giữa những tiếng thét chói tai nhất, nỗ lực hết sức để tỏ ra là nàng không để ý tới cảnh tàn sát kia, chỉ thiếu nước huýt sáo nữa thôi. Nàng làm thế là vì tôi hay vì chính nàng?
Chúng tôi ngồi xuống bên bàn và tôi đặt một khay thức ăn trước mặt nàng. “Chúc... ngon miệng,” tôi nói.
Nàng chọc chọc món mì còn đông cứng bằng cái đĩa nhựa. Nàng nhìn tôi. “Quả thực là anh chẳng nhớ gì cả, phải không? Lần cuối anh ăn thức ăn thật là bao giờ?”
Tôi nhún vai.
“Thế anh đã... chết hay là đại loại thế được bao lâu rồi?”
Tôi gõ gõ một ngón tay lên thái dương và lắc đầu.
Nàng nhìn tôi từ đầu đến chân. “Ờ, chắc cũng chưa lâu lắm. So với một thây ma thì trông anh khá là ổn đấy.”
Tôi lại nhăn mặt vì cách dùng từ của nàng, nhưng tôi nhận ra nàng không thể biết được hết những hàm ý xã hội sâu xa của từ “thây ma”. M thỉnh thoảng dùng từ ấy để nói đùa, và có lúc cáu giận tôi cũng dùng đến nó, nhưng khi phát ra từ miệng một kẻ ngoài cuộc, nó châm ngòi cho một nỗi phẫn nộ đầy tự ái trong tôi mà nàng sẽ không hiểu nổi. Tôi hít một hơi thật sâu và cho qua.
“Dù sao thì tôi cũng không thể ăn như thế này được,” Nàng nói, chọc cái đĩa nhựa vào món mì cho đến khi một răng đĩa gãy ra. “Tôi phải đi tìm lò vi sóng đã. Đợi nhé.”
Nàng đứng lên đi vào một trong những nhà hàng bỏ hoang. Nàng đã quên mất cách lê bước của mình, và đu đưa hông một cách nhịp nhàng. Kể cũng liều, nhưng tôi chẳng quan tâm.
“Được rồi,” nàng nói khi quay về và hít một hơi thật sâu mùi ớt cay nồng. “Hừừừm. Đã lâu lắm rồi tôi không được ăn đồ Thái. Ở sân vận động chúng tôi không có thức ăn thật nữa, chỉ các chất dinh dưỡng cơ bản Carbtein thôi. Viên Carbtein, bột Carbtein, cả nước Carbtein nữa. Lạy Chúa. Ghê lắm.” Nàng ngồi xuống ăn một miếng đậu phụ đã khô quắt đi vì đông đá. “Ôi trời ơi. Kể có thể gọi là ngon được đấy.”
Tôi ngồi nhìn nàng ăn. Tôi thấy nàng có vẻ khó khăn khi nuốt những miếng mì đã dính lại thành cục. Tôi liền lấy một chai bia đỏ âm ấm từ trong tủ lạnh của nhà hàng ra và đặt xuống bàn.
Julie ngừng ăn và nhìn chai bia. Rồi nàng nhìn tôi mỉm cười. “Chà, ngài Xác Sống. Anh đọc được ý nghĩ của tôi rồi đấy.” Nàng vặn nắp chai uống một hơi dài. “Cũng lâu lắm rồi tôi chưa được uống bia. Trong sân vận động không được dùng chất kích thích gì hết. Lúc nào cũng phải minh mẫn, lúc nào cũng phải cảnh giác, vân vân và vân vân.” Nàng lại uống một ngụm nữa và nhìn tôi vẻ dò xét pha lẫn giễu cợt. “Có lẽ anh không hẳn là một con quỷ, ngài Xác Sống ạ. Ý tôi là, bất cứ ai biết thưởng thức bia thì đối với tôi cũng không đến nỗi nào.”
Tôi nhìn nàng và đặt tay lên ngực. “Tên... tôi...” Tôi khò khè, nhưng không biết tiếp tục như thế nào.
Nàng đặt chai bia xuống rồi hơi cúi về phía trước. “Anh có tên ư?”
Tôi gật đầu.
Miệng nàng cong lên thành một nụ cười mủm mỉm thích thú. “Thế tên anh là gì?”
Tôi nhắm mắt lại, suy nghĩ thật lung, cố lôi ký ức ấy ra khỏi khoảng không mông lung, nhưng tôi đã cố như thế nhiều lần rồi. “Rrr,” tôi nói, gắng phát âm thật rõ.
“Rur? Tên anh là Rur à?”
Tôi lắc đầu. “Rrrrr...”
“Rrr? Tên anh bắt đầu bằng chữ R?”
Tôi gật đầu.
“Robert à?”
Tôi lắc.
“Rick? Rodney?”
Tôi vẫn lắc.
“Ờ... hay là Rambo?”
Tôi thở hắt ra và nhìn xuống bàn.
“Hay tôi cứ gọi anh là ‘R’ thôi nhé? Cứ bắt đầu như thế cũng được, phải không?”
Mắt tôi tìm mắt nàng. “R.” Một nụ cười chậm rãi nở ra trên mặt tôi.
“Xin chào R,” nàng nói. “Tôi là Julie. Nhưng anh đã biết tên tôi rồi phải không. Chắc tôi phải là siêu sao.” Nàng đẩy chai bia về phía tôi. “Làm một ngụm đi.”
Tôi liếc mắt nhìn cái chai một giây, cảm thấy cơn buồn nôn kỳ lạ cuộn lên trong bụng khi nghĩ tới thứ nằm bên trong. Chất nước màu hổ phách sẫm màu trống rỗng. Như thứ nước tiểu vô hồn. Nhưng tôi không muốn phá hỏng giây phút ấm không tưởng này bằng những băn khoăn Xác Sống ngu ngốc của mình. Tôi cầm lấy chai bia tu một hơi dài. Tôi có thể cảm thấy nó nhỏ qua những lỗ thủng tí xíu trên bụng, làm ướt cả áo tôi. Và tôi kinh ngạc khi thấy một chút hơi say thoảng qua trong đầu. Tất nhiên là không thể như thế được, vì tôi đâu còn máu cho cồn ngấm vào nữa, nhưng tôi vẫn cảm nhận được. Có phải là do tinh thần không? Có lẽ là do ký ức từ một cơn say nào đó trong cuộc sống trước kia của tôi chăng? Nếu vậy thì hẳn tôi không phải bợm nhậu rồi.
Julie cười toe khi nhìn thấy vẻ mặt đờ đẫn của tôi. “Uống hết đi,” nàng nói. “Thực ra thì tôi thích rượu vang hơn.”
Tôi uống một hơi nữa. Tôi nếm thấy vị son bóng mùi quả mâm xôi của nàng trên miệng chai. Bỗng nhiên tôi lại tưởng tượng ra cảnh nàng trang điểm trước khi đi xem ca nhạc, mái tóc dài đến cổ của nàng được chải chuốt cẩn thận, thân hình nhỏ nhắn của nàng rạng rỡ trong bộ váy đỏ, và tôi hôn nàng, làm cho son môi dính lên miệng tôi, màu đỏ thắm trên đôi môi xám ngoét của tôi...
Tôi đẩy cái chai ra một khoảng cách an toàn.
Julie khẽ cười và ăn tiếp. Nàng chọc chọc khay mì một hồi lâu, không chú ý gì đến tôi. Tôi đang định đánh liều thử chuyện gẫu với nàng thì nàng đột nhiên ngẩng lên nhìn tôi, trên mặt không còn chút vui vẻ nào nữa. “Thế đấy, ‘R’. Anh đang giữ tôi ở đây làm gì?”
Câu hỏi ấy làm tôi bất ngờ như bị ai vả vào mặt. Tôi nhìn lên trần. Tôi chỉ quanh sân bay, chỉ về phía những tiếng rên rỉ của Người Chết, đồng loại của tôi. “Bảo vệ cô.”
“Vớ vẩn.”
Im lặng. Nàng nhìn tôi không chớp. Tôi cụp mắt xuống.
“Nghe này,” nàng nói. “Tôi hiểu là anh đã cứu mạng tôi lúc ở trong thành phố. Và hẳn là tôi biết ơn anh vì điều đó. Thế đấy. Cảm ơn vì đã cứu mạng tôi. Hay là đã tha mạng tôi. Thế nào cũng được. Nhưng anh đã đưa tôi vào đây được thì tôi chắc là anh cũng có thể đưa tôi ra. Vậy tôi hỏi lại một lần nữa: anh giữ tôi ở đây để làm gì?”
Mắt nàng dán vào mặt tôi như hai chiếc bàn là nóng rực, và tôi nhận ra mình không thể lẩn tránh được nữa. Tôi đặt tay lên ngực, bên trên chỗ trái tim. “Trái tim” của tôi. Không biết cái cơ quan nội tạng thảm thương ấy còn tượng trưng cho điều gì nữa không? Nó nằm im lìm trong ngực tôi, không bơm máu, không có tác dụng gì nữa, vậy mà dường như tình cảm của tôi vẫn bắt nguồn từ những vách ngăn lạnh ngắt của nó. Nỗi buồn câm lặng của tôi, khao khát mơ hồ của tôi, cả những niềm vui hiếm hoi chớp nhoáng nữa. Chúng dồn lại giữa ngực tôi và tỏa ra từ đó, đã bị loãng và yếu đi nhiều, nhưng vẫn đầy chân thực.
Tôi áp tay vào tim mình. Rồi tôi chậm rãi đưa tay về phía Julie và áp tay lên chỗ tim nàng. Tôi cố bắt mình nhìn vào mắt nàng.
Nàng nhìn xuống tay tôi, rồi ném cho tôi một cái nhìn lạnh lùng. “Anh. Đùa. Đấy. À.”
Tôi rút tay về và lại nhìn xuống bàn, thầm biết ơn là mình không còn đỏ mặt được nữa. “Cần... đợi,” tôi lầm bầm. “Họ... nghĩ cô... mới chuyển đổi. Họ sẽ nhận ra.”
“Phải mất bao lâu?”
“Vài... ngày. Họ sẽ... quên.”
“Lạy Chúa,” nàng thở hắt ra, đưa tay lên che mắt, và lắc đầu.
“Cô sẽ... không sao,” tôi bảo nàng. “Hứa đấy.”
Nàng lờ tôi đi. Nàng lôi một cái iPod ra khỏi túi và nhét tai nghe vào tai. Nàng lại tiếp tục ăn và nghe thứ nhạc mà với tôi chỉ là một tiếng rít khe khẽ.
Buổi hẹn này có vẻ không ổn. Một lần nữa, những ý nghĩ phi lý của chính mình lại khiến tôi choáng ngợp, và tôi muốn bò ra khỏi bộ da này, thoát khỏi lớp thịt xấu xí vụng về này, chỉ còn là một bộ xương trần trụi, vô danh. Tôi đang định đứng dậy bỏ đi thì Julie bỏ một tai nghe ra và nheo mắt nhìn tôi như muốn xuyên suốt qua tôi. “Anh... rất khác biệt, phải không,” nàng nói.
Tôi không trả lời.
“Bởi vì tôi chưa bao giờ nghe Xác Sống nói gì ngoài ‘óc!’ và rên rỉ đến ngớ ngẩn. Và tôi cũng chưa bao giờ thấy một Xác Sống nào ngoài việc ăn con người thì còn có bất kỳ hứng thú gì khác với họ. Tôi chắc chắn chưa bao giờ được Xác Sống nào mua bia cho cả. Có những... người khác giống anh không?”
Tôi lại thấy muốn đỏ mặt. “Không... biết.”
Nàng gạt mì qua lại trên đĩa. “Vài ngày,” nàng nhắc lại.
Tôi gật đầu.
“Thế tôi biết làm gì ở đây cho đến khi có thể an toàn bỏ đi bây giờ? Hy vọng anh không mong tôi sẽ ngồi trong căn nhà phản lực của anh và tắm máu suốt cả tuần đấy chứ.”
Tôi ngẫm nghĩ một lát. Một loạt những hình ảnh lướt qua đầu tôi, có lẽ từ những bộ phim cũ tôi đã xem, ủy mị ướt át và không thể thực hiện nổi. Tôi phải bình tâm lại mới được.
“Tôi sẽ... tiếp đãi,” cuối cùng tôi nói, cố nặn ra một nụ cười không giống thật lắm. “Cô là... khách.”
Nàng đảo mắt và ăn tiếp. Cái tai nghe thứ hai vẫn còn nằm trên bàn. Không ngẩng nhìn lên, nàng đưa nó cho tôi. Tôi nhét nó vào tai và giọng hát của Paul McCartney vọng vào đầu tôi, hát lên những từ trái nghĩa đầy nuối tiếc, có/không, cao/thấp, xin chào/tạm biệt/xin chào.
“Anh có biết là John Lennon cực ghét bài này không?” Julie nói trong lúc bài hát tiếp tục, hướng về phía tôi nhưng không hẳn là nhìn tôi. “Anh ta nghĩ nó chỉ toàn những từ linh tinh vô nghĩa. Người sáng tác bài ‘I Am the Walrus’ mà lại nói thế thì buồn cười thật.”
“Bài này... hay,” tôi nói.
Nàng ngưng lại, nghiêng đầu nhìn tôi vẻ ngạc nhiên thích thú. “Chính xác thế đấy, phải không?” Nàng lơ đãng làm một ngụm bia, quên mất vết môi tôi trên chai, và mắt tôi mở to hoảng hốt. Nhưng không có gì xảy ra cả. Có lẽ căn bệnh truyền nhiễm của tôi không thể lây lan qua những giây phút êm dịu như thế này. Có lẽ nó cần sự hung bạo của vết cắn.
“Dù sao thì bây giờ bài này cũng hơi quá vui nhộn so với tôi,” nàng nói và chuyển sang bài khác. Tôi thoáng nghe thấy một đoạn Ava Gardner hát trong phim Showboat, rồi nàng tua qua vài bài nữa, để chọn một bài nhạc rock mà tôi không biết, rồi vặn to tiếng lên. Tôi chỉ còn nghe thấy loáng thoáng tiếng nhạc, nhưng tôi không để ý đến nó nữa. Tôi ngắm Julie gật gù đầu sang hai bên, mắt nhắm lại. Ngay cả lúc này đây, trong nơi tăm tối nhất, lạ lùng nhất, bầu bạn với một kẻ rùng rợn nhất, âm nhạc vẫn khuấy động nàng và sức sống của nàng vẫn sục sôi. Tôi lại ngửi thấy mùi của nó, một luồng hơi trắng sáng rực tỏa ra từ bên dưới lớp máu đen sì của tôi. Và tôi không thể khiến mình bóp nghẹt sức sống ấy, cho dù là vì sự an toàn của Julie.
Tôi bị làm sao vậy? Tôi nhìn tay mình, nhìn lớp da xám xịt, lạnh nhắt, cứng đơ, và tôi mơ nó lại hồng hào, ấm áp, mềm mại, có thể dẫn dắt, xây dựng, và vuốt ve. Tôi mơ những tế bào hoại tử của mình sẽ thức dậy khỏi cơn mê, nở ra và sáng rực lên sâu thẳm trong tôi như đèn Giáng sinh. Có phải tôi đã tưởng tượng ra những điều này, cũng hơi men bia không? Một thứ thuốc trấn an? Một ảo tưởng lạc quan? Dù sao thì tôi cũng cảm thấy đường thẳng tồn tại của tôi đã bị phá vỡ, tạo thành những núi đồi và thung lũng của nhịp tim.
“ANH PHẢI CUA NGỌT VÀO CHỨ. Cứ mỗi khi rẽ phải là anh lại suýt lao ra khỏi đường.”
Tôi vặn mạnh cái vô lăng mảnh bọc da và nhấn chân lên bàn đạp ga. Chiếc Mercedes chúi về phía trước, làm đầu chúng tôi giật ra đằng sau.
“Trời ạ, anh cứng chân quá. Đạp ga nhẹ hơn một chút được không?”
Chiếc xe giật cục dừng lại, nhưng tôi quên không nhấn chân côn, và xe chết máy. Julie đảo mắt, cố lấy giọng kiên nhẫn. “Được rồi, nhìn này.” Nàng khỏi động lại xe, rồi ngồi dịch sang, vắt chân qua chân tôi, đặt bàn chân lên bàn chân tôi. Nhờ có nàng, tôi chuyển từ chân ga sang chân côn một cách trôi chảy, và chiếc xe lướt tới trước. “Làm như thế,” nàng nói và quay lại ghế của mình. Tôi phát ra một tiếng khò khè hài lòng.
Chúng tôi đang lái xe trên đường băng, vòng đi vòng lại dưới ánh nắng chiều dịu nhẹ. Tóc chúng tôi bay tung trong gió. Trong giây phút ấy, trên chiếc xe Roadster’64 màu đỏ thắm này, với cô gái xinh đẹp này, tôi không thể không tưởng tượng mình đang sống những cuộc sống khác, nên thơ một cách cổ điển hơn. Tâm trí tôi bắt đầu lan man, và tôi đánh mất chút tập trung ít ỏi tôi có được. Chiếc xe lao ra khỏi đường băng, sượt qua bộ giảm xóc của một chiếc xe thang, xô đẩy vòng tròn của nhà thờ Xương Khô. Cú va chạm khiến đầu chúng tôi đập sang bên, và tôi nghe thấy tiếng xương cổ hai đứa con tôi đang ngồi ở ghế sau gãy đánh rắc. Chúng rên rỉ phản đối và tôi suỵt bảo chúng yên lặng. Tôi đã ngượng lắm rồi; không cần hai đứa thêm vào nữa.
Julie kiểm tra đầu xe bị méo và lắc đầu. “Chết tiệt thật, R. Cái xe đẹp thế này kia mà.”
Con trai tôi vụng về lao tới trước hòng cắn vai Julie một lần nữa, và tôi thò tay về phía tay đập cho nó một cái. Nó ngồi gục xuống ghế, hai tay khoanh lại, mặt sưng sỉa.
“Không được cắn!” Julie quát nó trong khi vẫn tiếp tục xem xét hư hại trên chiếc xe.
Tôi không biết tại sao hôm nay tôi lại quyết định đưa hai đứa con theo trong buổi học lái xe. Julie đã cố dạy tôi từ mấy ngày nay rồi, và tự dưng hôm nay tôi bỗng cảm thấy một thôi thúc mơ hồ nào đó, muốn được làm bố. Được truyền kiến thức. Tôi biết làm như vậy là không an toàn. Hai đứa con tôi còn quá nhỏ để nhận ra giọng nói của Người Sống, chứ đừng nói gì đến việc thưởng thức âm thanh ấy như tôi, và tôi đã phải bôi lại lớp hóa trang ghê tởm của Julie mấy lần, nhưng khi ngồi gần, bản chất thật của nàng vẫn tỏa ra ngoài. Thỉnh thoảng hai đứa con tôi lại ngửi thấy mùi sự sống, và bản năng phát triển chậm chạp của chúng lại lên tiếng. Tôi cố kỷ luật chúng một cách âu yếm nhất.
Khi vòng xe lại để quay về nhà, tôi thấy một đoàn người đang ra khỏi cổng hành lý. Như một đám tang ngược đời, những Người chết nghiêm trang đi thành hàng một, lề rề từng bước tiến về phía nhà thờ. Một nhóm Xương Khô dẫn đầu đoàn người, đi một cách quả quyết hơn nhiều so với những kẻ vẫn còn da thịt. Trong số bọn tôi, chỉ có vài kẻ đó biết rõ chúng đang đi đâu và đang làm gì. Chúng không ngần ngừ, chúng không dừng lại hay đi đường khác, và cơ thể chúng không còn phát triển hay thối rữa nữa. Chúng sẽ không bao giờ thay đổi. Một trong số chúng nhìn thẳng vào tôi, và tôi chợt nhớ đến một bức tranh khắc từ thời Trung cổ mà tôi từng thấy, vẽ hình một cái xác thối đang nhăn răng cười với một trinh nữ mũm mĩm.
Quod tu es, ego fui, quod ego sum, tu eris.
Ngươi đang thế nào thì ta cũng từng như vậy.
Ta đang thế nào thì ngươi cũng sẽ như vậy.
Tôi rời mắt khỏi cái nhìn trống rỗng của bộ xương ấy. Khi chúng tôi lái xe dọc theo đoàn người, mấy người Da Thịt nhìn chúng tôi vẻ ơ hờ, và tôi thấy vợ tôi đi cùng với họ. Cô ta đang đi bên một người đàn ông, nắm chặt tay hắn. Hai đứa con tôi nhìn thấy cô ta và đứng lên trên ghế sau, vừa vẫy tay vừa gầm gừ thật to. Julie nhìn theo và thấy vợ tôi vẫy tay chào lại chúng, Julie quay sang nhìn tôi. “Đó có phải là... vợ anh không?”
Tôi không trả lời. Tôi nhìn vợ tôi, chờ đợi một lời quở trách nào đó. Nhưng trong mắt cô ta gần như không có vẻ gì là nhận ra tôi. Cô ta nhìn chiếc xe. Cô ta nhìn tôi. Cô ta nhìn thẳng về phía trước và đi tiếp, tay trong tay với một người đàn ông khác.
“Đó có phải là vợ anh không?” Julie hỏi lại, gay gắt hơn. Tôi gật đầu. “Thế cái... gã đi cùng cô ấy là ai?” Tôi nhún vai. “Cô ấy đang bồ bịch à?” Tôi lại nhún vai. “Anh không thấy... tức giận ư?”
Tôi nhún vai.
“Đừng có nhún vai nữa, đồ khốn! Tôi biết anh nói chuyện được mà; nói gì đó đi.”
Tôi nghĩ một lát. Vừa nhìn vợ tôi đi xa dần, tôi vừa đặt tay lên tim mình. “Chết.” Tôi chỉ tay về phía vợ tôi. “Chết.” Tôi đưa mắt nhìn vô định lên trời. “Muốn... thấy đau. Nhưng... không thấy.”
Julie nhìn tôi như đang đợi tôi nói gì thêm, và tôi tự hỏi không biết mình đã diễn đạt được gì bằng màn độc thoại ngập ngừng lầm bầm đó. Liệu những từ tôi thốt ra có đủ nghe không, hay chúng chỉ vang lên trong đầu tôi trong khi mọi người nhìn tôi chờ đợi? Tôi muốn thay thế dấu câu của mình. Tôi khao khát được dùng dấu chấm than, nhưng tôi lại đang chết chìm trong những dấu chấm lửng.
Julie nhìn tôi thêm một lát, rồi quay lại nhìn kính chắn gió và cảnh vật phía trước. Bên phải chúng tôi: những đường hầm lên máy bay trống rỗng, tối đen, trước kia đã đông nghịt những người lữ hành háo hức trên đường thăm thú thế giới, để mở rộng tầm mắt, đề tìm kiếm tình yêu, danh vọng, và tiền tài. Bên trái chúng tôi: một chiếc máy bay Dreamliner cháy đen.
“Bạn trai tôi cũng từng không chung thủy với tôi.” Julie nói với cái kính chắn gió. “Hồi đang xây dựng trại mồ côi, bố anh ấy cho một cô gái ở nhờ, và một tối anh ấy và cô ta uống say đến quên trời quên đất, và chuyện cứ thế xảy ra thôi. Về cơ bản thì đó chỉ là một tai nạn, và anh ấy đã thú nhận với tôi một cách thành thực và cảm động nhất, thề có Chúa là anh ấy rất yêu tôi và sẽ làm tất cả để chứng tỏ với tôi, vân vân và vân vân, nhưng chẳng ích gì, tôi không ngừng nghĩ về chuyện ấy, đay đi đay lại trong đầu mình, và cứ thế nổi điên lên. Suốt mấy tuần liền đêm nào tôi cũng khóc. Tôi nghe đến mòn hết cả mấy bài hát buồn nhất mà tôi lưu trong máy ấy.” Nàng chầm chậm lắc đầu. Mắt nàng nhìn xa xăm. “Mọi thứ cứ... Đôi khi tôi cảm thấy mọi thứ quá khắc nghiệt. Khi chuyện đó xảy ra với Perry, tôi chỉ muốn được... giống như anh thôi.”
Tôi chăm chú nhìn nàng. Nàng đưa một ngón tay lên quấn tóc. Tôi nhận ra những vết sẹo mờ trên cổ tay và cánh tay nàng, những đường thẳng quá đều đặn để có thể là do tai nạn. Nàng chớp chớp mắt và đột nhiên quay sang nhìn tôi, như thể tôi vừa đánh thức nàng dậy từ một giấc mơ. “Chẳng hiểu sao tôi lại kể cho anh nghe những chuyện này nữa,” nàng cáu kỉnh nói. “Thôi, hôm nay học thế là đủ rồi. Tôi thấy mệt.”
Không nói thêm một lời, tôi lái xe về nhà. Tôi nhấn phanh quá chậm và đỗ xe lại khi cái giảm xóc chỉ cách mũi một chiếc Miata có năm phân. Julie thở dài.