Xác Ấm - Phần II - Chương 11
Bước hai: Nắm bắt
Tôi còn trẻ. Tôi là một cậu thiếu niên tràn trề sức khỏe, mạnh mẽ, sung sức, đầy năng lượng. Nhưng tôi đang già đi. Mỗi giây trôi qua lại làm tôi thêm tuổi. Các tế bào của tôi bị dàn mỏng hơn, cứng lại, lạnh đi, sẫm màu dần. Tôi mới mười lăm tuổi, nhưng mỗi cái chết quanh tôi lại làm tôi già đi một thập kỉ. Mỗi điều khủng khiếp, mỗi bi kịch, mỗi khoảnh khắc buồn đau. Chẳng mấy chốc tôi sẽ trở thành thiên cổ.
Tôi đây, Perry Kelvin, đang ở trong sân vận động. Tôi nghe thấy tiếng chim hót trên tường. Tiếng bồ câu gù, tiếng chim sáo líu lo. Tôi ngẩng lên hít một hơi thật sâu. Gần đây không khí đã trở nên trong lành hơn nhiều, ngay cả ở nơi này. Tôi tự hỏi liệu đây có phải mùi của thế giới thuở còn mới mẻ, bao nhiêu thế kỉ trước khi có ống khói. Tôi vừa bực bội vừa thích thú khi nghĩ rằng chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc, rằng bất chấp nỗ lực của các sử gia, các nhà khoa học và thi sĩ, sẽ vẫn luôn có những điều chúng ta không bao giờ biết. Bài hát đầu tiên nghe ra sao. Cảm giác khi ngắm bức ảnh chụp đầu tiên. Ai là người đã trao nụ hôn đầu tiên, và nụ hôn đó có tuyệt vời hay không.
“Anh Perry!”
Tôi mỉm cười vẫy tay với người hâm mộ nhỏ tuổi trong lúc nó theo các anh chị em nuôi xếp hàng qua đường, tay nắm tay. “Chào... nhóc,” tôi đáp lại. Tôi chưa bao giờ nhớ nổi tên nó.
“Bọn em đang ra vườn đấy.”
“Thích nhỉ!”
Julie Grigio cười với tôi trong lúc dẫn đầu bọn trẻ như con thiên nga mẹ. Trong thành phố hàng ngàn người này, hầu như ngày nào tôi cũng chạm mặt nàng, khi thì gần trường tức là cũng không lạ lắm, khi thì ở những góc ngoài của sân vận động nơi chúng tôi ít có cơ hội đụng nhau hơn. Nàng đang bám theo tôi hay tôi đang bám theo nàng? Dù là thế nào đi chăng nữa thì mỗi lần thấy nàng, tôi đều cảm thấy một luồng adrenaline và hormone căng thẳng xuyên suốt qua người, dồn vào lòng bàn tay làm chúng rịn mồ hôi và dồn lên mặt làm tôi nổi mụn. Lần trước chúng tôi gặp nhau, nàng đã đưa tôi lên mái. Chúng tôi ngồi nghe nhạc hàng giờ, và khi mặt trời lặn, tôi dám chắc là chúng tôi suýt nữa đã hôn nhau.
“Đi với bọn mình không, Perry?” Nàng hỏi. “Bọn mình đang đi tham quan đây!”
“Ờ, vui nhỉ... tham quan một chỗ mình vừa làm việc suốt tám tiếng đồng hồ.”
“Ở đây thì lấy đâu ra nhiều chỗ tham quan.”
“Mình cũng thấy thế rồi.”
Nàng vẫy tay gọi tôi lại và tôi lập tức làm theo, trong khi cố tỏ ra miễn cưỡng. “Chúng nó không được ra ngoài bây giờ hay sao?” Tôi hỏi, nhìn đám trẻ đi đều bằng những bước chân vụng về nối gót nhau.
“Cô Grau sẽ nói thế này đã là ra ngoài rồi.”
“Ý mình là bên ngoài thực sự ấy. Cây cối, sông ngòi, v.v.”
“Phải đợi đến khi mười hai tuổi kia.”
“Kinh khủng nhỉ.”
“Ừ...”
Chúng tôi bước đi trong im lặng, chỉ có mấy tiếng trẻ con líu lo sau lưng. Tường sân vận động vươn cao vẻ che chở như những bậc phụ huynh sẽ chẳng bao giờ được lũ trẻ này biết đến. Sự phấn khích tôi cảm thấy khi được gặp Julie đã tối sầm lại dưới một đám mây u sầu bất ngờ kéo đến.
“Làm sao cậu có thể chịu được chỗ này?” Tôi nói, gần như chẳng thành một câu hỏi hẳn hoi.
Julie nhíu mày nhìn tôi. “Bọn mình có được ra ngoài đấy chứ. Hai lần một tháng.”
“Mình biết, nhưng...”
Nàng chờ đợi. “Gì nào, Perry?”
“Cậu đã bao giờ tự hỏi xem nó có đáng hay không?” Tôi chỉ vơ vẩn về phía bức tường. “Tất cả những cái này ấy.”
Vẻ mặt nàng đanh lại.
“Ý mình là, bọn mình sống trong này có tốt hơn chút nào không?”
“Perry,” nàng quát, gay gắt đến không ngờ. “Cậu đừng có nói kiểu như thế, mẹ kiếp, không được nói như thế.”
Nàng nhận ra bọn trẻ sau lưng chúng tôi đã im bặt, co rúm cả người. “Chị xin lỗi,” nàng thì thào với bọn trẻ vẻ bí mật. “Từ bậy đấy.”
“Mẹ kiếp!” Anh bạn nhỏ của tôi hét, và cả hàng cười phá lên.
Julie đảo mắt. “Tuyệt thật.”
“Chậc chậc.”
“Cậu im đi, tớ nói thật đấy. Cậu vừa nói toàn những điều xấu xa.”
Tôi băn khoăn nhìn nàng.
“Bọn mình được ra ngoài hai lần một tháng. Nếu đi thu gom đồ thì sẽ nhiều hơn. Và bọn mình được sống.” Nghe như nàng đang đọc thuộc lòng một đoạn Kinh thánh vậy. Hay một câu châm ngôn cổ. Hình như nàng cũng nhận ra vẻ thiếu tự tin của mình, nên nàng liếc nhìn tôi, rồi lập tức quay ngoắt về phía trước. Giọng nàng nhỏ hẳn lại. “Không được nói những chuyện xấu xa đó nữa nếu cậu muốn cùng đi tham quan với bọn mình.”
“Xin lỗi.”
“Cậu chưa ở đây lâu. Cậu lớn lên ở một nơi an toàn. Cậu không hiểu rõ các mối nguy đâu.”
Nghe vậy trong tôi tràn ngập các cảm xúc tăm tối, nhưng tôi bắt mình im miệng. Tôi không biết nỗi đau nào đã khiến nàng thốt ra những lời đó, nhưng tôi biết nó thẳm sâu vô cùng. Nó khiến nàng trở nên khắc nghiệt nhưng đồng thời cũng hết sức dịu dàng. NÓ là những chiếc gai và bàn tay của nàng, vươn ra từ bụi rậm.
“Xin lỗi,” tôi nhắc lại và lần tìm bàn tay ấy, kéo nó ra khỏi túi quần bò của nàng. Bàn tay nàng ấm nóng. Tôi siết chặt những ngón tay lạnh ngắt của mình quanh tay nàng, và trong đầu tôi bỗng hiện lên những hình ảnh chẳng hay ho gì của những xúc tu bạch tuộc. Tôi chớp mắt gạt nó ra khỏi óc. “Không nói chuyện xấu xa nữa.”
Bọn trẻ ngây người nhìn tôi vẻ háo hức, mắt mở to, má nhẵn mịn. Tôi tự hỏi chúng là gì, chúng có nghĩa gì, và điều gì sẽ xảy ra với chúng.
***
“Bố này.”
“Sao cơ?”
“Con nghĩ là con có bạn gái rồi.”
Bố tôi hạ tấm bìa kẹp giấy tờ xuống và chỉnh lại chiếc mũ bảo hộ. Một nụ cười hiện ra trên những nếp nhăn hằn sâu trên mặt ông. “Thật ư?”
“Con nghĩ vậy.”
“Ai thế?”
“Julie Grigio ạ.”
Bố gật đầu. “Bố đã gặp con bé. Nó... này! Doug!” Ông gặp người qua mép tường chắn và hét gọi một công nhân đang vác một cây cột thép. “Đấy là cỡ bốn mươi. Doug, ta đang dùng cỡ năm mươi cho nhánh tường chính cơ mà.” Ông quay lại nhìn tôi. “Con bé dễ thương đấy. Nhưng con phải cẩn thận, nó có vẻ dễ nổ lắm.”
“Con thích chất nổ.”
Bố tôi mỉm cười. Mắt ông nhìn xa xăm. “Bố cũng thế, nhóc ạ.”
Chiếc bộ đàm của ông sột soạt kêu và ông cầm nó lên để truyền lời hướng dẫn. Tôi nhìn toàn cảnh bức tường bê tông xấu xí đang được dựng lên. Chúng tôi đang đứng ở đầu cuối bức tường, cao hơn bốn mét, giờ đã dài chừng vài khối nhà. Một đoạn tường khác nằm song song với nó, biến Phố Chính thành một hành lang khép kín chạy xuyên qua trung tâm thành phố. Các công nhân đi đi lại lại bên dưới, đặt móng bằng bê tông, dựng khung.
“Bố này?”
“Gì cơ?”
“Bố có nghĩ như thế là ngu ngốc không?”
“Cái gì?”
“Yêu ấy.”
Ông ngừng lại rồi cất bộ đàm đi. “Ý con là sao? Pear.”
“Ý con là, bây giờ ấy. Khi mọi chuyện đang như thế này. Ý con là chẳng có gì chắc chắn cả. Liệu có ngu ngốc không khi phí thời gian cho những chuyện như vậy giữa một thế giới như thế này? Khi tất cả có thể sụp đổ bất cứ lúc nào?”
Bố nhìn tôi một lúc lâu. “Khi bố gặp mẹ con,” ông nói, “bố cũng đã tự hỏi mình như thế. Mà hồi ấy chúng ta mới phải chịu vài cuộc chiến tranh và suy thoái thôi đấy.” Bộ đàm của ông lại cất tiếng. Ông lờ nó đi. “Bố đã có mười chín năm với mẹ con. Nhưng con có nghĩ là bố sẽ từ chối nếu bố biết bố sẽ chỉ có được một năm hay không? Hay chỉ là một tháng?” Ông nhìn bức tường và lắc đầu. “Không có cái gì làm chuẩn bắt cuộc sống phải xảy ra như thế nào, Perry ạ. Con không thể ngồi đợi một thế giới lý tưởng được. Thế giới sẽ chỉ luôn như nó hiện nay, và con phản ứng lại như thế nào là phụ thuộc vào con.”
Tôi nhìn những ô cửa sổ tối om của các tòa nhà văn phòng đã đổ nát. Tôi tưởng tượng ra bộ xương của đám nhân viên vẫn ngồi bên bàn, làm việc cho một chỉ tiêu mà học sẽ không bao giờ đạt được.
“Giả sử bố chỉ có được một tuần với mẹ thì sao?”
“Perry...” Bố tôi nói, thoáng kinh ngạc. “Thế giới không kết thúc ngay ngày mai, con ạ. Con hiểu không? Chúng ta đang tìm cách sửa chữa nó. Con nhìn xem.” Ông chỉ vào đám công nhân bên dưới. “Chúng ta đang xây đường. Chúng ta sẽ nối liền các sân vận động và những chỗ trú ẩn khác, giúp các khu định cư liên kết với nhau, góp chung của cải và nghiên cứu, để có thể bắt đầu tìm thuốc chữa.” Bố vỗ vai tôi. “Bố con ta, tất cả mọi người... chúng ta sẽ qua được. Con đừng bỏ cuộc. Được chứ?”
Tôi khẽ thở ra một hơi, nhượng bộ. “Được ạ.”
“Con hứa chứ?”
“Con hứa.”
Bố tôi mỉm cười. “Bố sẽ bắt con giữ lời đấy.”
***
Mi có biết chuyện gì xảy ra sau đó không, thây ma? Perry thì thầm từ bóng tối sâu thẳm trong tiềm thức của tôi. Mi có đoán được không?
“Tại sao cậu lại cho thấy những điều này?” Tôi hỏi bóng tối.
Bởi đây là tất cả những gì còn lại của ta, và ta muốn mi cảm nhận được nó. Ta chưa sẵn sàng để biến mất.
“Tôi cũng thế.”
Tôi cảm nhận được một nụ cười lạnh lùng ẩn hiện trong giọng nói của gã.
Tốt.
***
“Cậu đây rồi.”
Julie trèo lên thang và đứng lên mái ngôi nhà mới của tôi, ngắm nhìn tôi. Tôi đưa mắt nhìn nàng, rồi lại vùi mặt vào lòng bàn tay. Nàng đến gần tôi, cẩn thận dò bước trên những tấm kim loại mỏng, rồi ngồi xuống cạnh tôi ở mép mái nhà. Chân chúng tôi thò xuống đu đưa chầm chậm trong không khí mùa thu se lạnh.
“Perry?”
Tôi không trả lời. Nàng ngắm một bên khuôn mặt tôi. Nàng đưa tay ra, lùa hai ngón tay qua mái tóc bờm xờm của tôi. Cặp mắt xanh biếc của nàng lôi kéo tôi như trọng lực, nhưng tôi cố cưỡng lại. Tôi nhìn xuống con phố đầy bùn.
“Thật không tin được là mình ở đây,” tôi lầm bầm. “Ngôi nhà ngu ngốc này. Với những thứ đồ bỏ này.”
Nàng không đáp lại ngay. Khi nàng lên tiếng, giọng nàng rất nhẹ nhàng. “Họ đâu phải đồ bỏ. Họ đã được yêu thương.”
“Chỉ trong chốc lát thôi.”
“Bố mẹ họ không bỏ đi. Họ đã bị cướp đi.”
“Thế thì có khác gì nhau đâu.”
Nàng nhìn tôi chăm chú đến nỗi tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài quay sang đáp lại cái nhìn của nàng. “Mẹ cậu đã rất yêu cậu, Perry ạ. Cậu không bao giờ phải nghi ngờ điều đó. Và cả bố cậu cũng vậy.”
Tôi không thể chịu nổi sức ép này nữa. Tôi bỏ cuộc và để cho nó đè nặng lên mình. Tôi quay đầu tránh Julie khi nước mắt trào ra.
“Nếu muốn thì cậu cứ tin là Chúa đã bỏ rơi cậu, hay số phận hay định mệnh đã bỏ rơi cậu, cái gì cũng được, nhưng ít ra cậu cũng biết là họ đã yêu cậu.”
“Có gì quan trọng đâu.” Tôi rên lên, tránh mắt nàng. “Ai cần quan tâm chứ, họ đã chết rồi. Đó mới là thực tại. Đó mới là điều đáng kể.”
Chúng tôi không nói gì suốt mấy phút. Làn gió lạnh làm tay chúng tôi nổi da gà. Những chiếc lá rực rỡ tìm đường đến từ tận những khu rừng ở bên ngoài, xoay tròn rơi vào cái miệng khổng lồ của sân vận động và hạ cánh lên mái nhà.
“Cậu biết không, Perry,” Julie nói. Giọng nàng run lên vì nỗi đau riêng. “Tất cả mọi thứ rồi sẽ phải chết. Chúng ta đều biết thế. Con người, thành phố, cả các nền văn minh. Không có gì tồn tại mãi mãi cả. Vì thế nếu sự tồn tại chỉ là hệ nhị phân, sống hoặc chết, ở đây hoặc không ở đây, thì tất cả sẽ có ý nghĩa quái gì?” Nàng ngẩng lên nhìn những chiếc lá rụng và chìa tay ra bắt được một cái, một chiếc lá phong đỏ rực. “Mẹ mình vẫn thường nói đó là lí do chúng ta có kí ức. Và điều trái ngược của kí ức - hy vọng. Để cho những điều đã biến mất vẫn còn ý nghĩa. Để chúng ta có thể dựa vào quá khứ mà xây dựng tương lai.” Nàng xoay xoay chiếc lá trước mặt. “Mẹ mình nói cuộc sống sẽ chỉ có ý nghĩa nếu chúng ta nhìn được thời gian theo cách của Chúa. Quá khứ hiện tại và tương lai cùng một lúc.”
Tôi cho phép mình quay sang nhìn Julie. Nàng thấy những giọt nước mắt của tôi và lau đi một giọt. “Thế tương lai là gì?” Tôi hỏi, không lùi lại. “Mình có thể thấy quá khứ và hiện tại nhưng còn tương lai thì sao?”
“Ờ...” Nàng cất tiếng cười. “Mình đoán đó là phần rắc rối đấy. Quá khứ được tạo thành bởi sự kiện và lịch sử. Mình đoán tương lai chỉ là hy vọng mà thôi.”
“Hoặc là nỗi sợ.”
“Không.” Nàng lắc mạnh đầu và cài chiếc lá lên tóc tôi. “Hy vọng.”