Xác Ấm - Phần II - Chương 20
“R.”
Tôi mở mắt ra và ngồi dậy. Julie đang ngồi xếp bằng bên cạnh tôi, ngắm nhìn tôi với vẻ thích thú dữ dằn.
“Anh nằm mơ hay chứ?”
“Không... chắc,” tôi lầm bầm, đưa tay dụi mắt.
“Anh có mơ được giải pháp nào cho vấn đề nho nhỏ của chúng ta không?”
Tôi lắc đầu.
“Ừ, tôi cũng không.” Nàng liếc nhìn đồng hồ treo tường và rầu rĩ mím môi. “Mấy tiếng nữa là tôi phải đến trung tâm cộng đồng để đọc truyện. David và Marie sẽ khóc nếu tôi không có mặt.”
David và Marie. Tôi nhắc lại những cái tên ấy trong đầu, tận hưởng từng đường nét của chúng. Tôi sẵn sàng cho cô chó Trina ăn cả cái chân mình để được gặp lại hai đứa trẻ ấy. Để được nghe mấy âm tiết vụng về thốt ra từ miệng chúng trước khi tôi chết. “Cô đang... đọc truyện gì?”
Nàng nhìn qua cửa sổ ngắm thành phố, mỗi vết rạn và chỗ hỏng đều nổi hẳn lên dưới ánh sáng trắng chói lòa. “Tôi đang cố làm chúng thích bộ Tường Đỏ[13]. Tôi nghĩ những bài hát và yến tiệc và các chàng chiến binh chuột dũng cảm sẽ giúp chúng quên đi cơn ác mộng giữa cuộc sống của chúng. Marie cứ xin đọc sách về Xác Sống và tôi cứ phải bảo nó là tôi không thể đọc sách người thật việc thật trong giờ đọc truyện được, nhưng...” Nàng nhận thấy vẻ mặt tôi và ngừng lại. “Anh không sao chứ?”
[13] Redwall, bộ truyện thiếu nhi của nhà văn Anh Brian Jacques (1939 - 2011), kể về những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của các con vật nhỏ đã được nhân cách hóa như chuột, sóc, thỏ, chồn, v.v.
Tôi gật đầu.
“Anh đang nghĩ về hai đứa con ở sân bay phải không?”
Tôi ngần ngừ, rồi gật.
Nàng vươn tay ra chạm vào đầu gối tôi và nhìn vào cặp mắt cay sè của tôi. “R này? Tôi biết mọi chuyện giờ có vẻ tệ, nhưng nghe này. Anh không được bỏ cuộc. Chừng nào anh còn thở - xin lỗi, chừng nào anh còn cử động, thì mọi chuyện chưa kết thúc. Được chứ?”
Tôi gật đầu.
“Được chứ? Chó chết, nói ra đi, R.”
“Được.”
Nàng mỉm cười.
“HAI. TÁM. HAI MƯƠI TƯ.”
Chúng tôi giật bắn người buông nhau ra khi một cái loa trên trần bỗng ré lên một loạt con số, tiếp theo là một tiếng còi báo động chói tai.
“Đây là Đại tá Rosso với một thông báo cho toàn thành phố,” cái loa nói. “Vụ xâm phạm an ninh đã được kiểm soát. Nhân viên bị lây bệnh đã được vô hiệu hóa, và không có thêm thương vong nào.”
Tôi thở phào ra.
“Tuy nhiên...”
“Chết tiệt,” Julie thì thầm.
“... nguồn gốc của vụ xâm phạm vẫn còn tự do bên trong thành phố của chúng ta. Đội tuần tra an ninh sẽ bắt đầu lục soát từng nhà một trong sân vận động. Vì chúng ta không biết vật này đang trốn ở đâu, tất cả mọi người nên ra khỏi nhà và tập trung ở một nơi công cộng. Xin đừng tự nhốt mình trong một nơi chật hẹp.” Rosso dừng lại hắng giọng. “Rất xin lỗi các bạn vì điều này. Chúng tôi sẽ xử lý mọi việc, xin các bạn hãy... bình tĩnh.”
Có một tiếng cách, rồi loa phóng thanh im bặt.
Julie đứng bật dậy và chạy vào phòng ngủ. Nàng kéo rèm lên cho ánh đèn tràn qua cửa sổ. “Đến giờ dậy rồi, cô Greene, chúng ta không còn nhiều thời gian nữa đâu. Cậu có nhớ lối ra cũ nào trong đường hầm trên tường không? Có đúng là có lối thoát hiểm cứu hỏa đâu đó gắn lô ghế trên không nhỉ? R này, anh đã trèo được thang chưa?”
“Đợi đã, cái gì?” Nora cất tiếng khàn khàn hỏi và cố che mắt. “Có chuyện gì thế?”
“Theo như bạn của R thì cái thế giới Xác Sống tệ hại này kết thúc rồi, đấy là nếu bọn mình không bị giết trước đó.”
Cuối cùng thì Nora cũng tỉnh hẳn. “Xin lỗi, cái gì cơ?”
“Tí tớ sẽ kể cho cậu sau. Họ vừa mới thông báo tuần tra. Bọn mình có khoảng mười phút. Bọn mình cần phải tìm...” Giọng nàng nhòe đi và tôi chỉ biết ngắm miệng nàng chuyển động. Hình dáng môi nàng tạo thành từng từ, cách cái lưỡi nàng đập đập vào hàm răng trắng lấp lánh. Nàng đang bám lấy niềm hy vọng còn tay tôi thì đang tuột dần. Nàng vừa nói vừa quấn một lọn tóc quanh ngón tay, lọn tóc vàng bết lại cứng đơ và đang cần được gội.
Mùi cay cay từ dầu gội đầu của nàng, các thứ hoa, thảo mộc và quế trộn cùng mùi dầu tự nhiên của nàng. Nàng không bao giờ chịu nói mình dùng loại dầu gội nào. Nàng thích giữ bí mật về mùi hương của mình.
“R!”
Julie và Nora đang nhìn tôi chờ đợi. Tôi mở miệng định nói, nhưng không biết nói gì. Và rồi cửa trước của ngôi nhà bật mở mạnh đến nỗi nó vang vọng khắp các bức tường kim loại đến tận chỗ chúng tôi. Tiếng ủng giậm mạnh kêu rầm rầm trên cầu thang.
“Ôi Chúa ơi,” Julie hốt hoảng thốt lên. Nàng dẫn chúng tôi ra khỏi phòng và vào nhà tắm ngoài hành lang. “Trang điểm lại cho anh ấy đi,” nàng rít lên với Nora, và đóng sầm cửa lại.
Trong khi Nora luống cuống mở hộp phấn để tô lại bộ mặt ướt nước mưa của tôi nghe thấy hai giọng nói ngoài hành lang.
“Bố, có chuyện gì thế? Đã tìm ra Xác Sống đó chưa ạ?”
“Chưa, nhưng sẽ tìm được thôi. Con có nhìn thấy gì không?”
“Không, con vẫn ở nhà mà.”
“Con có một mình thôi à.”
“Vâng, con đã ở đây từ tối qua.”
“Sao đèn trong nhà tắm lại bật?”
Có tiếng chân bước về phía chúng tôi.
“Đợi đã, bố! Đợi một giây!” Nàng khẽ hạ giọng xuống. “Nora và Archie đang ở trong đấy.”
“Thế sao con lại nói là con chỉ có một mình? Đây không phải là lúc để đùa, Julie ạ, không phải là lúc để chơi trốn tìm.”
“Họ đang... bố biết đấy... ở trong ấy.”
Một thoáng ngần ngừ rât ngắn. “Nora và Archie,” ông quát vọng qua cửa, giọng gấp gáp và rất to. “Các cháu vừa nghe loa thông báo có vụ xâm phạm rồi đấy. Ta không thể nghĩ ra được một thời điểm ít thích hợp hơn để ân ái. Ra khỏi đó ngay.”
Nora đẩy tôi dựa vào bồn rửa mặt và dúi mặt tôi vào ngực cô đúng lúc ông Grigio giật tung cửa ra.
“Bố!” Julie thét lên, liếc Nora một cái thật nhanh khi cô đẩy tôi ra.
“Ra đây ngay lập tức,” ông Grigio nói.
Chúng tôi ra khỏi nhà tắm. Nora chỉnh lại quần áo và vuốt tóc, tỏ vẻ ngượng ngùng khá giống thật. Tôi cứ nhìn ông Grigio không chút hối lỗi, chuẩn bị sẵn thanh quản cho bài kiểm tra quan trọng đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng. Ông nhìn lại tôi với bộ mặt căng thẳng, góc cạnh ấy, mắt xoáy vào mắt tôi. Chúng tôi cách nhau chưa đầy hai bước chân.
“Chào cậu, Archie,” ông nói.
“Chào bác ạ.”
“Cậu và cô Greene đang yêu?”
“Vâng ạ.”
“Tuyệt lắm. Cô cậu đã nghĩ đến chuyện cưới xin chưa.”
“Chưa ạ.”
“Còn chần chừ gì nữa. Có gì phải đợi đâu. Đây là những ngày cuối rồi. Cậu sống ở đâu, Archie?”
“Sân... Goldman ạ.”
“Nhà thi đấu Goldman chứ?”
“Vâng ạ. Xin lỗi bác.”
“Cậu làm việc gì ở nhà thi đấu Goldman.”
“Làm vườn ạ.”
“Việc đó có đủ cho cậu và Nora nuôi con không?”
“Chúng cháu không có con ạ.”
“Con cái sẽ thay thế khi chúng ta chết. Khi có con, cậu sẽ cần phải nuôi chúng. Tôi được biết là mọi chuyện ở nhà thi đấu Goldman rất xấu. Tôi được biết là các cậu đang hết tất cả mọi thứ. Chúng ta đang sống trong một thế giới thật đen tối, phải không Archie.”
“Thỉnh thoảng ạ. Không phải luôn luôn.”
“Chúng ta cố gắng hết sức với những gì được Chúa ban cho. Nếu Chúa cho chúng ta đá trong khi chúng ta xin bánh mì, thì chúng ta sẽ mài sắc răng mà ăn đá.”
“Hoặc là tự làm... bánh mì ạ.”
Ông Grigio mỉm cười. “Cậu bôi phấn đấy à, Archie?”
Ông Grigio đâm tôi.
Tôi thậm chí còn không nhận ra lưỡi dao bị rút khỏi vỏ. Con dao dài mười hai phân đâm lút vào vai tôi rồi xuyên sang phía bên kia, ghim tôi vào tường. Tôi không cảm thấy gì và cũng không giật mình. Vết thương không chảy máu.
“Julie!” Ông Grigio gầm lên, lùi ra khỏi tôi và rút súng, mắt trợn ngược trong hố sâu hoắm. “Con đã đem Người Chết vào thành phố này sao! Vào nhà của ta! Con đã để Người Chết chạm vào mình sao!”
“Bố, nghe con đã!” Julie nói, chìa tay về phía ông. “R rất khác! Anh ấy đang thay đổi!”
“Người Chết không thay đổi, Julie! Chúng không có trí não và không có tâm hồn!”
“Làm sao chúng ta biết được? Chỉ vì họ không nói chuyện với chúng ta và kể cho chúng ta nghe về cuộc sống của họ ư? Chúng ta không hiểu được ý nghĩ của họ và vì thế chúng ta cho rằng họ không có ý nghĩ nào ư?”
“Chúng ta đã kiểm tra! Người Chết không hề có dấu hiệu tự nhận thức hay có phản ứng tình cảm nào hết!”
“Chính bố cũng không, bố ạ! Trời đất ơi - R đã cứu mạng con! Anh ấy đã bảo vệ con và đưa con về nhà! Anh ấy là người! Và còn nhiều người khác giống anh ấy nữa!”
“Không,” ông Grigio nói, đột nhiên bình tĩnh lại. Tay ông không run nữa và khẩu súng được giữ chắc, cách mặt tôi chỉ vài phân.
“Bố, xin bố hãy nghe con? Xin bố đấy?” Nàng tiến lại gần hơn. Nàng đang cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng tôi có thể thấy là nàng đang hết sức hoảng sợ. “Khi con ở sân bay, một chuyện gì đó đã xảy ra. Chúng con đã châm ngòi cho một điều gì đó, và cho dù nó là cái gì đi chăng nữa thì nó cũng đang lan tỏa ra. Người Chết đang sống lại, họ đang rời khỏi tổ và đang cố thay đổi bản chất, và chúng ta phải tìm cách giúp họ. Bố thử tưởng tượng là chúng ta có thể chữa khỏi bệnh dịch này xem! Thử tưởng tượng là chúng ta có thể dọn sạch những rắc rối này và bắt đầu lại từ đầu!”
Ông Grigio lắc đầu. Tôi có thể thấy các cơ hàm của ông cuộn lên dưới lớp da trắng bệch. “Julie, con còn trẻ. Con không hiểu nổi thế giới này. Chúng ta có thể sống sót và chúng ta có thể giết những thứ muốn giết chúng ta, nhưng không có giải pháp tổng thể nào hết. Chúng ta đã tìm kiếm suốt bao năm nay mà không tìm được gì, và giờ thì thời hạn đã hết. Thế giới đã kết thúc. Nó không thể được chữa lành, nó không thể được vá víu lại, nó không thể được cứu vãn.”
“Có chứ!” Julie hét lên với ông, mất hết mọi vẻ bình tĩnh. “Ai là người có quyền quyết định cuộc sống là một cơn ác mộng? Ai viết nên những điều luật khốn kiếp ấy? Chúng ta có thể sửa chữa được nó, chỉ là chúng ta chưa bao giờ thử mà thôi! Chúng ta đã quá bận bịu, ích kỷ và sợ sệt!”
Ông Grigio nghiến chặt răng. “Con là người mơ mộng. Con còn là trẻ con. Con chẳng khác nào mẹ con.”
“Bố, nghe con đi!”
“Không.”
Ông lên cò súng và gí nó vào trán tôi, ngay trên miếng băng dính của Julie. Nó đây. Cái sự trớ trêu thường trực của M đây. Cái chết không thể tránh khỏi, vốn đã bỏ qua tôi suốt bao nhiêu năm trong khi tôi ngày ngày thèm khát nó, giờ lại xuất hiện đúng lúc tôi muốn sống vĩnh viễn. Tôi nhắm mắt lại và chuẩn bị tinh thần.
Máu ấm bắn lên mặt tôi - nhưng không phải là máu của tôi. Tôi mở choàng mắt đúng lúc con dao của Julie sượt qua tay ông Grigio. Khẩu súng bắn ra khỏi tay ông và cướp cò lúc nó rơi xuống sàn, rồi lại nhả ra một tràng đạn nữa khi nó bị dội ngược trở lại giữa những bức tường hẹp của hành lang như một quả bóng nảy bật khắp nơi. Tất cả co rúm người tránh đạn, và cuối cùng khẩu súng quay tít chạm vào chân Nora. Trong sự im lặng như tờ, cô trố mắt nhìn nó, rồi nhìn sang vị tướng. Ông lao đến, ôm lấy bàn tay bị đâm. Nora chộp lấy khẩu súng trên sàn và chĩa nó vào mặt ông. Ông đứng im. Quai hàm ông nghiến chặt và ông tiến tới như thể vẫn định lao đến. Nhưng rồi Nora đẩy băng đạn đã hết ra lôi một băng mới từ trong túi xách ấn nó vào khẩu súng và lên một viên vào ổ đạn, tất cả bằng một động tác nhuần nhuyễn mà không rời mắt khỏi ông. Ông Grigio lùi lại.
“Đi đi,” cô nói, đưa mắt nhìn Julie. “Tìm cách ra khỏi đây đi. Cố lên.”
Julie nắm lấy tay tôi. Chúng tôi lùi ra khỏi phòng trong khi bố nàng đứng đó run lên vì giận dữ.
“Tạm biệt bố,” Julie khẽ nói. Chúng tôi quay người chạy xuống cầu thang.
“Julie!” Ông Grigio gào lên, và âm thanh ấy khiến tôi nhớ đến một âm thanh khác, tiếng hú trống rỗng của một cái tù và hỏng, giống tới mức tôi run rẩy trong chiếc áo ướt.
***
Chúng tôi chạy. Julie chạy trước, dẫn đường xuyên qua những con phố hẹp. Sau lưng chúng tôi, những tiếng hò hét giận dữ vang ra từ nhà Julie. Rồi tiếng bộ đàm hú lên. Chúng tôi chạy, và chúng tôi đang bị đuổi. Julie dẫn đường không lấy làm quyết đoán cho lắm. Chúng tôi phải liên tục chạy thành hình dích dắc hoặc đi ngược lại. Chúng tôi như những con chuột lồng lên trong cũi. Chúng tôi chạy trong khi những mái nhà vươn cao xoay tít trên đầu.
Rồi chúng tôi bắt gặp bức tường. Một bức tường chắn bằng bê tông gắn đủ loại giàn giáo, thang và lối đi chẳng dẫn đến đâu hết. Những ghế ngồi đã biến mất, nhưng vẫn còn lại một cái cầu thang; một con đường tối tăm mời gọi chúng tôi trèo lên trên. Chúng tôi chạy tới đó. Mọi thứ hai bên cầu thang đã bị gỡ bỏ hết, nó lơ lửng giữa không trung như chiếc thang của Jacob[14] vậy.
[14] Cầu thang dẫn lên thiên đường trong Kinh thánh.
Chúng tôi vừa lên đến lối ra thì một tiếng quát vọng lên từ mặt đất bên dưới. “Cô Grigio!”
Chúng tôi quay nhìn lại. Đại tá Rosso đang đứng ở bậc thang dưới, vây quanh là một đội sĩ quan An ninh. Ông là người duy nhất không giương súng lên.
“Xin đừng chạy!” Ông gọi Julie.
Julie kéo tôi vào hành lang và chúng tôi lao vào bóng tối.
Khoảng trống bên trong rõ ràng là vẫn đang xây dựng dở, nhưng phần lớn vẫn còn nguyên hình dáng như khi nó bị bỏ hoang. Hàng bán xúc xích, ki ốt đồ lưu niệm, và những quầy bán bánh vòng giá tám đô la nằm im lìm lạnh lẽo trong bóng mờ. Tiếng quát tháo của đội An ninh vang vọng sau lưng chúng tôi. Tôi chờ đợi một ngõ cụt chặn đường chúng tôi, bắt tôi phải quay lại đối mặt với điều không thể tránh khỏi.
“R!” Julie vừa chạy vừa hổn hển nói. “Chúng ta sẽ thoát, anh hiểu không? Chúng ta sẽ làm được!” Giọng nàng vỡ ra, vừa vì mệt vừa vì những giọt nước mắt đang dâng lên. Tôi không thể trả lời nổi.
Hành lang kết thúc. Trong ánh sáng mờ nhạt xuyên qua những cái lỗ trên lớp bê tông, tôi thấy một tấm biển trên cửa đề chữ:
LỐI THOÁT HIỂM
Julie chạy nhanh hơn, kéo tôi theo. Chúng tôi lao người vào cánh cửa và nó mở tung ra...
“Ôi chết t...” Nàng hức lên một tiếng và quay ngoắt lại, nắm chặt lấy khung cửa trong khi một chân lơ lửng từ độ cao tám tầng.
Gió lạnh gào rú quanh khung cửa, nơi cầu thang thoát hiểm đã bị gỡ mất, chỉ còn lại một mẩu ngắn nhô ra từ bức tường. Chim bay qua. Dưới chân chúng tôi, thành phố trải rộng như một nghĩa địa mênh mông với các tòa nhà chọc trời là những tấm bia.
“Cô Grigio!”
Rosso và các sĩ quan của ông dừng lại cách chúng tôi chừng hai mươi bước. Rosso thở nặng nhọc, rõ ràng ông đã quá già để đuổi bắt như thế này.
Tôi nhìn xuống mặt đất bên dưới. Tôi nhìn Julie. Tôi nhìn xuống một lần nữa, rồi lại nhìn Julie.
“Julie,” tôi nói.
“Gì cơ?”
“Cô có chắc là muốn... đi với tôi không?”
Nàng nhìn tôi, cố hít thở qua những thanh phế quản đang nhanh chóng bóp nghẹt lại. Trong mắt nàng hiện lên vô số câu hỏi, có cả nỗi nghi ngờ, hình như cả sự sợ hãi nữa, nhưng nàng gật đầu. “Có.”
“Xin đừng chạy nữa,” Rosso rên lên, chống tay vào đầu gối. “Đường đó không ra được đâu.”
“Cháu phải đi,” nàng đáp.
“Cô Cabernet. Julie. Cháu không thể để bố cháu lại đây được. Ông ấy chỉ còn có mình cháu.”
Nàng cắn môi dưới, nhưng mắt vẫn lạnh băng. “Bố cháu đã chết rồi, bác Rosy ạ. Bố chỉ chưa rữa ra đấy thôi.”
Nàng nắm tay tôi, bàn tay tôi đã làm gãy khi đấm vào mặt M, và siết chặt đến nỗi tôi sợ nàng sẽ làm gãy nó lần nữa. Nàng ngước lên nhìn tôi. “Thế nào, R?”
Tôi kéo nàng lại gần. Tôi vòng tay quanh người nàng và ôm chặt như muốn gen của chúng tôi hòa vào nhau. Chúng tôi đứng đối diện nhau và tôi gần như có thể hôn nàng, nhưng thay vào đó tôi chỉ lùi lại hai bước và chúng tôi ngã qua khung cửa.
Chúng tôi lao xuống như một con chim bị bắn hạ. Tay và chân tôi vòng quanh nàng, gần như ôm trọn cả tấm thân nhỏ nhắn của nàng. Chúng tôi rơi qua một mái nhà chìa ra, một thanh chắn xuyên vào đùi tôi, đầu tôi đập vào một cái rầm, chúng tôi vướng vào một tấm áp phích quảng cáo điện thoại di động làm nó rách đôi, và rồi, cuối cùng thì chúng tôi cũng rơi xuống đất. Một loạt những tiếng răng rắc dội qua người tôi trong khi lưng tôi đập xuống đất và sức nặng của Julie đè lên ngực tôi. Nàng lăn xuống, vừa nghẹn vừa cố hít thở, còn tôi nằm đó nhìn lên trời. Thế đấy.
Julie chống tay và đầu gối ngồi dậy rồi lục túi tìm ra ống thuốc hít, hít một hơi rồi nín thở, một tay vẫn chống xuống đất để đỡ lấy cơ thể. Khi đã thở lại được bình thường, nàng quỳ xuống bên tôi với ánh mắt kinh hoàng. Mặt nàng che cả vầng mặt trời mờ ảo. “R!” Nàng thì thầm. “Này!”
Chậm rãi và run rẩy như cái ngày mới đội mồ sống dậy, tôi lảo đảo đứng lên. Các khúc xương khắp người tôi kêu kẽo kẹt. Tôi mỉm cười, và với giọng nam cao hổn hển, lạc điệu của mình, tôi hát, “Em khiến... tôi thấy... thật trẻ trung...”
Nàng cười phá lên và ôm lấy tôi. Cái ôm của nàng khiến mấy khớp xương của tôi bật về chỗ cũ đánh rắc một cái.
Nàng nhìn lên khung cửa mở. Nó đóng khung lấy Rosso, ông đang nhìn xuống chúng tôi. Julie vẫy tay với ông, và ông biến vào trong sân vận động rất nhanh, chứng tỏ ông sẽ đuổi theo chúng tôi. Tôi cố không tức giận vì tính nguyên tắc của ông - trong thế giới của ông, mệnh lệnh vẫn là mệnh lệnh.
Vậy là Julie và tôi chạy vào thành phố. Với mỗi bước, tôi cảm thấy cơ thể mình vững vàng hơn, các đốt xương thẳng hàng trở lại, nhưng mô cơ cứng lại quanh các chỗ rạn để tôi không rã ra thành từng mảnh. Tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế này. Có phải là tôi đang lành lại không?
Chúng tôi lao qua những con phố vắng hoe, qua vô số xe hơi gỉ sét, hàng đống lá rụng và rác rưởi. Chúng tôi chạy ngược những con đường một chiều. Chúng tôi bỏ qua biển dừng đỗ. Trước mặt chúng tôi: ranh giới của thành phố, ngọn đồi cao đầy cỏ nơi thành phố mở rộng ra và xa lộ dẫn đến những nơi khác. Đằng sau chúng tôi: tiếng gầm rú không ngừng của các loại xe tấn công đang rồ máy chạy ra khỏi sân vận động. Việc này không thể chấp nhận được! Cái miệng thép của những nhà chức trách tuyên bố. Tìm những hòn than nhỏ ấy và dập tắt chúng ngay lập tức! Với những tiếng gào rú ấy sau lưng, chúng tôi đi lên đồi.
Chúng tôi đối mặt với một đội quân.
Họ đứng trên một đồng cỏ bên cạnh đường dẫn lên xa lộ. Có hàng trăm người. Họ đi lang thang trong đám cỏ, ngước lên nhìn trời hoặc không nhìn gì cả, những bộ mặt xám ngoét teo tóp có vẻ bình thản đến lạ lùng. Nhưng khi những người đứng đầu nhìn thấy chúng tôi họ im sững, rồi quay ngoắt về phía chúng tôi. Vẻ tập trung của họ truyền đi như một đợt sóng cho đến khi cả đám đông đều đứng nghiêm. Julie nhìn tôi như muốn cười, ý nói, Thật ư? Rồi hàng người bỗng rẽ ra và một Xác Sống to con, đầu trọc, cao hơn một mét chín, tiến đến trước.
“M,” tôi chào.
“R,” anh đáp lại. Anh gật đầu với Julie. “Julie.”
“Chààào...” Nàng nói, dựa sát vào tôi vẻ nghi ngại.
Những chiếc xe đuổi theo chúng tôi phanh lại đánh kít, và chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ rồ lên. Chúng đã ở rất gần rồi. M bước lên đỉnh đồi và đám đông đi theo anh. Julie bám sát lấy tôi trong khi họ vây quanh chúng tôi, bao bọc chúng tôi giữa đội quân nặng mùi, giữa những hàng lối hôi thối của họ. Không hiểu do tôi tưởng tượng hay là do ánh sáng mà da của M có vẻ đỡ xám hơn thường lệ. Đôi môi rách toạc của anh cũng có vẻ sinh động hơn. Và lần đầu tiên kể từ khi tôi quen anh, bộ râu ria tỉa kỹ của anh không vấy máu.
Những chiếc SUV rầm rập lao về phía chúng tôi, nhưng khi đám đông Người Chết hiện ra trên đỉnh đồi thì đoàn xe chậm dần rồi dừng lại. Chỉ có bốn chiếc tất cả. Hai chiếc Hummer H2, một chiếc Chevy Tahoe và một chiếc Escalade, tất cả đều được phun sơn màu xanh cỏ úa kiểu quân sự. Từ chỗ chúng tôi đứng, những cỗ máy khổng lồ ấy nom thật nhỏ bé và thảm hại. Cửa chiếc Tahoe bật mở và Đại tá Rosso từ từ bước ra. Tay nắm chặt khẩu súng trường, ông lướt nhìn qua những hàng người đang chao đảo, tính toán chênh lệch lực lượng và lên kế hoạch. Mắt ông mở to sau cặp kính dày. Ông nuốt nước bọt, rồi hạ súng xuống.
“Cháu xin lỗi, bác Rosy,” Julie nói với xuống chỗ ông, và chỉ về phía sân vận động. “Cháu không thể ở đó được nữa, bác hiểu không? Toàn là một lời dối trá khốn kiếp. Chúng ta nghĩ chúng ta đang sống sót trong đó, nhưng không phải vậy.”
Rosso chăm chú nhìn những Xác Sống xếp hàng quanh ông, nhìn xoáy vào mặt họ. Ông đã già rồi, nên có lẽ ông đã được chứng kiến buổi ban đầu của những điều này. Ông biết Người Chết nhìn như thế nào, và ông có thể thấy ở đây có gì đó khang khác, cho dù cái khác ấy có mờ nhạt, khó nhận đến thế nào đi chăng nữa.
“Cháu không thể một mình cứu cả thế giới được!” Ông nói to. “Hãy quay lại đi và chúng ta có thể bàn bạc việc này!”
“Cháu không có một mình,” Julie nói, chỉ vào rừng Xác Sống đang lảo đảo quanh mình. “Cháu còn có những người này.”
Miệng Rosso co rúm lại một cách khổ sở, rồi ông nhảy lên xe, đóng sầm cửa lại và rồ máy quay trở về sân vận động với ba chiếc xe kia nối đuôi theo sau. Đây chỉ là một quãng giải lao ngắn, như một hơi thở hít vào, bởi vì tôi biết họ sẽ không bỏ cuộc, họ không thể bỏ cuộc, họ chỉ đang thu thập sức lực, vũ khí và quyết tâm tàn bạo của họ mà thôi.
Và họ nên làm vậy, bởi vì nhìn chúng tôi mà xem. Chúng tôi là hàng trăm con quỷ và một cô gái nặng bốn mươi lăm cân, đứng ở rìa thành phố của họ với những cặp mắt rực lửa. Sâu thẳm dưới chân chúng tôi Trái đất đang kìm nén hơi thở nóng chảy, trong khi bộ xương của hàng bao thế hệ nhìn theo chúng tôi và chờ đợi.