Xác Ấm - Phần III - Chương 24
Bước ba: Sống
Nora Greene đang đứng trên quảng trường bên cổng chính của sân vận động, cạnh Tướng Rosso, đối diện với một đám đông khổng lồ. Cô thấy hơi lo lắng. Cô ước mình đã làm một hơi thuốc trước khi ra đây, nhưng hút thuốc lúc này có vẻ không hợp chút nào. Cô muốn đầu óc mình tỉnh táo cho dịp trọng đại này.
“Được rồi, các bạn,” Rosso nói, chất giọng khàn khàn của ông cố căng ra để những người đứng ở cuối, mãi tận những con phố ở đằng xa, cũng nghe được. “Chúng tôi đã hết sức chuẩn bị tinh thần cho các bạn, nhưng tôi biết việc này vẫn có thể hơi... đáng ngại một chút.”
Không phải tất cả mọi người trong sân vận động đều đến đây, nhưng những ai muốn đến đều có mặt đầy đủ. Những người còn lại đang trốn sau những cánh cửa đóng chặt với khẩu súng giương cao, nhưng Nora hy vọng rốt cuộc họ cũng sẽ bước ra để xem đang có chuyện gì.
“Cho phép tôi nhắc lại một lần nữa là các bạn không gặp nguy hiểm gì hết,” Rosso nói tiếp. “Tình thế đã thay đổi.”
Rosso nhìn Nora và gật đầu.
Lính canh mở cổng ra, và Nora hét lên, “Vào đi, các bạn!”
Từng người một, vẫn còn vụng về nhưng đã đi thẳng thớm hơn phần nào, họ bước vào sân vận động. Những Người Chết Dở. Những Người Sắp Sống. Đám đông thì thào lo lắng và cụm lại trong khi đám Xác Xống xếp thành một hàng trước cổng.
“Đây chỉ là một số ít bọn họ mà thôi,” Nora nói, bước tới trước để lên tiếng với toàn thể mọi người. “Ngoài kia họ đang đông lên mỗi ngày. Họ đang cố tìm cách tự chữa lành cho bản thân. Họ đang cố tìm cách chữa lành dịch bệnh, và chúng ta cần làm hết sức mình để giúp họ.”
“Như thế nào?” Một người hỏi.
“Chúng ta sẽ nghiên cứu nó,” Rosso nói. “Quan sát nó kỹ càng, nhào trộn và nắn bóp nó cho đến khi câu trả lời hiện ra. Tôi biết nghe có vẻ thật mơ hồ, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu đó.”
“Hãy nói chuyện với họ,” Nora nói. “Tôi biết mới đầu sẽ khá là sợ, nhưng hãy nhìn vào mắt họ. Cho họ biết tên bạn và hỏi tên họ.”
“Đừng lo,” Rosso nói. “Mỗi người sẽ có một lính gác đi kèm mọi lúc mọi nơi, nhưng các bạn hãy cố tin rằng họ sẽ không làm hại các bạn. Chúng ta phải sẵn sàng xem xét khả năng việc này có thể thành công.”
Nora lùi lại cho đám đông tiến lên. Họ tiến lên một cách thận trọng. Họ bước tới chỗ đám Xác Sống trong khi những người lính gác cảnh giác giương cao súng. Về phần mình, những Xác Sống đang đối mặt với tình huống khó xử này với vẻ kiên nhẫn đáng khâm phục. Họ cứ đứng đó đợi, một số gắng mỉm cười thân thiện trong lúc không để ý tới những đốm laser đang chĩa vào trán họ. Nora cũng hòa mình vào đám đông, bắt tréo ngón tay sau lưng và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất.
“Xin chào.”
Cô quay sang phải. Một Xác Sống đang quan sát cô. Anh bước tới trước và mỉm cười với cô. Môi anh mỏng và hơi rách bên dưới bộ râu vàng tỉa ngắn, nhưng có vẻ như chúng, cùng với vô số vết thương khác trên người anh, đang lành dần.
“Ờ... xin chào...” Nora nói, liếc nhìn chiều cao đáng kể của Xác Sống nọ. Chắc là anh phải cao đến một mét chín mươi lăm. Anh có vẻ hơi nặng nề, nhưng đôi cánh tay rắn chắc như muốn xé rách cả chiếc áo tả tơi. Cái đầu trọc nhẵn của anh sáng lên như một viên ngọc trai xám.
“Tôi là Nora,” cô nói, giật giật một lọn tóc quăn của mình.
“Tên tôi là Mm...arcus,” anh nói, giọng trầm ấm mượt như nhung. “Và cô là... cô gái xinh đẹp nhất... mà tôi đã từng gặp.”
Nora bật cười khúc khích và xoắn những lọn tóc nhanh hơn. “Ôi trời.” Cô chìa tay ra. “Rất vui được gặp anh... Marcus.”
***
Thằng bé đang ở sân bay. Các hành lang tối đen, nhưng nó không sợ. Nó chạy qua khu ăn uống chìm trong bóng tối, chạy qua những biển hiệu không được thắp sáng và những món ăn thừa mốc meo, bia uống dở và mì Thái nguội ngắt. Nó nghe thấy tiếng một bộ xương đơn độc lách cách ở một hành lang gần đó và vội đổi hướng, vòng qua một ngã rẽ mà không chậm bước. Bọn Xương Khô bây giờ rất chậm chạp. Ngay khi bố và mẹ kế của thằng bé quay về đây, một điều gì đó đã xảy ra với chúng. Giờ chúng đi lảo đảo vô định như ong bay trong mùa đông. Chúng đứng im lìm, như những cỗ máy lỗi thời đang chờ được thay thế.
Thằng bé đang bê một cái hộp. Cái hộp giờ đã trống rỗng, nhưng tay nó rất mỏi. Nó chạy vào lối đi nối liền hai hành lang và đứng lại để dò đường.
“Anh Alex!”
Em gái thằng bé chạy lại sau lưng nó. Con bé cũng đang ôm một cái hộp. Khắp tay con bé là những mẩu băng dính.
“Xong hết chưa Joan?”
“Xong rồi!”
“Được rồi. Mình đi lấy thêm đi.”
Hai anh em chạy xuôi hành lang. Khi chúng đến chỗ băng chuyền, điện bật lên và dải băng chuyển động dưới chân chúng. Thằng bé và con bé chạy chân trần nhanh như gió, lao xuống hành lang như một cặp hươu trong khi ánh nắng buổi sớm tràn vào sau lưng chúng. Ở cuối hành lang, chúng suýt nữa đâm sầm vào một đám trẻ con khác, tất cả đều bê hộp.
“Xong hết rồi,” bọn trẻ nói.
“Được,” Alex nói, và chúng cùng nhau chạy. Nhiều đứa trong bọn vẫn còn mặc quần áo rách tả tơi. Một vài đứa vẫn còn xám ngoét. Nhưng phần lớn đã sống lại. Bọn trẻ thiếu cách lập trình bản năng của người lớn. Chúng phải được dạy làm tất cả mọi thứ. Cách giết sao cho nhanh, cách đi lang thang vô định, cách lảo đảo người và rên rỉ và thối rữa sao cho đúng. Nhưng giờ các bài học đã ngưng. Không ai dạy chúng nữa, và như những củ cây lưu niên khô quắt nằm đợi trong lòng đất qua mùa đông, giờ chúng đang tự mình bừng lên sống dậy.
Ánh đèn neon lập lòe kêu xè xè, và có tiếng kim chạy trên đĩa hát vang lên từ những chiếc loa trên đầu. Một đứa nào đó đã bạo gan chiếm lấy bộ loa phóng thanh của sân bay. Tiếng đàn dây ngọt ngào êm dịu tràn ngập bầu không khí u ám, và giọng hát của Francis Albert Sinatra vang vọng cô đơn khắp những dãy hành lang trống trải.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè... khi bầu trời xanh thẳm như thiên đường...
Bộ loa bụi bặm kêu rè rè lục đục, rồi nổ lốp bốp và bóp méo tiếng. Đĩa hát bị nhảy. Nhưng đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu năm bầu không khí ứ trệ ở đây mới được khuấy động bởi tiếng nhạc.
Khi bọn trẻ chạy ra Cổng Đến để lấy thêm hộp và băng dính mới, chúng đi qua một dáng người xanh xám đang lê bước dọc hành lang. Xác Sống ấy nhìn đám trẻ Người Sống khi chúng chạy qua, nhưng không đuổi theo. Dạo này cô ta ăn không thấy ngon nữa. Cô ta không còn cảm thấy cơn đói như trước kia. Cô ta ngắm lũ trẻ biến mất sau khúc quanh, rồi đi tiếp đường của mình. Cô ta cũng không biết rõ mình đang đi đâu, nhưng ở cuối hành lang này có một quầng sáng trắng xóa trông thật dễ chịu. Cô ta lê bước về phía đó.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè... khi vầng trăng khiến ta bừng sáng... Ta đã yêu, ta đã yêu... và ta muốn cả thế giới đều biết...
Cô ta bước vào phòng đợi ở Cổng 12, tràn ngập ánh mặt trời buổi sáng rực rỡ. Ở đây có cái gì đó khác trước. Trên những cửa sổ cao từ trần đến sàn nhìn ra đường băng, ai đó đã dán những tấm ảnh nhỏ lên lớp kính. Chúng được dán cạnh nhau và chồng lên nhau chừng năm hàng, tạo thành một dãy kéo dài đến tận hết phòng.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè... và nó chỉ xảy ra với một vài người. Nhưng khi nó xảy ra... phải, khi đó...
Xác Sống nọ thận trọng đến gần những bức ảnh. Cô ta đứng trước chúng và trố mắt nhìn với cái miệng hé mở.
Một cô bé trèo lên cây táo. Một chú bé xịt nước vào anh trai bằng vòi phun. Một người phụ nữ chơi đàn xen lô. Một cặp vợ chồng già âu yếm nắm tay. Một chú bé với một con chó. Một chú nhóc đang khóc nhè. Một em bé sơ sinh đang ngủ say. Và một bức ảnh cũ hơn, nhàu nhĩ, mờ nhạt: một gia đình ở công viên nước. Người bố, người mẹ, và một cô con gái tóc vàng, mỉm cười nheo mắt dưới ánh mặt trời.
Xác Sống đó nhìn bức bích báo khổng lồ đầy bí hiểm ấy. Mặt trời lấp lánh trên biển tên gắn ở ngực cô ta, sáng đến nỗi làm cô ta chói mắt. Cô ta đứng đó hàng giờ bất động. Rồi cô ta hít một hơi thật sâu. Hơi thở đầu tiên sau bao nhiêu tháng ròng. Những ngón tay rũ xuống bên mình cô ta bắt đầu động đậy theo nhịp nhạc.
***