Trân Châu cảng - Phần II - Chương 23 - 24
Chương 23
Evelyn mệt lả người bên chiếc cửa sổ chật cứng của bệnh viện. Tiếng người nói ồn ào xung quanh nàng nhưng nàng không còn nghe thấy gì nữa. Có ai đó gọi tên Evelyn, nhưng nàng không thể trả lời. Những quân nhân mang bạn bè bị thương của mình đến tìm người chữa trị không thể đứng chờ nàng thêm được nữa đành mang bạn mình vào bên trong, đặt ở bất cứ nơi nào có thể.
Evelyn cố tập trung tinh thần, cố xua đuổi hình ảnh khuôn mặt của Betty với những nét kinh hoàng trước khi chết. Nàng nhìn ra bên ngoài bệnh viện, lại thêm nhiều thủy thủ bị phỏng, những vết thương khủng khiếp vẫn còn đang tiếp tục bốc khói đằng sau họ. Chiến hạm Nevadađã đến được bờ biển nhưng đã bốc cháy trước khi vào được đến bờ.
Evelyn quay người hét lên:
- Đem đến tổng đài của căn cứ đi! Đem những cái chai xịt mà họ vẫn thường dùng để xịt gián đến đây!
Anh chàng sĩ quan quân y trẻ tuổi nhíu mày nhìn nàng:
- Nàng định diệt côn trùng, bảo vệ môi trường trong lúc này ư?
- Không! Tôi chỉ cần cái bộ phận xịt của những cái bình đó mà thôi. Sau đó cậu hãy đổ đầy acid tanic vào đầy bình. Acid có tác dụng khử trùng và làm những vết bỏng dịu đi, chạy mau đi!
Anh lính liên lạc vắt chân lên cổ chạy thật nhanh khi Evelyn đang cứu giúp những thủy thủ bị phỏng nặng. Nàng hét lên qua cửa bệnh viện:
- Lệnh cho các lính liên lạc dọn dẹp trong bệnh viện đi. Ở ngoài này những thương binh nào còn thở được dựng họ dậy, mang họ ra chỗ khác.
Không chỉ có những người Mỹ ở dưới mặt đất mới thấy hết được sự hỗn loạn. Những phi công Nhật căng thẳng vì trận chiến và đã vì nhiều tháng rồi, họ không còn biết ngày đêm và được lệnh phải tìm cho ra mục tiêu để tiêu diệt. Thế nên lúc này họ lao mình xuống để oanh tạc những chiếc xe tải đang chở dân thường đến nơi an toàn, tránh xa khu nhà của các doanh trại. Nơi mà những người Nhật đang chọn là mục tiêu chính. Đúng là những chiếc xe tải kia là xe quân dụng của quân đội và đám đông không tặc cũng biết rõ điều đó, nhưng không hiểu vì sao như có phép lạ, không một phụ nữ hay trẻ con ngồi trên những chiếc xe đó bị giết chết. Còn có rất nhiều cơ hội mà người Nhật có thể giết chết những dân thường, nhưng họ đã không làm thế. Rõ ràng họ không có ý định tiêu diệt thường dân sống ở nơi đây. Ở trung tâmOahucũng bị hư hại rất nhiều bởi những quả đạn pháo hàng không của người Mỹ rơi xuống đầu họ khi bắn trượt mục tiêu. Mặt khác không phải vì thế mà quân đội Nhật Bản ra tay nhẹ nhàng hơn với lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Những người vùng vẫy để sống được lâu hơn thêm vài khoảnh khắc nữa trên mặt biển bốc lửa của cảng đều bị oanh tạc bởi chiếc Zero bay ngang qua, trong trường hợp ấy thì họ không nương tay chút nào.
Ở sân bay Hickham, một chiếc xe màu đỏ tươi đến từ sở phòng cháy chữa cháy Honolulu chạy đến tòa nhà chỉ huy quân đội đã chìm trong lửa của cuộc không kích khi một tràng đạn súng máy từ những chiếc máy bay Zero đã hạ gục họ. Hai chiếc máy bay tham gia bắn giết đám lính cứu hỏa ấy đang phải chạy trốn hai chiếc P-40 Mỹ đang xả đạn về phía máy bay Zero của Nhật. Trong bầu trời hôm ấy, không nhiều máy bay của Mỹ nhưng vẫn có vài chiếc mà Rafe McCawley và Denny Walker là hai trong những phi công ấy. Cả hai đã bắn hạ sáu chiếc máy bay của Nhật. Trong cuộc chiến đấu sáng ngày hôm đó, Danny đã thay đổi hoàn toàn, từ một phi công chưa bao giờ tham chiến trở thành một chiến binh lòng chất chứa hận thù. Anh cũng không hiểu mình thay đổi như vậy vào trong giây khắc nào nữa. Anh cũng không nhận ra anh nhìn theo chiếc Zero cuối cùng để bắn hạ ngày hôm đó lộn nhào trong không trung và cảm thấy mình đã hoàn thành một sứ mệnh được áp đặt lên đời anh kể từ khi anh mới chỉ là một hài nhi hay ít nhất cũng đã đến với anh kể từ khi tuổi còn nhỏ. Anh ngồi trong chiếc máy bay rải phân bón hư hỏng của vùng Tennnessee. Và anh biết rõ một sự thật là chính Rafe đã dẫn dắt anh trong những cuộc chiến trong tưởng tượng từ khi còn thơ bé, và chính Rafe đã truyền sứ mệnh cao cả là một phi công chiến đấu cho anh. Khi hai chiếc máy bay P-40 quay trở về căn cứ, Danny bay song song với Rafe và nhận thấy anh không còn có cảm giác tội lỗi vì đã yêu quý Evelyn, và cũng không còn muốn chỉ trích bản thân nữa. Những cảm giác của anh đối với Evelyn giờ đã rõ ràng trong ngày khói lửa tơi bời này, nhưng anh biết sứ mệnh mình cũng đã được Rafe hướng dẫn và nhào nặn. Và anh phải hoàn thành sứ mạng ấy.
*
Đám tùy tùng của Yamamoto đang làm việc trong phòng tác chiến trên con tàu chỉ huy của ông lúc này chìm ngập với những tin mừng từ chiến trường báo về. Bên ngoài con tàu của tàu hàng không mẫu hạm của Nhật Bản, những phi công hoàn thành sứ mạng trong đợt tấn công đầu tiên đã quay trở về cười đắc ý lúc này càng đắc ý hơn vì những người thủy thủ đang chào đón họ như những vị anh hùng xông pha trên trận mạc.
Ở trên chiếc cầu tàu của tàu Akagi, tư lệnh Genda thán phục nhìn tư lệnh Yamamoto:
- Chúng ta đã giành được hoàn toàn yếu tố bất ngờ. Đợt tấn công đầu tiên đã xong và phi công đã quay về. Đợt tấn công thứ hai đang thực thi nghĩa vụ ngay lúc này. Và ba trăm năm mươi máy bay ra trận của ta chỉ bị hạ có hai mươi chín thôi. - Ông ngừng lại để xem Yamamoto phản ứng như thế nào với kết quả này, nhưng không thấy Yamamoto nói gì mà vẫn im lặng. Genda nói thêm:
- Chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tấn công thứ ba.
Nhưng Yamamoto vẫn không nói gì làm mọi người lo lắng.
- Thưa tư lệnh, ngài có điều gì lo nghĩ chăng? - Genda hỏi.
- Chúng ta hiện còn chưa biết những tàu chuyên chở hàng lớn của họ đang ở đâu. Chắc chắn bây giờ bọn chúng đang tìm chúng ta. Nếu như họ có thể tìm ra và tấn công chúng ta trong khi đợt tấn công thứ hai vẫn chưa kết thúc hoặc tồi tệ hơn là những phi công của ta đang tìm chỗ hạ cánh trong lúc nhiên liệu đã cạn và súng hết đạn từ lâu. - Yamamoto không sao nói hết dược câu cuối cùng. Genda hiểu, một thảm họa cũng sẽ xảy ra nếu người Mỹ phát hiện ra họ và tấn công ngay vào lúc họ không hề chuẩn bị cho sự kháng cự. Và nếu người Nhật bị đánh đắm chiếc tàu chiến này thì suốt cả ngày hôm nay, chiến thắng sẽ đổi thành thảm bại. Genda là một kẻ hiếu chiến, anh ta hiểu rằng nghĩa vụ của mình là chiến đấu, còn nghĩa vụ của một tư lệnh là phải đánh giá được khả năng rủi ro của một... Nhưng Genda biết chắc họ nên tấn công lần thứ ba. Yamamoto lặng lẽ nói:
- Chúng ta phải biết được con số thương vong trước đã.
Như thể những vị thần linh chiến tranh đã nghe lời của ông, viên sỹ quan phụ trách bộ đàm thông báo:
- Thưa tư lệnh, tướng chỉ huy Fujida đang gọi điện về đây ạ!
Yamamoto gật đầu và tiếng của Fujida vang lên trong máy bộ đàm.
- Tôi đang báo về sở chỉ huy khi đang bay trên bầu trời Trân Châu cảng. Chiến thắng của chúng ta thật tuyệt vời.
Chiến thắng, đó là lần đầu tiên từ ấy được phát ra giữa những tâm hồn đang reo vui của đội chỉ huy tác chiến Nhật Bản. Đám tùy tùng của Yamamoto chỉ muốn reo hò để hưởng niềm vui đang dâng trào. Nhưng tư lệnh của họ vẫn bình thản khi nghe từng lời được trinh sát thông báo về trên một máy bay Zero đang bay trên bầu trời Trân Châu cảng. Rất nhiều tàu chiến bị hư hỏng nặng, còn một vài tàu thì bị phá hủy hoàn toàn. Tuy nhiên, cuộc tấn công thứ hai đang bị khói bốc lên từ mặt biển cản trở sự chính xác. Đối với Yamamoto thế đã là quá đủ, ông ra hiệu cho viên sĩ quan phụ trách máy bộ đàm ghi lại tất cả những tin tức do Fujida báo về, rồi ông lại quay mặt ra bờ biển như đang cố tìm xem những tàu đang chở hàng của Mỹ hiện đang ở đâu.
- Ta không biết rồi đây mọi chuyện sẽ ra sao nếu những tàu ấy quay trở lại tấn công.
Genda tiến đến gần ông, Yamamoto giảng giải:
- Càng tấn công càng khó tìm ra mục tiêu. Và yếu tố bất ngờ giờ đã không còn nữa. Nếu chúng ta cho phép đợt tấn công thứ ba lên đường và hủy diệt những kho nhiên liệu của Mỹ thì chúng ta sẽ phá hủy khả năng tác chiến của họ ở vùng Thái Bình dương ít nhất là phải trong vòng một năm.
Genda nói:
- Nhưng nếu thất bại, chúng ta sẽ mất hết cả tàu khu trục của mình, chúng ta sẽ hủy hoại năng lực chiến đấu của mình hoàn toàn.
Mỗi người đều hiểu rõ người kia đang nói gì. Có những lúc người ta không có quyền lựa chọn. Yamamoto đã ra quyết định ngay khi máy bay của nhóm tấn công thứ hai trở về:
- Chúng ta rút lui thôi.
Không lâu sau đội máy bay không kích của Nhật Bản đã trở về căn cứ. Quyết định đó có hoàn toàn đúng đắn không? Thực ra những tàu của Mỹ không thể ở một vị trí gần với quân Nhật Bản khi Yamamoto ra lệnh kết thúc cuộc không kích ngày hôm đó. Genda nói hoàn toàn đúng rằng: cuộc tấn công lần thứ ba bằng máy bay chiến đấu của Nhật Bản vào những kho dầu dự trữ của người Mỹ sẽ không gặp phải sự kháng cự nào cả. Và nếu cuộc tấn công lần thứ ba được thực hiện thì hậu quả của cuộc không kích bất ngờ trên Trân Châu cảng ngày hôm đó sẽ có mức thảm họa gấp nhiều lần thực tế.
Không lâu sau, Yamamoto đã nhận ra mình đã để mất một cơ hội. Sự tiếc nuối ám ảnh ông ta, và vài tháng sau, ông phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan như vậy trong Trận đánh của Midway. Trong trận đánh ấy, ông ta đã đưa ra một sự lựa chọn ngược với trận Trân Châu cảng lần trước, cho phép một đợt tấn công nữa chứ không ngồi đó mà lo lắng về sự nguy hiểm. Nhưng trong trận Midway thì những tàu khu trục của Mỹ lại ở rất gần, đã tìm ra tàu của ông ta và đánh chìm toàn bộ tàu chuyên chở của Yamamoto. Đó chỉ là những con số, còn những quyết định khác nhau có phải sẽ mang lại những hậu quả khác nhau, những tiến trình khác nhau của lịch sử hay không. Điều này không ai biết. Mọi người chỉ biết sự thật là như thế mà thôi.
Chương 24
Máy bay đối phương không đến nữa.
Trân Châu cảng là một nơi chốn đầy rẫy những xác người tả tơi và những xác tàu tan tác. Máu, những thi thể của người, những mảnh đổ nát bao trùm khắp bề mặt một vùng biển đã có thời từng là một vùng hoang sơ. Giờ đây, làn khói ở những đám dầu khổng lồ trôi bồng bềnh trên mặt biển, thả lên không trung những cuộn khói đen ngòm, khiến bầu không khí gần như nghẹt thở.
Trong khi cố gắng tổ chức những đợt chống trả lại quân Nhật trong trường hợp chúng tấn công thêm nữa và cứu những người đã bị giam trong những con tàu đắm và trục vớt những gì còn lại của một đội hải hành đã tơi tả, tư lệnh Kimmel nhận được một bức điện tín từ Washington, bức điện có nội dung như sau: "Hãy cẩn thận! Quân Nhật sắp sửa tấn công."
Tướng Short ở đội chỉ huy của ông nói với đám nhân viên:
- Tôi muốn phải có lính gác và lính tuần canh ở khắp mọi nơi. Bảo họ cứ việc tiền trảm hậu tấu. Và họ phải biết được những dấu hiệu báo trước một cuộc đổ bộ của quân đội thù địch.
Một trong những đại tá của ông hỏi:
- Ngài nghĩ bộ binh của kẻ thù có thể đổ bộ xâm lấn vùng đảo này ư?
- Thưa ngài, sau một buổi sáng hôm nay, chúng ta không nên nghĩ có chuyện gì đó mà chúng không thể làm.
Một trợ lý đưa ông một mẩu tin đến từ Washingtonthông qua tổ chứcWestern Union và được một cậu bé đem tới đưa cho sở chỉ huy quân đội. Cậu bé này người Mỹ gốc Nhật, cậu đã đi xe đạp trao bức điện này đến cho sở chỉ huy quân đội của tướng Kimmel. Chính xác là thư từ Nhật Bản đến vào lúc 11 giờ đêm cho Washington. Y không biết họ có thực hiện chính xác theo giờ khắc này hay không cho nên nhất định phải cảnh giác để đối phó.
Bên ngoài tòa đại xứ Nhật ở Oahu, một đoàn xe hơi đông đảo từ sở cảnh sát Honoluluthắng gấp. Những toán cảnh sát được trang bị vũ trang nhảy ào xuống xe. Họ nhanh chóng lục soát các phòng ban trong tòa nhà đại sứ và nối đuôi nhau dò dẫm suốt dọc hành lang. Họ tìm thấy các nhân viên viên trong tòa đại sứ đang đốt các giấy tờ, chứng từ. Cảnh sát dập các đám cháy từ những đống giấy tờ kia và đưa đám nhân viên Nhật về bót. Sau này những trinh sát có bình luận thêm rằng họ thấy những thành viên của đại sứ quán Nhật có vẻ xấu hổ và bối rối.
Suốt ngày đầu tiên sau cuộc không kích ấy, không ai bắn một phát đạn nào, những máy bay Mỹ cố quay về căn cứ trong lúc đội pháo phòng không của Mỹ thỉnh thoảng cũng nhìn thấy máy bay họ bắn qua vài phát nhưng máy bay không có vị phi công nào bị thương. Trong cuộc tấn công dữ dội vào những con tàu đang thả neo trên cảng, một phi công Nhật đã hi sinh, máy bay của anh ta bị hư hại nặng nề, thế nên anh ta đã không thể lao thẳng vào đối phương như một quả bom cảm tử biết bay vào một mục tiêu quân sự giống như những máy bay không còn sức chiến đấu của Nhật Bản thường làm. Máy bay bị rơi xuống tầng lớp cạn quanh đảo và viên phi công lao ra khỏi buồng lái leo lên cánh của chiếc Zero. Khi trên bầu trời không còn bóng của các máy bay đồng đội tiếp tục tấn công vào khu cảng, một đoàn thủy thủ người Mỹ có trang bị vũ khí theo một chiếc xuồng nhỏ có gắn môtơ, rẽ sóng bước đến bắt anh ta làm tù binh. Khi họ đến gần, viên phi công này rút súng ngắn ra bắn trả và đám thủy thủ đã bắn chết anh ta. Không một ai dám tiếp cận đám máy bay của Nhật nếu không cẩn thận chuẩn bị tinh thần từ trước, nhưng họ không tìm thấy bất cứ phi công Nhật nào còn sống. Lệnh trên đưa xuống là phải cẩn thận và bảo quản xác của họ. Thế nhưng họ đành phải bỏ xác của viên phi công Nhật vào trong một thùng rác cho tới khi tìm thấy một cái thùng vừa ý cho thi thể của anh ta. Trong cảnh hỗn loạn của cuộc chiến thì đó là thứ duy nhất họ có thể tìm được để chứa thi thể của viên phi công Nhật nọ.
Tất cả những người bị thương máu đã không ngừng chảy, kể cả nhũng người bị bỏng. Máu từ những vết bỏng của những người bị bỏng ở gáy còn đỏ hơn cả máu của người khác nữa. Những vết đạn, áo khoác hay những vết cắt do những mảnh kim loại vạt lên những thi thể cháy xém còn khủng khiếp hơn bất cứ vết thương nào bên ngoài. Tiếng máy bay gầm rú bên ngoài, và tiếng bom nổ ì ầm đã không còn nữa. Thay vào đó là những tiếng còi xe cứu thương và cảnh sát rít lên ở khắp nơi.Giờ đây,tiếng còi xe báo những mối hiểm họa ấy có vẻ như rất kỳ cục hệt như những bức điện tín đến quá trễ.
Trong bệnh viện, mỗi thương binh than vãn một kiểu, người thì hét lên chói tai trong những nỗi đau cực độ, nước mắt giàn giụa trên những khuôn mặt trầy trụa, họ gọi tên người thân, la hét cho tới khi giọng khản đặc. Trong lúc đó, các y tá chạy như con thoi giữa những tiếng la hét và một nền máu đỏ tươi. Họ thầm cảm ơn trời vì vẫn còn được nghe những tiếng ồn như vậy. Bởi vì những ai còn la hét được là những người hồn còn chưa lìa khỏi xác.
Những người đã chết được mang đi theo cái cách mà người ta đã mang họ tới. Những vệt máu đông, đông thành một lớp dày nơi bậc tam cấp của một bệnh viện. Những cánh cửa mở rộng sẵn sàng nuốt gọn những người còn sống và nhả ra những xác chết. Đúng là một lối vào địa ngục!
Có hai sĩ quan bước dọc theo những vệt máu trải dài trên đất đi vào trong cái miệng há ngoác ấy. Đó chính là Danny Walker và Rafe McCawley, họ không nói gì kể từ khi đồng tình với nhau là sẽ đến bệnh viện này. Họ thậm chí không còn nhắc đến tên của Evelyn khi quyết định sẽ đến đây. Trong câu chuyện, họ chỉ nói bệnh viện là nơi họ nên đến, trên đường trở về căn cứ không quân, nơi mà lúc này họ biết đã bị quân Nhật Bản cày xới đến không còn thứ gì là nguyên vẹn.
Họ bước vào bên trong, đứng dựa lưng vào tường, chỉ nhìn những đồng đội của mình bị thương vì đạn bom thôi đã khiến họ kinh hoàng và giận dữ. Còn những cảnh họ đang nhìn thấy lúc này khiến họ phát ốm lên. Cả hai đều muốn ói vọt ra.
Giữa những vết thương nhầy nhụa và bắt đầu bốc mùi hôi thối, Evelyn đang chỉ cho hai y tá cách sử dụng bình xịt để xịt chất khử trùng lên trên những vết bỏng. Danny và Rafe nhìn nàng cho tới khi nàng ngước mắt lên. Nàng nhìn thấy họ và cứ đứng ngây người ra. Sự nhẹ nhõm hiện ra trong mắt nàng và chỉ có đôi mắt là nói được cảm xúc của nàng lúc này. Đầu óc nàng cứng đờ vì sự căng thẳng; thân thể, tay chân nàng lấm lem vì máu me; nàng đến bên họ, dừng lại cách họ vài bước, không chạm vào ai. Rafe hỏi nàng:
- Tụi anh có giúp gì được không?
Ba phút sau, họ ngồi lên trên những chiếc ghế được sắp đặt cuối hành lang. Hai chiếc ống nhựa trong dẫn giòng máu từ cánh tay họ vào trong những chiếc chai Cocacola đã được khử trùng. Tất cả các bình đựng máu chuyên dùng đã hết từ lâu. Evelyn kiểm tra những mạch rẽ trên cánh tay họ không bị rỉ máu rồi lặng lẽ quay trở lại với những công việc. Lúc ấy, Danny và Rafe ngồi bên cạnh nhau. Dòng máu của họ chảy vào hai chiếc chai giống hệt nhau. Một lần nữa, họ cảm thấy một mối liên kết giữa cả hai như thể máu của họ không chỉ cùng đến một nơi mà còn đến ở một nguồn nữa.
Đêm bắt đầu buông xuống trên Trân Châu cảng. Lửa đã được dập tắt, nhưng mùi khói của dầu vẫn còn phảng phất khắp mọi nơi. Và có thêm mùi acid tỏa ra từ những ngọn đèn, những ánh lửa hòng xuyên qua màn đêm của các căn cứ lúc này không còn một bóng người, không có tiếng súng, thỉnh thoảng chỉ có một vài lính gác bắn vu vơ vì hoảng loạn. Cuộc chiến bây giờ là làm sao để cứu được những người bị giam trong những chiếc tàu đắm.
Người ta làm việc như điên cuồng, gõ búa không ngừng xuống những thân tàu, cắt lớp vỏ của tàu Oklahomabị lật úp. Khi màn đêm buông xuống thì cũng là lúc những người gần như trần trụi được lôi từ trong tàu ra, những người này không còn tin là họ có thể thở bằng không khí trong lành được nữa. Khi họ bước ra ngoài, nhìn thấy đống đổ nát xung quanh mình, có thể họ là những người duy nhất nhìn được cảnh đó mà vẫn thầm cảm ơn trời rằng mình đã được thoát nạn.
Con tàuArizonacó số thương vong không thể đếm hết được khi vụ nổ khủng khiếp xé toạc con tàu. Với mức độ thiệt hại như vậy thì số lượng thương vong lên cao là không thể tránh khỏi. Những người bên hải quân đau đớn khi biết tin, mặc dù con tàu đã chìm trong lòng đại dương, nhưng nó vẫn giữ chặt trong lòng tàu một số người sống sót vùng vẫy trong những khoang kín còn một ít không khí để thở bên trong lòng tàu. Những người cứu hộ còn đau lòng hơn khi những thợ lặn đầu tiên đến thân tàu. Họ nghe thấy những người ở trong thân tàu ấy đập rầm rầm đòi thoát thân. Những chàng hải quân lập tức dồn hết mọi phương tiện mà họ có, và thêm nhiều thợ lặn hối hả nhào xuống nơi con tàu đắm. Không ai biết họ sẽ cứu những người còn sống ra bằng cách nào, nhưng quả thật, còn người sống ở trong đó, thì những người anh em, hoặc sẽ cứu họ ra, hoặc cũng có người phải chết vì cố gắng cứu đồng đội của mình.
Đó chính là điều đã xảy ra vào ngày hôm ấy. Những người cứu hộ đã phải chết để cứu những đồng đội của mình thoát nạn, di chuyển giữa những đám mảnh tàu tan tác của chiến hạm đã bị những đống đổ nát đè chết. Rõ ràng là những người còn sống đang phải hi sinh mạng sống của mình, cố cứu lấy những gì còn lại trong tàu Arizona. Biết đâu những người còn sống trong thời điểm người ta lôi được họ ra thì đã chết rồi, còn cái số thương vong để làm việc cứu hộ ấy còn nhiều hơn cả số đang hi vọng được cứu vẫn còn bị giam trong tàu.
Cuối cùng những vị tư lệnh phải đi đến một quyết định đau lòng, là bỏ hết mọi nỗ lực để vào được tàuArizona. Và giờ đây, nó đã trở thành một đài tưởng niệm. Một người thì thầm nhắn gửi của những người đã chết vì chiến đấu bảo vệ cho con tàu.