Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 13 - Phần 2

Một cuộc họp bộ tư lệnh mở rộng được triệu tập để nghe tôi thông báo sơ bộ về chủ trương, kế hoạch chiến đấu bảo vệ căn cứ đã được lãnh đạo Miền thông qua, làm cơ sở để chỉ đạo các đơn vị triển khai công tác chuẩn bị, sẵn sàng thích ứng với tình huống phức tạp và khẩn trương đang diễn ra.

Sau khi trình bày quyết tâm chung của Miền, tôi nói tiếp nhiệm vụ của sư đoàn 9 là vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Cục, vừa tổ chức chiến đấu tiêu diệt địch. Hai yêu cầu này có quan hệ nhân quả với nhau cần được quán triệt từ nhận thức thông suốt đến các biện pháp thực hiện cụ thể.

Không có câu hỏi nào nêu ra trao đổi. Tôi trình bày tiếp về tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo Miền.

Đúng là lực lượng làm nhiệm vụ đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ ở Đông Nam Bộ mà chủ yếu tập trung vào mục tiêu chiến khu Dương Minh Châu chỉ có sư đoàn 9 chúng ta. Lúc đầu chính tôi cũng phân vân về lực lượng đảm nhiệm quá ít, e có khó khăn. Cũng định nêu vấn đề này với anh Trần Văn Trà. Nhưng chưa kỉp đặt ra thì trong quá trình dự họp, được trao đổi cùng các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền, vấn đề đã được sáng tỏ, tự mình tiêu luôn cái phân vân một cách êm ả, như chắng có nó ở trong đầu. Chỉ một sư đoàn 9 được tăng cường trung đoàn 16 nhưng chúng ta chiến đấu trong thế trận chiến tranh nhân dân, một thế trận vừa huyền thoại vừa hiện thực, có đủ thành phần ba thứ quân.

- Lấy đâu ra ba thứ quân? - Có ý kiến hỏi.

Đúng là căn cứ Dương Minh Châu hiện chỉ còn 800 dân theo đúng nghĩa đen của nó, nhưng lại sống phân tán. Trước tình hình đó, lãnh đạo Miền đã quyết định tất cả gần 5.000 cán bộ, chiến sĩ, nhân viên thuộc các cơ quan Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền sẽ được trang bị vũ khí, phân chia thành các lực lượng bộ đội địa phương và du kích cơ quan “huyện”, “xã” là những khu vực cơ quan, đơn vị bộ đội đóng trụ sở.

Với gần 5.000 bộ đội địa phương, du kích cơ quan đều là những cán bộ, nhân viên, chiến sĩ có nhận thức cao về trách nhiệm chiến đấu vì sự nghiệp độc lập, thống nhất Tổ quốc, được thử thách thực sự trong khói lửa chiến đấu, thạo địa hình, lại được trang bị vũ khí, được phân công phân nhiệm rõ ràng, được chuẩn bị sẵn trận địa, thiết bị chiến đấu, đó là một lực lượng mạnh và tinh. Tất cả đều được bố trí vừa rộng về diện vừa hiểm về thế cài răng lược, không cho địch phân tuyến, sẽ đủ sức bám trụ chiến đấu tại chỗ có hiệu quả; đồng thời sẽ phối hợp và hỗ trợ tốt cho sư đoàn 9 chúng ta có điều kiện rảnh tay, tập trung lực lượng vào những trận đánh then chốt khi có thời cơ.

Tất nhiên còn phải chờ thực tế trả lời. Nhưng ngay từ lúc này, trên bình diện chủ trương và biện pháp tổ chức thực hiện, tôi thấy đây là một sáng tạo của chúng ta trong việc vận dụng quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của tình hình cũng rất cụ thể. Không thể có cách nào hơn để tạo lực, tạo thế đánh địch trong lúc thật hiểm nghèo này, nếu chúng ta chấp nhận sự đối mặt với chúng.

Tiếp theo, các anh trong Bộ tư lệnh tham gia ý kiến. Sau đó anh Lê Văn Tường, chính ủy sư đoàn kết luận:

- Về biện pháp thực hiện cụ thể thì phong phú, có thể còn nhiều hiến kế bổ sung, nhưng về tư tưởng chỉ có một yêu cầu: Tất cả chúng ta đồng tâm nhất trí, xác định đầy đủ tinh thần trách nhiệm, dũng cảm, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến đấu của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền.

- Trước mắt chúng ta cần hoàn thành tốt chương trình rút kinh nghiệm và tập huấn các yêu cầu về chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu cá nhân.

- Đồng thời triển khai công tác chuẩn bị chiến đấu. Tổ chức trao đổi và quán triệt nhiệm vụ của sư đoàn trong tiến công đánh bại cuộc phản công, cần làm rõ mối quan hệ vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Cục, vừa tổ chức đánh địch bảo vệ căn cứ.

Mùa mưa vừa chấm dứt, lợi dụng yếu tố bất ngờ về thời tiết ở Nam Bộ đang chuyển sang mùa khô, tướng Oét-mo-len, tư lệnh quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam ngay từ trung tuần tháng 10 năm 1966, đã ráo riết chuẩn bị cuộc phản công mùa khô lần thứ hai. Mở đầu Mỹ tổ chức một cuộc càn quét nhằm củng cố các tuyến phòng thủ xung quanh Sài Gòn, chuẩn bị bàn đạp nhằm đành đòn bất ngờ vào lực lượng ta ở bắc Tây Ninh.

Nhưng như trên đã trình bày, chúng ta hoàn toàn chủ động trên mọi bình diện chỉ đạo chiến lược, chiến dịch và chỉ huy chiến đấu được hình thành từ rất sớm, ngay từ mùa khô lần thứ nhất chưa kết thúc. Sự hiện diện của sư đoàn 9 đang còn dở dang nhiệm vụ ở hướng bắc Sài Gòn lật cánh sang hướng tây nam, theo lệnh Bộ chỉ huy Miền là một minh chứng chúng ta đã đi trước kẻ địch trong việc tranh thủ yếu tố thời tiết.

Ngày 2/11/1966, khi ta hoàn thành bước chuẩn bị, các đơn vị đã vào vị trí tập kết và ngày N của trận đánh mở đầu đang tới gần, thì ngày 3 tháng 11 một bộ phận lực lượng của lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 của Mỹ đổ quân bằng máy bay lên thẳng xuống trảng trống Bầu Gòn, cách sở chỉ huy sư đoàn 9 khoảng năm trăm mét. Cán bộ, chiến sĩ cơ quan sư đoàn bộ, nòng cốt là trung đội vệ binh và trinh sát triển khai chiếm lĩnh ngay bìa trảng, đánh lui đợt tiến công của mũi đi đầu, bắn rơi một máy bay lên thẳng, kèm theo “vài chục lính Mỹ bị thương nặng, mất hẳn liên lạc và cây cối gây trở ngại không ai đến cứu được”.

Ngay sau đó ít phút, thường vụ và Bộ tư lệnh sư đoàn hội ý nhận định:

Mỹ đổ quân xuống khu vực ta đã chuẩn bị, là cơ hội để ta tiếp cận địch, thực hành tiêu diệt chúng, và thống nhất xử lý:

- Thông báo ngay tin đánh thắng trận đầu của trung đội bảo vệ trinh sát sư đoàn đến các đơn vị trong sư đoàn để động viên khí thế.

- Nhắc các đơn vị giữ vững quyết tâm, không được chủ quan, sẵn sàng đánh địch theo kế hoạch chung.

Lệnh bổ sung: trung đoàn 16 chuyển sang đánh địch bảo vệ căn cứ, cụ thể tiểu đoàn 9 hành quân gấp về khu vực Bầu Gòn, tăng thêm lực lượng đánh địch đổ bộ đường không; hai tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 hình thành thế trận đánh địch tiến quân theo đường bộ trên đoạn từ Lộc Ninh - Võ Tùng (tỉnh lộ 18 thuộc địa phận tỉnh Tây Ninh).

Trên thế chủ động, do phán đoán chính xác diễn biến và kịp thời điều chỉnh lực lượng, phân công nhiệm vụ, trong hai ngày 4 và 5 tháng 11, lữ đoàn 196 liên tiếp đổ quân xuống Bầu Gòn, lọt vào trận địa bày sẵn của tiểu đoàn 9, bị tiểu đoàn này đồng loạt tiến công, đánh lui 9 đợt tiến công của địch. “Thiếu tá Me-loi tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, trung đoàn 27 bị thương. Trung tá Ba-rốt chỉ huy tiểu đoàn 2 bị chết khi đi cứu viện. Cả một tiểu đoàn của ông ta bị Việt cộng (tức Quân giải phóng) loại khỏi vòng chiến đấu. Khi máy bay đáp tới phòng tuyến thì trời tối đã bật đèn soi bãi đáp nên bị súng cối Việt cộng nã vào. Qua nửa đêm, quân địa phương Suối Cao bị trung đoàn 272 (tức trung đoàn 2) Việt cộng tiến công sở chỉ huy của lữ đoàn 196 cũng bị nã súng cối.”

Chiều ngày 5 tháng 11, quân Mỹ rút lực lượng còn lại về hậu cứ để củng cố lực lượng, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, có tính chất chuẩn bị chiến trường, chưa có đụng độ lớn. Nhưng lữ đoàn 196 đã bị thiệt hại đáng kể, buộc Mỹ phải chuyển hướng mở rộng quy mô của cuộc hành quân.

Trên hướng đông nam Sài Gòn, Bộ tư lệnh quân đội Mỹ ra lệnh ngừng các cuộc hành quân càn quét vào Nhơn Trạch (Biên Hoà), Võ Đắc, Tánh Linh (Long Khánh), Nha Mát - Long Nguyên (Thủ Dầu Một), đưa toàn bộ sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ”, lữ đoàn bộ binh 196, lữ đoàn dù 173, trung đoàn thiết giáp số 11 và một số đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 “Tia chớp nhiệt đới” sư đoàn bộ binh số 4, nâng tổng số quân tham chiến lên tới 30.000 tên, 300 xe tăng thiết giáp, 100 khẩu pháo và nhiều lần chiếc máy bay lên đối phó với ta.

Đây là cuộc hành quân lớn đầu tiên của Mỹ ở Đông Nam Bộ và cả chiến trường miền Nam nói chung trên một diện rộng từ Trảng Bàng đến Gò Dầu trên đường số 1 và Trại Đèn bên quốc lộ 13 với mục đích cao hơn giai đoạn đầu, không phải chỉ nhằm chuẩn bị chiến trường, mà là thăm dò, tạo bàn đạp tiến sâu vào trung tâm căn cứ, “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo đầu não và chủ lực ta.

Mặc dầu có khí thế của đánh thắng trận đầu, nhưng chúng tôi vẫn chưa thật yên tâm trước diễn biến mới thật mau lẹ trong giai đoạn hai của cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ đánh vào căn cứ Dương Minh Châu. Quán triệt mệnh lệnh chiến đấu bổ sung của Bộ chỉ huy Miền điện xuống, chúng tôi chuyển toàn bộ đội hình sư đoàn sang phối hợp với quân dân căn cứ Dương Minh Châu và du kích cơ quan khu B, chiến đấu bẻ gãy cuộc hành quân. Một thế trận chiến đấu phối hợp ba thứ quân đã diễn ra liên tục có hiệu quả trên toàn mặt trận. Sư đoàn 9 đã hỗ trợ tạo điều kiện cho các đơn vị du kích cơ quan Trung ương Cục hậu cần Miền, cơ quan B5, cơ quan thông tin huyện Tà Đạt tiểu đoàn 70 bảo vệ mở những trận tiến công nhỏ lẻ, diệt gần 300 Mỹ, bắn rơi 5 máy bay, bắn cháy 19 xe tăng, thiết giáp.

Ngược lại với những trận tiến công nhỏ lẻ tiêu hao đều khắp của du kích cơ quan kể trên, sư đoàn 9 có điều kiện bứt ra tổ chức lực lượng bám trụ đánh địch trên đường liên tỉnh 4; cử một bộ phận đánh vào phía sau, phối hợp với quân dân Tây Ninh đánh địch ở vòng ngoài. Trong những ngày chống cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ mở rộng, Trung đoàn 1 với tinh thần chủ động, phát huy cách đánh bằng lực lượng nhỏ tổ chức được nhiều trận phục kích, đánh địch càn quét, phá hủy 8 xe M.113.

Ngày 18 tháng 11, quân Mỹ buộc phải co lại, điều chỉnh kế hoạch hành quân.

Ngay lúc đó Bộ chỉ huy Miền điện xuống lệnh cho sư đoàn cần có kế hoạch bám đánh địch trên đường chúng rút. Chúng tôi triển khai thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy Miền không mấy khó khăn, vì ngay từ đầu sư đoàn đã xác định phải bám đường 4 vì địch tiến quân hay lui quân thường phải dựa vào con đường này. Liên tiếp trong ba ngày 21, 22 và 25 thánh 11 các trung đoàn 1, 16 và trung đoàn 2 tổ chức tiến công Mỹ ở Tà Đạt Suối Đá Dầu Tiếng loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá hủy 1 pháo 105 ly, 5 máy bay lên thẳng.

Ngày 26 tháng 11, tướng Oét-mo-len buộc phải kết thúc cuộc hành quân. “Bắt dầu chỉ là lữ đoàn 196 nống ra có tính chất thăm dò, chuẩn bị chiến trường, sau hút cả sư đoàn bộ binh số 1, ba lữ đoàn không vận, kỵ binh thiết giáp khác với yêu cầu cao hơn đánh thẳng vào căn cứ Dương Minh Châu nhưng đã thất bại. Vào những ngày kết thúc cuộc hành quân, MACV buộc phải kết luận, lữ đoàn 196 đã sứt mẻ nặng, buộc tướng một sao Đờ-xớt xuya chuyển sang lực lượng pháo binh dã chiến, giao cho tướng một sao Nâu chỉ huy lữ đoàn này. Lục quân Mỹ phải đẩy thêm nhiều quân Mỹ vào Việt Nam, cho thấy dấu hiệu ở chiến trường ngày thêm căng thẳng.”

Rút kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, Bộ chỉ huy Miền khẳng định mạnh mẽ hơn nữa phương châm chỉ đạo bám trụ đánh địch tại chỗ là hoàn toàn có cơ sở và hạ quyết tâm: động viên mọi lực lượng cơ quan, đơn vị trong căn cứ bám trụ chiến đấu tại chỗ, phối hợp với một bộ phận chủ lực mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh bại cuộc hành quân quy mô của địch, bảo vệ căn cứ, bẻ gãy gọng kìm “tìm diệt” để hỗ trợ phá vỡ gọng kìm “bình định”, tạo điều kiện giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong năm 1967.

Sư đoàn 9 sau đợt chiến đấu góp phần đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ của Mỹ, được bổ sung quân số, vũ khí từ miền Bắc vào theo đường Trường Sơn. Toàn sư đoàn được đổi mới trang bị, bằng hệ vũ khí CKC, AK, B.40, được tăng cường một tiểu đoàn súng cối 120 ly mang vác, một tiểu đoàn súng trọng liên 12,7 ly(9) và triển khai thế trận mới: Trung đoàn 1 đứng chắn tại đường 22, Trung đoàn 2 đứng chắn tại Chà Dơ, Trung đoàn 16 ở Suối Dây, Trung đoàn 3 sang Phước Sang đường 13.

(9) Quân số tăng: mỗi tiểu đoàn có từ 350 - 400 quân, mỗi trung đoàn có từ 1.800 - 2.000 quân, toàn sư đoàn có 9.368 quân.

Tuy nhiên Mỹ vẫn chưa từ bỏ ý định mở các cuộc hành quân thăm dò, nghi binh thu hút làm lạc hướng phán đoán của ta, nhằm đảm bảo chắc ăn cho một cuộc triển khai lực lượng lớn đánh vào chiến khu C. Đó là cuộc hành quân tiếp theo mang mật danh Xê-đa-phôn tiến hành từ ngày 8 tháng 1 đến 26-1-1967

Với lực lượng cỡ quân đoàn(10) đánh vào vùng “tam giác sắt”(11) với mục đích củng cố và nới rộng vành đai an ninh phía bắc Sài Gòn, diệt, đẩy chủ lực ta ra xa, “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo kháng chiến của thành phố Sài Gòn - Gia Định, chuẩn bị bàn đạp đánh vào căn cứ Dương Minh Châu.

(10) Lực lượng địch huy động: sư đoàn 1, sư đoàn 25, lữ đoàn 196, lữ đoàn dù 173, trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 và một số đơn vị quân ngụy Sài Gòn.

(11) Là khu vực An Điềm - An Tây sau này Mỹ khoanh thành một vùng gọi là “Tam giác sắt” rộng chừng 170km2. Trên bản đồ đó là một hình tam giác mà các đỉnh của nó là thị trấn Bến Súc, thị trấn Bến Cát và giao điểm của sông Sài Gòn với sông Thị Tính. Trong nhiều tài liệu “Tam giác sắt” thường được hiểu bao gồm phần đất Trảng Bàng, Củ Chi, Bến Cát, Dầu Tiếng. Gọi là “tam giác sắt” vì nơi đây đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ, địch đổ xuống đăy hàng chục ngàn tấn bom đạn nhưng vẫn không đè bẹp được ý chí gang thép của quân và dân ta, không xóa được một vùng vẫn vững vàng là căn cứ cách mạng.

Cũng cần nói thêm, bản thân cuộc hành quân cấp quân đoàn này đã không có sự nhất trí của những người cầm đầu quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam lúc đó. Trước hết, Bộ tư lệnh dã chiến Mỹ đóng ở Biên Hòa không chấp nhận mở cuộc hành quân, để tập trung lực lượng xâm nhập vào chiến khu Dương Minh Châu. Nhưng tướng Oét-mô-len là tư lệnh chỉ huy chung có tham vọng lớn hơn, muốn cùng một thời gian mở cuộc hành quân Xê-đa-phôn nhằm bứng “Việt cộng” (tức Quân giải phóng) ra khỏi nơi đây với kế hoạch dùng sư đoàn 25 và lữ đoàn 196 ngược sông Sài Gòn làm cái đe. Sau đó dùng sư đoàn 1, lữ đoàn 173 và trung đoàn 11 thiết giáp từ phía đông đánh thẳng vào khu “tam giác sắt”, cắt nó ra làm đôi đặt đối phương lên đe mà nện. Như vậy, sẽ có một bàn đạp đánh vào Dương Minh Châu.

Nhưng ta, bằng phương thức phối hợp tiến công rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của một bộ phận đơn vị chủ lực đánh vào các mục tiêu chủ yếu, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, buộc tướng Oét-mo-len phải kết thúc cuộc hành quân, sau khi chỉ dồn được 15.000 dân về thị xã Thủ Dầu Một.

Đặc biệt từ ngày 2/2 đến 21/2/1967 (trước cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty hai mươi ngày) địch liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét cấp sư đoàn. Không kể cuộc hành quân Bíc-sprinh của sư đoàn 1 và lữ đoàn 173 ngày 1 tháng 2 đến 16 tháng 2 vào khu vực Sình Bà Đá thuộc chiến khu Đ, riêng ở khu vực Dương Minh Châu đã có hai cuộc hành quân nhằm tiêu hao lực lượng ta, tạo thế cho các bước hoạt động quân sự sau đó. Đó là cuộc hành quân Gát-xđen từ ngày 2 tháng 2 đến 21 tháng 2 của sư đoàn 22 đánh vào tây đường 22 đến sát biên giới Campuchia, chốt lại các điểm Lò Gò, Cần Đăng, Tà Xia; cuộc hành quân Túc Sơn từ 14 tháng 2 đến ngày 18 tháng 2 do lữ đoàn 1, sư đoàn 1, một bộ phận lữ đoàn 3, sư đoàn số 4 thực hiện đánh vào Váu Tám, Thị Tính - đông sông Sài Gòn thuộc khu vực Long Nguyên, nhằm tạo địa bàn cho lực lượng hành quân từ quốc lộ 13 đánh vào khu vực căn cứ.

Ngay sau khi cuộc hành quân Xê-đa-phôn kết thúc, lãnh đạo và chỉ huy Miền nhận định: Địch sẽ dốc toàn lực mở cuộc tiến công lớn đánh sâu vào căn cứ của ta, nhằm diệt cơ quan đầu não và lực lượng chủ lực của ta, cố giành thắng lợi có tính quyết định. Vì vậy cần có chủ trương động viên mọi lực lượng cơ quan, đơn vị có mặt trong chiến khu bám trụ, chiến đấu phối hợp với bộ đội chủ lực kiên quyết phản công và tiến công, quyết đánh bại cuộc hành quân đầy tham vọng của địch, giữ vững căn cứ.

Đến đây, công tác chuẩn bị có được định hướng rõ ràng, đã triển khai với nhịp độ tích cực, khẩn trương hơn.

Cùng với các lực lượng dân, chính Đảng, Sư đoàn 9 đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ không chỉ bằng mồ hôi, công sức mà cả bằng máu xương đổ xuống qua đụng độ với kẻ thù trong các cuộc hành quân chuẩn bị nhằm nghi binh, thăm dò, tạo thế của địch(12). Nhưng lúc này đây sau khi nghe ý kiến nhắc nhở động viên của cấp trên qua điện thoại - quyết đánh và quyết thắng cuộc hành quân lớn của địch, giữ vững căn cứ kháng chiến sao mà thiêng liêng đến thế!

(12) Trận thắng Bầu Gòn ngày 4 và 5/11/1966, quân Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu 600 tên, Sư đoàn 9 có 21 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 46 đồng chí bị thương.

Mảnh đất mà chúng tôi đang đứng, có nhiệm vụ xả thân để bảo vệ là mảnh đất mang cái tên thân thương trìu mến vô cùng! - Căn cứ khu B (địch gọi là chiến khu C) thuộc địa phận bắc huyện Dương Minh Châu (sau tách ra lập huyện Tân Biên) tỉnh Tây Ninh, nằm giữa hai sông Vàm Cỏ ở phía tây và sông Sài Gòn ở phía đông. Trong kháng chiến chín năm, nơi đây là một trong những căn cứ địa của miền Đông và là chỗ đứng chân của Xứ ủy Nam Bộ, của Phân khu ủy và Bộ tư lệnh miền Đông cho đến ngày lực lượng vũ trang ta tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, từ 1958 Xứ ủy Nam bộ đã có chủ trương xây dựng nơi đây thành căn cứ tây bắc làm chỗ dựa cho Xứ ủy và là nơi thành lập lực lượng vũ trang đầu tiên của miền Đông. Ở đây cũng đã diễn ra các trận Minh Thạnh (10/1958), Tua Hai (1/1960), mở đầu phong trào đồng khởi của Đông Nam Bộ. Sau đồng khởi, khu B trở thành căn cứ chủ yếu của Xứ ủy Nam Bộ, sau đó là Trung ương Cục, Ủy ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy quân sự Miền, đài phát thanh Giải phóng.

Trong giai đoạn “chiến tranh đặc biệt”, quân đội ngụy Sài Gòn đã mở nhiều cuộc hành quân đánh vào căn cứ, nhưng cũng chỉ đến vùng ven. Từ năm 1965, khi quân Mỹ nhảy vào trực tiếp tham chiến, trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, trên hướng bắc, tây bắc địch đã mở liên tiếp mười ba cuộc hành quân cấp lữ đoàn, sư đoàn tăng cường, cũng chỉ đánh vào các khu căn cứ lõm của ta nhằm đẩy chủ lực ta ra xa vành đai bảo vệ thành phố Sài Gòn và các đô thị vùng ven.

Giờ đây căn cứ khu B nổi lên như một khu căn cứ đầu não lãnh đạo cách mạng toàn Miền, được coi như là vùng bất khả xâm phạm, đã được tướng bốn sao Oét-mo-len, tư lệnh quân đội viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam đưa vào mục tiêu chủ yếu cần phải đánh phá trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong khuôn khổ của chiến lược “tìm diệt”.

Hầu như mỗi chúng tôi, những cán Bộ chỉ huy quân sự và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các tỉnh, thành phố thuộc chiến trường B2 đều ít nhất có một lần đặt chân lên mảnh đất có diện tích khoảng một nghìn năm trăm ki-lô-mét vuông này. Ấy là những ngày về báo cáo, nhận chỉ thị của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền về tổ chức các đợt hoạt động quân sự, về các chủ trương xây dựng cơ sở, phát động quần chúng đấu tranh thực hiện phương châm hai chân, ba mũi đánh bại âm mưu xâm lược của kẻ thù, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Những ngày như thế chúng tôi cảm thấy như mình được sống trên mảnh đất của chính mình, mảnh đất có chủ quyền, được thở hít không khí tự do, được sưởi ấm tình cảm đồng đội đồng chí, được hàn huyên, tâm sự, được tĩnh tâm và thư giãn.

Quá khứ sáng chói, tự hào, lại giữ vị trí then chốt trong hiện tại mảnh đất đang thực sự là nguồn, là gốc của một điểm tựa, một thế trận vững chắc về chính trị, tinh thần và cả vật chất; nó là nơi để ta tạo lực, tạo thế, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc chiến đấu.

Rõ ràng để kẻ thù đánh phá nhằm vô hiệu hóa mảnh “đất thánh” này là một xúc phạm không thể chấp nhận!

Tuy biểu hiện có khác nhau, nhưng các cán Bộ chỉ huy sư đoàn chúng tôi đều có một suy nghĩ, một tâm tư chung như vậy trước khi vào trận.

Trong 1/1967, sau khi được bổ sung quân số, vũ khí, tiến hành học tập Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết 4, Trung ương Cục củng cố quyết tâm chiến đấu, rút kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, phân công cán bộ sư đoàn, trung đoàn đi nghiên cứu thực địa, chuẩn bị phương án chiến đấu trên các điểm chọn sẵn theo quyết tâm chiến địch của Bộ tư lệnh Miền.

Thực hiện hướng dẫn bổ sung của cơ quan tác chiến cấp trên, hình thành thế đánh của bộ đội chủ lực, chúng tôi điều chỉnh cho các đơn vị vào các trọng điểm dự kiến địch sẽ đổ quân cụm lại hoặc hành quân qua.

Trung đoàn 1 đang tham gia chống cuộc hành quân Gat-xđen ở tây đường 12 chuyển về đứng chân tại khu vực đường 4 phối hợp với du kích cơ quan, bộ đội địa phương đánh nhỏ lẻ ở tây đường 4 đến đường 22, sẵn sàng phối hợp với Trung đoàn 2, Trung đoàn 16 đánh một số trận tập kích tiêu diệt các cụm quân địch dọc đường 4 trên các khu vực Bầu Cỏ, Đồng Pan, Bổ Túc. Sau về làm lực lượng dự bị sư đoàn, đứng ở bắc Bổ Túc.

Trung đoàn 2 đứng chân ở khu vực Chà Dơ, phối hợp với du kích cơ quan, bộ đội địa phương đánh nhỏ lẻ trên các khu vực Võ Tùng, Bà Chiếm, Chà Dơ; sẵn sàng phối hợp với Trung đoàn 16 đánh các trận tập kích tiêu diệt các cụm địch ở Chà Dơ, Đồng Rùm trên lộ Kiểm - Chà Dơ - Bổ Túc, trên đường Đá Đỏ - Bổ Túc - Sóc Con Trăng.

Trung đoàn 16 về đứng chân đông đường 4, khu vực Suối Mây, Bến ông Ngọt phối hợp với du kích cơ quan, bộ đội địa phương đánh nhỏ lẻ trên khu vực đông đường 4, sẵn sàng phối hợp với Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 đánh các trận tiêu diệt địch trên đường 4, Lộ Kiểm, Chà Dơ đi Bổ Túc.

Trung đoàn 3 lật cánh sang Phước San - An Tịnh (đông quốc lộ 18) thực hiện nghi binh, kéo dãn đội hình địch, đồng thời tổ chức đánh địch trên đoạn nam, bắc Chơn Thành, sẵn sàng thọc xuống hoạt động sau lưng địch ở khu vực Bầu Bàng, Bến Cát.

Ở đây cũng cần nói thêm, trong quá trình họp bàn kế hoạch tác chiến, có hai loại ý kiến nêu lên: tình hình thay đổi, không như Bầu Bàng trước đây, lần này địch tập trung ưu thế tuyệt đối cả binh lực và hỏa lực, ra quân ồ ạt, ta chỉ có thể phân tán đánh nhỏ; ý kiến khác cho rằng không nên cứng nhắc mà phải có nhiều cách đánh, nhỏ, vừa và đánh lớn.

Đây là một tồn tại thuộc tư tưởng, chứ không đơn thần là nhận thức, cần được giải quyết thông suốt trước khi bước vào chiến đấu. Nhưng giải quyết nó lại không đơn giản, nếu chỉ đơn thuần áp đặt hoặc phê phán một cách võ đoán. Bởi loại ý kiến thứ nhất xuất phát từ thực tế, vì trước đó trung đoàn 2 đã chạm trán với lữ đoàn 196 trong cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ bị địch chống trả rất ác liệt bằng phi pháo, gây thương vong cho ta, một số ít nảy sinh bi quan, dao động.

Sau khi thống nhất trong Bộ tư lệnh sư đoàn, tôi trao đổi lại với các đồng chí chỉ huy trung đoàn và các đơn vị trực thuộc, làm cơ sở tiến hành giải thích cho mọi người thông suốt. Nguyên nhân gây thương vong phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không phải chỉ do kẻ địch có nhiều phi pháo, không phải do tập trung, đánh lớn. Trong thực tế chiến đấu, không phải phân tán đánh nhỏ là ít thương vong hoặc không có thương vong. Ngược lại không phải bao giờ tập trung đánh lớn cũng đồng nghĩa với thương vong nhiều. Vấn đề là ở nghệ thuật chỉ huy, ở trình độ chiến thuật và kỹ thuật chiến đấu cá nhân của mỗi người có thuần thục hay không. Chính vì chúng ta kịp thời rút kinh nghiệm sau chiến dịch Bầu Bàng - Dấu Tiếng, sau đợt hoạt động mùa mưa 1966 đánh địch trên quốc lộ 13; chính vì chúng ta đánh giá địch đúng trong cuộc hành quân này, nên Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ tư lệnh Miền đã đề ra trong bước mở đầu của đợt hoạt động sẽ đánh nhỏ, đánh vừa với quy mô tiểu đoàn, trung đoàn là chính, chỉ đánh lớn khi chắc thắng.