Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 17 - Phần 1

Chương 17

Giữa tháng 10 năm 1973, Trung ương Cục và Quân ủy Miền tổ chức hội nghị nghiên cứu quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 21. Trong tổ học tập của tôi có cả các đồng chí lãnh đạo Thành ủy Sài Gòn - Gia Định.

Mặc dầu tiếng súng chiến tranh đang có chiều hướng tăng lên, nhưng trong khuôn khổ không gian của cuộc họp lại có cái gì khác trước. Bầu trời, mặt đất nơi đây yên tĩnh, ít ra là không nghĩ tới chuyện đề phòng máy bay B.52, trên khuôn mặt những người dự họp tuy vẫn hằn những nét suy tư trăn trở và cả những lo lắng băn khoăn về trách nhiệm trước tình hình đang căng thẳng trở lại, nhưng đây cũng là phút giây được thư giãn, là lúc quyền tự hào được bộc lộ sự đóng góp của mình vào cuộc đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Sinh hoạt vật chất trong những ngày họp cũng được cải thiện, có thuốc lá Thủ đô, kẹo Hải Châu, chè Hồng Đào, Thanh Tâm, hương vị của hậu phương miền Bắc theo đường Trường Sơn vào đến đây đã dễ dàng hơn trước.

Các anh trong Thường trực Trung ương Cục thay nhau trình bày các nội dung của Nghị quyết 21 như tổng kết lại mười tám năm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và rút ra những quy luật giành thắng lợi; về nhiệm vụ và biện pháp cách mạng trong giai đoạn mới. Người nghe chúng tôi cứ sáng ra, phấn hứng hẳn lên theo từng vấn đề nêu trong Nghị quyết, tự mình đối chiếu liên hệ thấy được cái đúng, cái sai trong thời gian qua; thầm nghĩ cả những việc cần làm sau lớp học này.

Địch lấn tới ta đều có đánh trả nhưng chưa đủ độ. “Kế hoạch thời cơ” kết quả không lớn như dự kiến vì địch đề phòng và kìm kẹp rất chặt, kể cả biện pháp bạo lực đàn áp, dân không “bung” ra được. Nhưng cũng còn do sự chỉ đạo của ta còn có những yếu kém và có cả sai lầm nữa: chủ quan, giản đơn, do dự sợ làm mạnh là vi phạm hiệp định; hoặc ảo tưởng, chờ đợi, thụ động. Một số đơn vị, địa phương “lừng chừng, hữu khuynh trong chủ trương đối phó với địch”(1).

(1) Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đăng, tháng 10 năm 1973.

Càng trao đổi, thảo luận chúng tôi càng nhận thức sâu sắc về sự chỉ đạo kịp thời và đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương nêu trong nghị quyết.

Trong một bối cảnh đầy nhạy cảm, phức tạp và tế nhị, Nghị quyết 21 là văn kiện chỉ đạo rất cơ bản của Đảng sau Hiệp định Paris, đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam; đồng thời tháo gỡ những trăn trở, lúng túng và cả những sai lầm về nhận thức và tư tưởng của các cấp, các ngành, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình từ những thắng lợi cuối năm 1973 và cả năm 1974, tạo đà đi đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Giữa lúc tôi đang hòa nhập vào cuộc sống tạm coi như yên vui có phút giây thư giãn, thoáng nghĩ tới cuộc sống mai sau, thì điện của Bộ chỉ huy Miền chuyển đến, lệnh tôi lên gấp mặt trận Bù Bông - Kiến Đức.

Trong lúc chuẩn bị, nhiều bạn bè đến thăm chúc tôi lên đường thắng lợi. Cũng có những ý kiến nhắc nhở không biết là thật hay đùa vui: Lên trên đó chưa chắc đã làm ăn được đâu, mà có đánh được chắc gì giữ nổi! Chọi với tụi quân đoàn 2 ngụy khó gặm lắm đấy!

Tôi chỉ cười cho vui. Vả lại muốn phân giải cũng không có điều kiện, vì thời gian thì gấp mà còn bao nhiêu việc phải chuẩn bị, đường lên Bù Bông vừa xa lại khó đi. Thực ra thì đây không phải là chuyện bông đùa, tôi thầm nghĩ như vậy. Càng không đơn thuần chỉ là nhận thức mà còn có vấn đề tư tưởng hữu khuynh, đánh giá không đúng về địch, dễ dẫn tới hạ thấp mức hoạt động vũ trang giữ thế ổn địch một chiều. Như thế địch dễ được thể lấn tới! Nhưng tôi tin là tư tưởng này sẽ được giải quyết vì hội nghị vẫn đang tiếp tục. Vả lại thực tiễn đã diễn ra, đang diễn ra và sắp diễn ra sẽ là chân lý hùng hồn minh chứng cho nhận định đáng giá của Nghị quyết 21 là chính xác.

Tôi về gặp các anh trong Bộ chỉ huy Miền để nhận nhiệm vụ cụ thể trước khi lên đường.

Tại cơ quan sở chỉ huy Miền không khí làm việc tấp nập khẩn trương, đang chuẩn bị kế hoạch hoạt động quân sự chống lại hành động vi phạm hiệp định của địch theo tinh thần nghị quyết mới.

Anh Phạm Hùng nói ngay:

- Biết hội nghị chưa kết thúc, nhưng tình hình đang rất khẩn trương, Quân ủy Miền quyết định rút anh Năm về đảm nhận công việc, nếu để chậm trễ sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tạo thế chung mà Bộ đã có ý kiến.

- Việc quân sự mà anh! - Tôi đáp lại.

Qua làm việc với các anh trong Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền, tôi được biết ở cái vùng hẻo lánh ít ai biết đến lại đang diễn ra một tình hình rất nghiêm trọng có quan hệ đến cục diện chung.

Yếu khu quân sự Bù Bông giáp biên giới Campuchia địch đang tăng cường hoạt động, thường xuyên đánh phá ác liệt các xã xung quanh, chúng coi đây là khu vực nằm ngoài Hiệp định Paris. Ngoài việc dùng bộ binh tiến công, đột kích vào hành lang vận tải của ta, chúng còn nống sang tận O-răng thuộc đất bạn Campuchia; bắn pháo khống chế suốt ngày đêm gây trở ngại không những cho công việc vận chuyển của ta mà còn ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng và khai thông đoạn hành lang quan trọng này.

Rõ ràng đây là hành động vừa phá hoại Hiệp định Paris vừa chặn đường hành lang, gây cản trở một trong những nội dung rất quan trọng của kế hoạch hoạt động mùa khô 1973 - 1974 của B2.

Triển khai công tác bảo vệ, củng cố và mở rộng các hành lang giao thông vận tải nối hậu phương lớn với miền Đông Nam Bộ qua đường dây 559 trong thời gian này là rất cần để B2 tiếp nhận người và hàng từ miền Bắc vào tạo lực đón thời cơ lớn.

Bộ cũng đang khẩn trương triển khai kế hoạch mở thông đường Trường Sơn, kể cả đường ống dẫn dầu vào tận Đông Nam Bộ, nhưng đến đoạn này thì bị bế tắc. Và bộ cũng vừa điện nhắc B2 phải làm sạch địa bàn này để con đường được khai thông. Vì nâng cao chất lượng hệ thống đường chiến lược phía tây và xây dựng cơ bản đường chiến lược phía đông dãy Trường Sơn được coi là nhiệm vụ trọng tâm số 1 của cả nước trong những năm này nhằm thực hiện Nghị quyết 21 về bảo đảm hậu cần cho hai năm 1973 - 1974.

Từ ý kiến chỉ đạo của Bộ và cũng nằm trong kế hoạch tạo thế tạo lực của B2, các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền chủ trương dùng một lực lượng thích hợp tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng ở khu vực trên đó.

Đây là đợt hoạt động mở màn mùa khô 1973 - 1974, nhằm “kiên quyết đánh địch bất cứ ở đâu, bằng hình thức và lực lượng thích đáng buộc đối phương phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Paris”(2); đồng thời hỗ trợ cho quân dân Khu 6 đang bị địch lấn chiếm ở Bình Thuận, Bình Tuy.

(2) Nhật lệnh của Bộ Chỉ huy Miền gửi các lực lượng vũ trang đề ngày 15/10/1973.

Lực lượng tham gia đợt hoạt động gồm 2 trung đoàn bộ binh (205 và 271), 1 trung đoàn đặc công 439 và 1 tiểu đoàn tăng 20 chiếc, chủ yếu là T59 mới từ miền Bắc bổ sung cho Miền đã tập kết ở khu vực O-răng gần Bù Bông. Còn sử dụng như thế nào, do tôi quyết định sau khi khảo sát thực địa và có được những thông tin cụ thể.

Tôi lên đường trong thanh thản vì các vướng mắc đã được giải quyết sau khi được nghiên cứu quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ương. Khi bắt tay tạm biệt, đồng chí Phạm Hùng còn nhấn mạnh:

- Lên đó anh Năm cần quán triệt đến cán bộ chỉ huy các cấp là “phải nắm vững quan điểm bạo lực và quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công”.

Cập biên giới, theo hướng đông, chiếc xe U-oát(3) cứ lắc lư, len lỏi ì ạch trườn bò theo con đường gần như không tên nhưng không hẳn là mới khai phá. Hiệp định Paris đã ký kết được mười tháng, vậy mà dọc đường hành quân thuộc vùng giải phóng, không khí vẫn khẩn trương; bộ đội, du kích vẫn chắc tay súng, sẵn sàng đánh địch, mặc dầu ở những vùng chúng tôi đi qua cách địch khá xa, địa hình hiểm trở.

(3) UAZ, tên một loại xe con đi chiến trường (tương tự Jeep), do nhà máy sản xuất ô tô mang tên Ulianov (họ của Lenin) sản xuất. Xe chở được bảy người.

Sau gần ba ngày hành quân, chúng tôi tới địa điểm tập kết, cách Bù Bông khoảng tám mươi ki-lô-mét về phía tây nam vào lúc trời đã chạng vạng, không gian yên tĩnh. Vì nơi đây trước lác đác có dân, nhưng qua chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” địch đã liên tục càn quét, số dân ít ỏi một phần lùi sâu vào vùng giải phóng của ta, số còn lại chúng lùa vào vùng chúng kiểm soát, biến nơi đây thành vùng tự do bắn phá.

Ngay tối hôm đó chúng tôi chụm đầu vào nhau quanh tấm bản đồ quân sự - mảnh tỉnh Gia Nghĩa(4) do sở bản đồ của địch ở Đà Lạt in và phát hành, để sơ bộ nghiên cứu, chuẩn bị cho ngày hôm sau đi trinh sát thực địa.

(4) Do ngụy quyền lập ra gần phần đất phía nam tỉnh Đắc Lắc.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi cắt rừng theo hướng đã vạch trên bản đồ để tiếp cận mục tiêu. Ở đây rừng rậm và núi cao, thuận lợi cho việc quan sát, không phải trèo cây như rừng bằng vùng Phước Long, Đồng Xoài hồi nào.

Yếu khu Bù Bông nằm trên một quả đồi độc lập, có độ cao khoảng năm trăm đến sáu trăm mét với vóc dáng bề thế, được địch thiết kế theo kiểu cụm cứ điểm kiên cố. Đỉnh đồi có ba đại đội bảo an vừa làm nhiệm vụ phòng giữ, vừa như một vị trí tiền tiêu phát hiện ta từ xa. Quanh khu đồi địch bố trí một chiến đoàn bảo an, một tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn tăng ở đông khu vực Bù Bông, sẵn sàng ứng chiến nếu căn cứ này bị đối phương tiến công. Quanh đồi có các lớp kẽm gai và bãi mìn dày đặc.

Có thể nói trong suốt chặng đường chiến đấu cho đến lúc này tôi chưa gặp một khu đồi nào lý tưởng cho bên phòng ngự như khu vực Bù Bông. Đã có biết bao đồng chí của ta ngã xuống nơi đây, trên đường vào Nam ra Bắc, trước khi con đường nối thông, ở thời mới khai sơn phá thạch, khi danh từ đúng cả nghĩa bóng và nghĩa đen: đường mòn Hồ Chí Minh. Và đã có bao nhiêu xe, pháo bị tắc nghẽn, nằm chờ, bị phá hủy khi qua đây con đường được mở rộng - với cái từ đường Trường Sơn. Và giờ đây, ở khu vực Bù Bông này, địch đang ngạo mạn có thể phá được ý đồ tạo thế của ta nếu dám vượt qua mắt “cú vọ Bù Bông”.

Từ suy nghĩ liên tưởng đó chúng tôi càng ý thức rõ hơn về trách nhiệm của mình trước trận đánh. Về thế chiến lược, ta thực sự tin tưởng ở sức mạnh của mình, thấy con đường dẫn tới thắng lợi hoàn toàn đang trong tầm tay. Nhưng trong chiến thuật và chiến đấu thì không cho phép chủ quan tự mãn, vì thắng lợi trên chiến trường thuộc về bên nào có sức mạnh cụ thể. Do đó sau một ngày trinh sát, tôi trằn trọc, mãi gần sáng mới chợp mắt. Tình hình đặt ra là muốn tiến công Bù Bông từ hướng bắc thì bộ binh và xe tăng ta phải qua đường 14 cũ và phải giải quyết sáu đồn bốt bảo an mới có đường vào. Ngược lại nếu đánh từ phía nam, gặp phải dốc gần như thẳng đứng, chỉ có đặc công mới tiếp cận được! Cả hai cách đều không ổn. Nếu chỉ đánh bằng lực lượng đặc công, có thể diệt nhiều địch, nhưng không giải phóng được đất đai, một yêu cầu không thể thiếu, để có địa bàn mở hành lang; nhưng nếu dùng binh chủng hợp thành mà không có tính toán cụ thể, địch sẽ dựa vào hệ thống công sự chống trả quyết liệt, rất có thể nhiệm vụ không hoàn thành mà còn bị địch sát thương, gây tổn thất nặng cho ta.

Tôi triệu tập các đồng chí chỉ huy trưởng và bí thư Đảng ủy các đơn vị tham gia chiến đấu đến trao đổi bàn cách đánh. Tất cả các đơn vị có mặt ở đây đều hoạt động độc lập, không quen biết nhau, lại đến một chiến trường không quen thuộc, thời tiết khắc nghiệt, nhiều ruồi vàng, bọ chó, ngày nắng nóng, đêm về khuya lại lạnh như thời tiết trên mặt trăng. Những đợt gió núi kéo dài lúc nào cũng ào ào như trời đổ giông, nhất là về đêm gây khó ngủ. Riêng có Trung đoàn 271 tiền thân là Trung đoàn 82 thời kháng chiến chín năm hoạt động ở Cực Nam Trung Bộ, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ tập kết ra Bắc tổ chức thành lữ đoàn rồi chuyển thành Trung đoàn 271, được điều về đóng quân ở Nghi Lộc, Diễn Châu (Nghệ An) làm nhiệm vụ bảo vệ Cầu Bùng, đảo Ngư, Hòn Mát. Đã tham gia chiến đấu ở chiến trường C (Chiến trường Lào), về làm thế đội hai trong chiến dịch đường 9 - Nam Lào. Đầu 1971 được lệnh vào B2 chiến đấu.

Mãi hơn ba tháng sau trung đoàn mới tới Lộc Ninh, tham gia chiến đấu ở Xa Mát, Thiện Ngôn, rồi xuống Long An. Tháng 1 năm 1973, từ Long An, trung đoàn nhận nhiệm vụ hành quân về đứng chân ở khu vực Bù Bông, được bổ sung ba trăm sinh viên Trường đại học Bách khoa Hà Nội, thành trung đoàn hoàn chỉnh. Là một trung đoàn có bề dày lịch sử và lập nhiều thành tích trong chiến đấu, nhưng đến Bù Bông cũng như đến chiến trường xa lạ, vì lần đầu được điều về đây làm nhiệm vụ.

Đội hình vào trận từ nhiều đơn vị hợp lại nhưng đều có chung một nhận thức, một quyết tâm là bất cứ tình thế nào cũng phải kiên quyết trừng trị bọn phá hoại hiệp định ở một vùng hẻo lánh nhưng lại có vị trí xung yếu, trên tuyến đường chi viện cho miền Nam vào thời điểm rất khẩn trương này.

Bằng bản lĩnh chính trị vững vàng được trải qua thực tế chiến đấu tuy ít người mà ý kiến sôi nổi, không lúc nào đứt quãng, chủ tọa không phải nhắc nhở, gợi ý.

Cuối cùng chúng tôi có chung một quyết tâm:

Bước một, đánh chiếm căn cứ Bù Bông với kế hoạch trung đoàn Đặc công 429 làm nhiệm vụ mở cửa đón tăng, bộ binh vào; Trung đoàn 271 cử một tiểu đoàn bí mật bao vây các đồn bốt nhỏ, bảo vệ đường, không cho địch gài mìn; Trung đoàn 271 (thiếu) cùng tiểu đoàn tăng đánh chiếm Bù Bông sau khi đặc công đã mở cửa.

Bước hai, tiêu diệt chiến đoàn bảo an sau khi hoàn thành đánh chiếm Bù Bông. Đây là thời cơ tốt nhất, vì mất khu vực cao điểm Bù Bông, thế phòng thủ của địch bị vỡ một mảng quan trọng, chiến đoàn bảo an địch càng hoang mang, ta dùng đội hình binh chủng hợp thành hạn chế, diệt địch; Trung đoàn 205 và lực lượng các đơn vị còn lại làm nhiệm vụ chặn viện từ Kiến Đức nống ra phản kích.

Chúng tôi đã hoàn thành một khối lượng khá lớn công tác chuẩn bị chiến đấu, chỉ trong thời gian chưa đầy hai mươi tư giờ. Vừa khảo sát thực địa, vừa tổ chức hành quân chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, vừa suy nghĩ trao đổi thống nhất quyết tâm mà vẫn giữ được bí mật. Xe tăng tập kết cách Bù Bông hơn hai mươi ki-lô-mét, chỉ được lăn bánh trước lúc nổ súng.

Cần nói thêm là khi thảo luận đặc công làm nhiệm vụ mở cửa, cũng có những ý kiến:

- Đặc công vào nhưng không mở được cửa.

- Cứ đột nhập đánh địch theo lối bóc vỏ, không cần pháo hỗ trợ.

- Tốt nhất đặc công đánh chiếm Bù Bông sau đó chuyển sang cùng bộ binh, xe tăng tiến công diệt chiến đoàn bảo an.

Trong thực tế chiến đấu các giả thiết trên không xảy ra. Đặc công vẫn thực hiện tốt chức năng là binh chủng đặc biệt trong nhiệm vụ đặc biệt được giao.

Cho đến 16 giờ ngày 3 tháng 11, mọi công việc chuẩn bị chiến đấu đã được hoàn tất thì cũng là lúc chuông điện thoại đổ hồi, các sĩ quan tác chiến tất bật nghe điện từ các đơn vị gọi về báo cáo, tất cả đã sẵn sàng tiến vào vị trí xuất phát tiến công, thì cũng là lúc sự cố ngoài dự kiến lại đến, có liên quan đến thành bại của chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược này. Đó là tin từ đài kỹ thuật của trinh sát chiến dịch báo cáo: một chiến sĩ thông tin thuộc trung đoàn 271 trên đường đi rải dây điện thoại chẳng may bị địch bắt.

Tôi sững người lại trong giây lát rồi tự nhủ phải thật bình tĩnh và tự tin trong xem xét và xử lý. Cũng như sự cố xảy ra trước giờ nổ súng tiến công chi khu quân sự Phước Bình trong chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài đông xuân năm 1965 mà tôi đã kể trên cùng bạn đọc. Nhưng ngày ấy lành đã thắng dữ. Còn bây giờ thì không khí trong Sở chỉ huy như có cái gì chùng xuống, một số cán bộ tuy không nói ra nhưng trên khuôn mặt hiện lên nét băn khoăn, lo lắng về yêu cầu bí mật của chiến dịch! Tôi ôn tồn chỉ thị cho bộ phận trinh sát kỹ thuật, bộ phận công tác chính trị theo dõi chặt chẽ diễn biến, kịp thời báo cáo để Bộ chỉ huy xử lý. Trước mắt chưa vội vàng thông báo đơn vị ảnh hưởng đến quyết tâm trước trận đánh. Băn khoăn lo lắng là đúng nhưng chúng ta cũng cần phải bình tĩnh, tin là chiến sĩ ta kiên cường, bí mật trận đánh sẽ giữ được. Chỉ phổ biến cho các đơn vị khi có tình huống xấu nhất.

Mọi diễn biến diễn ra sau đó, đúng như dự đoán, được người chiến sĩ thông tin tìm cách trốn thoát trở về nói lại: “Địch nhiều lần gọi lên thẩm vấn, nhưng lần nào em cũng trả lời là lính giữ chốt của hành lang, đi bám đồn để bảo đảm an toàn cho các đoàn vận tải.” Ứng xử thông minh đúng lúc của chiến sĩ ta, khai mà như không khai, địch đành chịu không moi được tin tức gì có liên quan đến bí mật chiến dịch.

Xin được kể tiếp chuyện đang kể.

Ba giờ đêm các đơn vị đều vào tới vị trí xuất phát tiến công.

Một trận mưa bất thần ập đến hòa với gió núi ào ào. Mồ hôi quện vào nước mưa, ai nấy đều ướt lạnh. Đường trơn, hành trang trên người như nặng thêm. Nhưng cái khó đó lại tạo thuận lợi cho yếu tố bất ngờ, địch càng chủ quan.

5 giờ - là giờ G quy định, tiếng nổ bộc phá mở cửa là hiệu lệnh tiến công của trận đánh bắt đầu. Mười trong số ha mươi xe tăng dẫn bộ binh tiến thẳng vào Bù Bông. Dọc đường tiến bị vướng mìn, ta phải dừng lại để khắc phục. Địch biết, chưa kịp đối phó thì quân ta đã vượt qua cửa mở. 5 giờ 40 phút trời còn mờ sương ta đã hoàn thành nhiệm vụ của kế hoạch bước một.

Mất Bù Bông là một bất ngờ lớn đối với địch. Tôi ra lệnh chuyển sang bước hai, dùng đội hình binh chủng hợp thành phát triển tiến công, thực hành bao vây chia cắt tiêu diệt toàn bộ quân địch phòng thủ ở phía đông Bù Bông.

Ngày 5/11/1973 ta tiêu diệt, làm tan rã và bắt sống hoàn toàn chiến đoàn bảo an, thu nhiều vũ khí, trong đó có ba khẩu pháo 105 ly.

Ta làm chủ toàn bộ căn cứ Bù Bông.

Trong phương án tác chiến có dự kiến đánh địch phản kích nhưng không đoán được địch nống ra là lực lượng nào, từ đâu tới, chỉ nêu dự kiến từ Đức Lập sang hoặc từ Đắc Nông, Kiến Đức lên, chủ yếu đề phòng hướng Kiến Đức.

Hai ngày sau, 6/11/1973, địch đưa gần như toàn bộ sư đoàn 22 (hai trung đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng và thiết giáp) đang hành quân lấn chiếm vùng ven biển Ninh Thuận, Bình Thuận lên phản kích quyết liệt hòng chiếm lại Bù Bông.

Theo kế hoạch định trước, tôi lệnh cho trung đoàn đặc công 429 để lại một tiểu đoàn mạnh giữ Bù Bông, lực lượng còn lại chuyển sang đánh địch phản kích từ hướng Kiến Đức lên.

Đây cũng là một cách đánh điểm diệt viện. Nhưng viện binh địch với lực lượng đông, hỏa lực mạnh, ưu thế hơn ta. Song ta chủ động ở thế trận bày sẵn, lại sẵn có khí thế chiến thắng cổ vũ. Cái thế cụ thể ấy đã tạo nên sức mạnh, khắc phục được lực lượng có hạn, hình thành cách đánh chặn địch phía trước, vu hồi phía sau, chia cắt đội hình địch ra từng đoạn thực hành tiến công, tiêu diệt, đã làm tan rã hai trên ba lực lượng sư đoàn 22, sư đoàn trưởng của sư đoàn này bị thương nặng, buộc chúng phải lui quân. Vùng giải phóng mới của ta được giữ vững góp phần hỗ trợ cho lực lượng Quân khu 6 chống địch lấn chiếm có kết quả ở tây Phan Thiết.

Đêm 8/11/1973 tôi thao thức vì niềm vui chiến thắng đạt được nhanh, gọn và giòn giã, nhưng cũng còn một lẽ nữa làm luồng suy nghĩ mới bật dậy. Cái thế ở đây cho phép ta tiến xa hơn nữa, chọc thẳng xuống Kiến Đức tới Đắc Nông - Gia Nghĩa, tạo một thế mới ở nam Tây Nguyên, từ đây nối xuống Bù Đăng - Phước Long. Từ Bù Bông xuống Kiến Đức chỉ có ba mươi ki-lô-mét. Ngoài đường tỉnh lộ, ta tìm được đường be(5), tuy khó đi nhưng giữ được bí mật khi chuyển quân, kéo pháo, tiến công Kiến Đức tạo thêm thế mới. Đã đánh là chắc ăn nhưng cần phải có thêm lực lượng.

(5) Đường lâm nghiệp dùng để kiểm tra, khai thác và kéo gỗ.

Bốn giờ sáng tôi điện triệu tập các đồng chí chỉ huy trưởng và bí thư Đảng ủy các đơn vị đến hội ý.

Khi các đồng chí phụ trách đến đó, tôi tranh thủ nói luôn.

Trước hết biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí của các đơn vị và ý nghĩa của trận đánh thắng lợi. Nhưng thời cơ đang thuận lợi ta cần phải xốc tới, tiến xuống Kiến Đức. Tôi sẽ về báo cáo Bộ chỉ huy Miền và xin thêm lực lượng. Các đồng chí ở lại phải khẩn trương củng cố đơn vị, triển khai lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ vùng mới giải phóng, từng khu vực được phân công theo kế hoạch đã bàn, sẵn sàng đánh địch hành quân lấn chiếm. Sau đó tôi chỉ định người tạm quyền chỉ huy chung trong thời gian tôi vắng mặt. Tôi lần lượt bắt tay tạm biệt từng người. Cả người đi và người ở lại đều rạng rỡ niềm vui đều thành tâm chúc nhau thắng lợi.

Gặp anh Trần Văn Trà tư lệnh Bộ chỉ huy Miền, tôi xin phép được vào việc luôn:

- Tình hình đang rất thuận lợi, tôi tranh thủ về báo cáo và xin các anh cho thêm lực lượng. Vì muốn giữ vững vùng giải phóng, đảm bảo công việc xây dựng cơ bản đường hành lang được thuận lợi để thực hiện các chiến dịch vận chuyển phục vụ kế hoạch thời cơ, ta cần có thêm lực lượng để phát triển xuống Kiến Đức.

- Xin thêm bao nhiêu? - Anh Trà hỏi:

- Xin Miền tăng cường cho một trung đoàn.

Anh Trà không trả lời ngay mà đăm chiêu suy nghĩ như có cái gì khó nói.

Không khí bỗng trở nên nặng nề chẳng vì một lý do nào đó (tôi tự nghĩ và cũng chưa tìm cho mình một giải đáp), thì anh Trà nhìn tôi với nụ cười cảm thông, rồi chậm rãi nói:

- Trung đoàn 16 đang làm nhiệm vụ hỗ trợ nhân dân chống phá bình định ở vùng ven, ở sở chỉ huy Miền chỉ còn một tiểu đoàn vệ binh.

Thoạt nghe tưởng như trên không tạo cho dưới làm nhiệm vụ nhưng với tư cách là phó tư lệnh Miền tôi thấy anh Trà nói đúng. Lực lượng ta có hạn, lại đang phải dàn trải ở nhiều nơi, vừa hỗ trợ chống phá bình định, vừa sẵn sàng đánh địch lấn chiếm bảo vệ vùng giải phóng, giữ thế trận “da báo”, quyết không cho địch phân tuyến, nếu điều cả tiểu đoàn vệ binh đi chiến đấu, thì quả là điều tối kỵ.

Nghĩ như vậy tôi chủ động gỡ bí. Vì khó khăn chung, lên đó tôi sẽ bàn với các đơn vị cách khắc phục. Nhưng cách gì chúng tôi vẫn giữ quyết tâm tổ chức lực lượng tiến công chi khu quân sự Kiến Đức, có thay đổi chỉ là cách đánh. Vì đây là thời cơ, không biết tận dụng thật uổng! Chỉ đề nghị với Bộ chỉ huy Miền chỉ đạo các đơn vị hoạt động hỗ trợ khi chúng tôi nổ súng tiến công Kiến Đức.

Tôi xin phép anh Trà lên đường ngay lúc này để trở lại Bù Bông.

Anh Trà nắm chặt tay tôi hồi lâu:

- Chúc anh Năm lại thành công trong điều kiện khó khăn!

Được tin tôi về, các đồng chí chỉ huy và lãnh đạo đơn vị có mặt ngay sau đó ít phút để chờ đợi nhiệm vụ.