Sự may rủi của trái tim - Chương 17
CHƯƠNG 17
Bà hầu tước dừng lại nhìn xuống người
chồng đã chết. Đầu óc bà quá kích động với khao khát trả thù, quá sửng sốt bởi
ngọn lửa dường như đốt cháy tất cả suy nghĩ ngoài sự khát máu, đến nỗi lúc ấy
bà không thể nhận ra ông hay nhớ ra ông là ai.
Rồi xuyên qua một lớp sương mù đỏ – lý
trí quay lại với bà trong một giây bừng tỉnh và bà gọi tên ông. Ông không đáp
lại và bà cử động như muốn chạm vào ông, nhưng bàn tay bà đưa ra lại đang cầm
thanh gươm tuốt trần và vết ố trên thân kiếm nhắc bà nhớ lại người bà đang tìm
và mục tiêu của bà.
Serena! Đứa con gái đó, con đàn bà tinh
ranh đó, kẻ đã lừa gạt bà quá nhiều và là kẻ đáng phải trả giá không chỉ vì đem
vận đen và cái số mất của mà nó mang đến Mandrake, mà còn vì dám lấy Justin. Bà
hầu tước nhớ ra một cách xảo quyệt rằng với cái chết của Serena, món tài sản
tám mươi ngàn bảng sẽ trở thành của họ. Phải, của họ, vì trong lúc này bà đã
liên kết với con trai bà, mối liên kết chống lại tất cả những người đe dọa phá
vỡ vương quốc riêng Mandrake – một pháo đài, như nó đã luôn như thế, chống lại
tất cả những người xa lạ.
Trong trí óc bà, hỗn loạn và bối rối,
không thể chịu nổi quá lâu suy nghĩ về việc phải chia pháo đài hay vương quốc
đó với bất cứ ai, thậm chí với con trai bà. Bất kể các tước hiệu nói lên điều
gì, bà tin rằng Mandrake thực sự chính do bà tạo nên, nó là của bà và chỉ của một
mình bà. Phải, của bà, vì bất kể chồng bà và Justin có nói ngược lại, thì ngôi
nhà to lớn này tồn tại đến hôm nay hoàn toàn là vì giới thượng lưu đã coi nó là
một nơi cờ bạc khá tốt.
Bà đã biến nó thành một nơi hẹn hò cho
những người quan trọng, và bà sẽ thách thức bất cứ ai, bất cứ ai có thể, dám
không thừa nhận uy quyền tối cao của bà ở đây. Bà hầu tước ngửa cái đầu đỏ ra
giống như bà đang đối mặt với một đám người thù địch và một lần nữa, ánh sáng
như thuỷ ngân của thanh kiếm nhắc bà nhớ đến quyết định của mình.
Bà sẽ giết Serena! Đó là điều bà định
làm, để giải thoát Mandrake khỏi cô ta một lần và mãi mãi, cũng là để giải
thoát Justin khỏi cô ta. Chất bột trắng bà đã hít thoải mái cách đây chưa lâu
đã tạo nên một sự điên cuồng say sưa trong huyết quản của bà. Bà biết rằng bà
đủ sức mạnh làm bất cứ công việc nào, bất kể nó ghê gớm đến mấy. Bà biết bà là
người không ai chế ngự được, không có gì và không ai có thể dừng bà lại được.
Bà quay đi khỏi ông già đang nằm im lặng
và bất động. Phía bên kia xác ông, bà nhìn thấy cánh cửa mở cho bà biết cực kỳ
rõ ràng lối đi Serena đã dùng. Bà đi qua nó và rồi lưỡng lự, vì có những bậc đá
dẫn xuống vườn và một lối đi khác trước mặt dẫn quay trở vào trong nhà. Serena
đã đi lối nào?
“Ta sẽ tìm ra mày, con ranh con! Ta sẽ
tìm ra mày!” bà hầu tước thét to. “Đừng nghĩ là mày có thể thoát được ta.”
Giọng bà khiến người hầu già rời khỏi
phòng của mình ở xa cuối hành lang. Ông mở cửa, ánh sáng rọi ra từ đằng sau mái
tóc xám của ông. Ông nhận ra người kia và bước tới.
“Người cho gọi ạ, thưa phu nhân?”
“Nó đâu?” bà hầu tước hỏi, giọng oang
oang ngân vang xuống lối đi.
“Ai ở đâu cơ, thưa phu nhân?”
“Đứa con gái đó. Nó đi đường này.”
“Tôi không biết người nói đến ai, thưa
phu nhân. Tôi đang đợi đức ông gọi. Giờ này ông phải lên giường nghỉ.”
“Ta tìm – một đứa con gái,” bà hầu tước
nói giọng đe dọa, và rồi người hầu già nhìn thấy vật bà cầm trong tay.
“Phu nhân… ôi, thưa phu nhân,” ông kêu
lên.
“Tránh đường ra, đồ ngu,” bà hầu tước
hét. “Ta sẽ tìm ra cô ta. Mi có thể chắc chắn điều đó. Ta sẽ tìm ra cô ta.”
Ông già ngã bật ngửa vào tường. ông nhìn
thấy sự điên loạn trong mắt bà hầu tước, nghe thấy nó trong giọng nói của bà,
và ông sợ hãi.
Bà lướt qua ông. Người hầu già đứng run
rẩy khi bà đi khỏi, rồi vội vã chạy về hướng thư viện.
Bà hầu tước tiếp tục đi. Lúc đó, bà đã
mất hết cảm nhận phương hướng và không chắc bà đang đi đâu và tại sao. Đột
nhiên bà thấy mình đang ở tầng một, và đang chạy về phía bà với sự kích động
hiện rõ ràng trên mặt là Martha.
“Ôi, thưa phu nhân,” bà ta la lên. “Tôi
đang tìm người khắp nơi.”
“Nó đi đâu?” bà hầu tước hỏi với giọng
man rợ và thất vọng.
“Ai đã đi đâu cơ ạ?” Martha hỏi lại.
“Con ranh xảo trá, Serena… Staverley,” bà
hầu tước quát.
“Sao cơ ạ, cô ta trong phòng mình mà,
thưa phu nhân.”
Bà hầu tước quay người như bà muốn bước
trở lại lên tầng hai, nhưng Martha chộp lấy cánh tay bà.
“Khoan đã, thưa phu nhân,” bà ta nói.
“Tôi có một chuyện quan trọng phải báo với người.”
“Cái gì?” bà hầu tước hỏi. “Ta không có
thời gian chần chừ.”
Martha nhìn qua vai và thì thầm.
“Bọn buôn lậu, thưa phu nhân, chúng ở
đây.”
Bà hầu tước nhìn Martha một lúc như bà
không hiểu nổi bà ta đang nói cái gì, rồi bà từ từ lặp lại:
“Bọn buôn lậu! Ở đây? Tối nay?”
“Vâng, thưa phu nhân. Người đã quên là
người cho gọi họ? Người bảo người có một việc khẩn cấp bảo họ làm. Người không
nhớ sao, thưa phu nhân? Chính tôi đã chuyển lời nhắn của người chiều nay.”
“Phải, phải, dĩ nhiên,” bà hầu tước nói.
“Nhanh lên, thưa phu nhân. Họ đang đợi
người. Người có vàng cho họ không? Tôi tìm nó cho người nhé?”
Bà hầu tước quay người, như miễn cưỡng,
hướng về phòng mình.
“Giờ nghĩ lại, thưa phu nhân,” Martha
khẩn khoản. “Ôi, Chúa trên cao,” bà ta đột nhiên nói. “Người đang dùng thứ bột
của quỷ đó.”
“Im lặng đi, đồ ngu,” bà hầu tước nói.
“Ta làm gì là việc của ta. Có lẽ đó là thứ ta cần lúc này, nhiều hơn, nhiều hơn
nữa để làm đầu óc ta tỉnh táo.”
“Rất tỉnh táo rồi ạ,” Martha nhẹ nhàng.
“Nhưng nhìn này, thưa phu nhân, người làm rớt mất vỏ kiếm rồi.”
Bà hầu tước nhìn vào thanh kiếm trong
tay.
“Ta phải tìm cô ta,” bà lầm bầm. “Ta phải
tìm cô ta.”
“Vâng, vâng, thưa phu nhân,” Martha nói.
“Nhưng giờ nhanh lên, bọn họ đang đợi.”
Họ đến phòng bà hầu tước. Bà đứng giữa
phòng trong khi Martha đến bàn trang điểm.
“Vàng đâu ạ? Lệnh bà cất nó ở đâu ạ?”
Martha hỏi.
“Không có!”
“Không có vàng?”
Martha kinh hãi. Miệng bà ta rớt xuống và
bà ta ngơ ngẩn nhìn bà hầu tước. “Vậy tại sao, tại sao lệnh bà lại gọi họ?”
“Vì ta cần tiền, đồ ngu. Vì bọn chúng sẽ
lấy nó cho ta. Đưa hộp nữ trang cho ta.”
“Hộp nữ trang của người, thưa phu nhân?”
“Ừ, và nhanh lên nào,” bà hầu tước sốt
ruột nói.
Nhìn bà như thể bà mất trí, Martha tìm
cái hộp nữ trang to bọc da có khóa từ ngăn tủ trong tủ quần áo. Khi bà ta quay
lưng lại, bà hầu tước bước đến bàn trang điểm và kéo ngăn tủ đựng hộp bột hít
ra. Bà hít một lần và lần nữa, rồi bà hít sâu. Bà nhìn mình trong gương. Bà
thấy đôi con ngươi trong mắt, giãn ra rất to, sẫm lại và đe dọa. Bà nhìn thấy
làn da mình rất trắng, đôi môi run rẩy. Rồi bà cười chiến thắng.
“Trời ơi, nhưng nhìn ta tối nay xem! Đẹp
hơn bất cứ khi nào trong bao năm nay.”
“Vâng, vâng, thưa phu nhân, nhưng đừng
nấn ná thêm nữa. họ đang đợi rồi.”
“Cứ để chúng đợi,” bà hầu tước trả lời.
“Mở hộp ra, mụ già, để cho chúng ta xem chúng ta có gì bên trong.”
Martha xoay chìa khóa và kéo cái nắp hộp
nặng nề ra sau. Bên trong, trong mỗi ngăn bọc nhung, là những món trang sức của
nhà Vulcan. Bà hầu tước đưa tay ra nhặt lên hai sợi dây chuyền to tướng, một
sợi gắn những hạt rubi to bằng trứng bồ câu, sợi kia là kim cương lấp lánh với
một ánh lửa lạ lùng khi ánh sáng từ những ngọn nến phản chiếu lên chúng.
“Tầng kế,” bà đanh giọng ra lệnh.
Martha tuân theo, nhấc ngăn đó lên lộ ra
những chiếc vòng đeo tay và đồ đội đầu đồng bộ với những sợi dây chuyền. Bà hầu
tước gom hai hay ba món vào hai bàn tay và quay ra cửa.
“Thưa phu nhân, người đi đâu thế ạ?”
Martha hỏi. “Người không thể tùy ý sử dụng những món nữ trang này. Chúng là của
đức ông, thưa phu nhân.”
“Con trai ta cần chúng làm gì chứ?” bà
hầu tước khẽ hỏi.
“Chúng là của ngài, thưa phu nhân – của
ngài để giao cho vợ ngài.”
“Vợ nó!”
Bà hầu tước xoay nhanh người lại nhìn bà
ta, mặt bà méo mó hầu như không nhận ra được.
“Đó chính là kẻ ta đang tìm đấy – vợ của
Justin. Mi giấu nó ở đâu?”
Martha bật kêu lên.
“Tôi không giấu cô ấy, thưa phu nhân. Ôi,
đi thôi, phu nhân. Bọn họ đang mất kiên nhẫn đấy. Nói với họ, đuổi họ đi và bảo
họ đến vào ngày khác, vì sẽ nguy hiểm cho lệnh bà và tất cả chúng ta nếu họ cứ
nấn ná ở đây.”
“Ta không sợ.”
Bà hầu tước lại cười, rồi bà quay đi với
vẻ nghênh ngang, ánh sáng phản chiếu trên những món nữ trang to tướng bà nắm
trong một tay và trên thanh kiếm bà cầm trong tay kia.
“Tôi đi với người nhé, thưa phu nhân?”
Martha hỏi nhỏ.
Bà hầu tước nhìn xuống bà đầy khinh bỉ.
“Và mi giúp được gì? Không, chờ ta ở đây. Ta sẽ quay lại trong vài phút và rồi
chúng ta sẽ đi tìm con ranh con đó.”
Bà bước như đang đi trên không khí. Thực
sự lúc ấy bà thấy mình như chắp thêm cánh và chúng nâng bà bay xuống cầu thang
hẹp vào cánh cửa được giấu trong vách. Bà không cần thắp nến trong đường hầm.
Bà biết đường đi bằng bản năng và khi bà di chuyển về phía trước trong bóng
tối, bà không hề vấp ngã, không ngay cả cho đến khi bà đến đầu những bậc thang
bằng đá.
Đi xuống, bà đi xuống, không khí ẩm ướt,
lạnh lẽo tỏa vào bà khi bà đi. Có một tiếng sấm đằng xa như dội lại, ngân vang
và ngân nga báo điềm gở, nhưng bà hầu tước không để ý. Bà mau chóng nhìn thấy
cái hang được thắp sáng ở phía trước, và khi bà bước vào, bà thấy những cây
đuốc cháy rực và những người đàn ông đứng vòng quanh đợi bà.
Bà đột ngột đi vào đứng giữa họ, một sinh
vật đến từ thế giới khác với hai vai để trần lấp lánh đồ trang sức, mái tóc đỏ
búi cao, đôi mắt sẫm màu hấp dẫn và kỳ lạ. Padlett bước tới.
“Xin chào, thưa phu nhân.”
“Vậy các người ở đây rồi,” bà hầu tước
nói.
“Vâng, thưa phu nhân. Người cho gọi –
chúng tôi xin sẵn sàng.”
Bà hầu tước nhìn hắn, trong một lúc bà
không nói gì, rồi như để hối thúc bà, hắn lặng lẽ nói:
“Phu nhân đã có vàng cho chúng tôi?”
“Vàng! Không, ta không có vàng,” bà hầu
tước đáp. “Ta có những thứ này. Lấy chúng đi! Chúng cực kỳ hiếm và đổi lại bằng
tất cả những thứ các người mang theo và hơn nữa.”
Bà đưa bàn tay trái ra với một cử chỉ
khoa trương. Khi bà làm vậy, một trong những chiếc vòng tay rơi khỏi bàn tay bà
và nằm lấp lánh trên sàn ẩm ướt. Không ai di chuyển để nhặt nó lên. Những người
đàn ông nhìn bà và có một tiếng lầm bầm giữa hai hay ba người trong bọn họ.
“Nữ trang ư, thưa phu nhân!” Padlett kêu
lên. “Mấy thứ này không dễ bán qua eo biển đâu. Tốt hơn là chúng tôi nên lấy
vàng.”
“Nhưng ta bảo ngươi,” bà hầu tước sốt
ruột nói. “là ta không có vàng cho ngươi. Lấy nữ trang đi! Chúng sẽ bán được cả
ngàn đồng vàng. Chúng rất giá trị, ta cho ngươi hay, cực kỳ giá trị.”
Padlett nhìn những người đàn ông mà hắn
ta phát ngôn thay. Điều hắn nhìn thấy trên mặt họ làm tăng thêm sự miễn cưỡng
của hắn.
“Tôi rất tiếc làm phật ý người, thưa phu
nhân,” hắn nói. “nhưng không dễ bán những thứ thế này ở Pháp. Bọn do thám ở
khắp nơi. Rất có thể họ sẽ nghĩ là mấy món hiếm có này bị đánh cắp. Vàng là thứ
người Pháp cần.”
“Ngươi sẽ làm điều ta ra lệnh cho ngươi,”
bà hầu tước nói, và trong một giây mắt bà hẹp lại và có âm điệu báo điềm gở
trong giọng bà.
Padlett quay về phía những người khác như
để tìm lời chỉ dẫn của họ. Một trong số họ, một gã khổng lồ vụng về với râu
quai nón và cái mũi gẫy, nói:
“Chúng là đồ nguy hiểm, đó là lý do chúng
ta lấy vàng, và chúng ta cũng cần nhiều hơn để đi nữa. Năm đồng vàng, là không
đủ. Những chủ khác trả bảy đồng hay hơn thế. Chúng ta cũng cần phần của chúng
ta trong chuyến hàng nữa. Một chai kích thích cho mỗi người, và tiền cho mỗi
người chúng ta đem về nhà là xong.”
“Các người sẽ không có rượu hay thứ gì
khác từ chuyến hàng đâu,” bà hầu tước giận dữ. “Các người biết các quy tắc của
ta. Các người được nghe chúng đủ thường xuyên rồi.”
“Phải, nhưng giờ chúng tôi cũng lập ra
những quy tắc của chúng tôi,” ai đó la to.
“Lũ chó, đồ vô lại, các ngươi thách thức
ta à?” bà hầu tước thét lớn.
Bà đối mặt với chúng đầy giận dữ, thanh
gươm trong tay phải bà khẽ lóe lên khi những ngón tay bà siết chặt chuôi gươm.
“Thì bà sẽ làm gì nếu chúng ta làm thế?”
ai đó hỏi nho nhỏ. “Đâm chúng ta như đâm thằng Adam à?”
Bà hầu tước đứng đó, hơi thở gấp gáp, hai
lỗ mũi của cái mũi thon khẽ rung lên với cơn giận tuyệt đối.
“Lũ trộm cắp vô lại,” bà nói. “Cặn bã của
xã hội, bọn đầu óc ngu dốt đáng thương, lấy phần thanh toán của ta ngay đi hoặc
là sẽ tệ hơn cho các ngươi đấy.”
“Bà ta điên rồi,” một người thì thầm với
người khác; nhưng từ ấy, dù thì thầm nho nhỏ, vẫn lướt quanh trong hang và bà
hầu tước nghe được.
“Điên, ta à?” bà hét lên. “Phải, có điên
mới tin lũ hạ lưu như chúng bay. Làm như ta bảo chúng bay, hay, có thiên đàng
làm chứng, chúng bay sẽ thấy hậu quả của nó đấy.”
Bà thình lình đâm kiếm tới. Người đứng
gần bà nhất bật ngửa lại một hai bước.
“Touché,” bà cười; “rụt lại đi, bọn nhát
gan; ta sẽ dạy các ngươi biết ai là bà chủ ở đây. Tuân lệnh ta hoặc ta sẽ gọi
quân kỵ binh và giao các ngươi cho họ. Ta không sợ các ngươi đâu, nhưng các
ngươi sẽ phải sợ ta. Các ngươi sẽ biết được quyền lực của ta và sức mạnh của ta
và các ngươi sẽ làm theo lệnh của ta hoặc trả giá cho sự bất tuân của các
ngươi… trả giá cho nó bằng mạng sống của các ngươi.”
Một sự im lặng hoảng hốt đột ngột và
Padlett vội vàng nói:
“Vì Chúa, thưa phu nhân…”
Nhưng hắn ta không nói được thêm nữa, vì
một hòn đá bay tới từ phía sau hang. Nó đập vào vai bà hầu tước. Bà loạng
choạng một phút rồi bà thét lên:
“Ném đá ta, các ngươi dám, lũ trộm cướp?
Các ngươi sẽ phải quỳ gối khóc mà cầu xin lòng khoan dung của ta.”
Bà di chuyển rất nhanh về phía trước;
thanh gươm đâm vào vai trần một người không đề phòng và xé toạc da hắn ra.
Nhưng bà không làm hơn được nữa. Một hòn đá khác, một hòn to, đập vào giữa hai
mắt bà, và khi bà loạng choạng vì sức va chạm của cú ném, thì một hòn khác và
một hòn khác nữa. Những tiếng hét đột ngột vang lên, chói tai và tàn bạo, và
sau một lúc giọng của Padlett vang cao hơn tất cả.
“Dừng lại… các người nghe không? Dừng
lại…”
Rồi không nghe thấy hắn ta nữa. Những
viên đá đang bay qua không khí, viên này nối tiếp viên kia đập vào bà, đánh bà
ngã quỳ xuống và lăn ra đất.
Bà kêu lên một tiếng, nhưng nó chìm nghỉm
trong cả dặm những âm thanh cùng lúc. Đó là một tiếng ồn, sâu trong yết hầu và
không rõ ràng, như tiếng một con thú khi hạ con mồi, và rồi đột nhiên chỉ còn
tiếng những bước chân chạy xuống đường ngầm hướng ra biển. Có một tiếng la hét,
một tiếng ồn rời rạc, tiếng bắn nước của những mái chèo giống như chúng đập vào
nước vội vã và không cẩn trọng. Sau đó là sự im lặng.
Những cây đuốc chiếu sáng hang đá rộng
lớn. Ở đầu bên kia của đống đá đang che phủ một phần xác của một người đàn bà.
Bàn tay đưa ra của bà trên mặt đất ẩm vẫn còn nắm chặt một sợi dây chuyền to
bằng đá rubi và kim cương lấp lánh và loé lên những tia lửa trong ánh sáng bập
bùng. Chỉ có tiếng sóng vỗ và thỉnh thoảng là tiếng sấm ầm ì xa xa. Trời ẩm
ướt, lạnh lẽo và rất tĩnh lặng.
Justin, điều khiển xe về đến cổng
Mandrake, nghe thấy tiếng sấm sét xa xa. Anh vẫn còn cách Mandrake vài dặm khi
bắt đầu mưa, nhưng khi bắt đầu cơn bão thì anh đã được bảo vệ an toàn bởi chiếc
áo khoác dày nhiều lớp. Khi anh về gần hơn, tuy nhiên, anh có thể nhìn thấy
những vũng nước mưa to tướng và nhận ra cơn bão hẳn đã đặc biệt dữ dội quất lên
ngôi nhà. Anh điều khiển xe vào sân trong, ném mớ dây cương cho người hầu, và
sải bước về phía nhà.
Cánh cửa mở ra trước khi anh tới nơi và
anh thấy người quản gia già đứng đó với một hàng người hầu. Anh bước vào và khi
người hầu bắt đầu bài diễn văn mà anh đã nghe đi nghe lại suốt buổi tối sau khi
tin tức về đám cưới của đức ông lan ra, anh nhìn ông với một cái nhìn làm các
ngôn từ chết lịm ngay trên môi ông. Ông chỉ có thể đứng nhìn theo đức ông, băng
qua hành lang bên ngoài đi vào trong sảnh lớn. Tại đây, Justin tuột áo khoác và
găng tay ra, vẫn với vẻ mặt sạm lại cau có làm đóng băng tất cả những đôi môi
muốn nói chuyện với anh. Người hầu của anh, tuy nhiên, đã đợi ở góc xa của
sảnh, tiến về phía anh với một tờ giấy trên chiếc khay bạc.
“Cái gì thế, Wilkin?” anh hỏi, giọng gay
gắt.
“Cái này khẩn cấp, thưa đức ông,” người
hầu của anh trả lời.
“Khẩn cấp?” Justin vặn lại, với tông
giọng của một người vừa nghe thấy một lời đề nghị quá quắt không thể chịu đựng
nổi.
“Từ lệnh bà,” Wilkins lặng lẽ nói. “Bà đã
yêu cầu phải đưa cho đức ông ngay khi người về tới.”
“Lệnh bà?” Justin nói, và đó là một câu
hỏi.
“Vâng, thưa đức ông. Lệnh bà đã có một
chuyến hành trình tốt đẹp và đến nhà không mệt lắm.”
Justin đưa tay ra lấy tờ giấy và vội mở
ra. Rồi những người quan sát dường như thấy sự u ám biến mất khỏi mặt anh và
anh đột nhiên trẻ ra không ngờ. Không nói một lời, anh quay người và đi lên cầu
thang rộng, bước hai bậc một. Chỉ khi lên đến đầu cầu thang, anh lưỡng lự một
chút, cho bà Matthews, quản gia, một cơ hội tiến đến gần anh, một bài diễn văn
chào mừng thoáng trên môi bà. Bà cúi thấp chào.
“Buổi tối tốt lành, thưa đức ông. Tôi rất
vinh dự xin chúc người…”
“Phu nhân ở phòng nào?” Justin ngắt
ngang.
Người quản gia hít sâu.
“Trong căn phòng phu nhân thường ở, thưa
đức ông. Phu nhân mẹ ngài chỉ thị rằng không có thay đổi gì hết…”
“Vậy ra đây là cách các người đối xử với
vợ ta, phải không?” Justin sắc nhọn. “Các người dám không đón nhận cô ấy đúng
cách? Chuẩn bị phòng Nữ hoàng ngay lập tức. Bà biết rõ như ta, bà Matthews,
truyền thống là cô dâu của mỗi thế hệ ở Mandrake đều ngủ trong phòng Nữ hoàng.”
Bà Matthews trông bối rối.
“Vâng, thưa đức ông. Dĩ nhiên, thưa đức
ông. Tôi xin lỗi, thưa đức ông, nhưng phu nhân mẹ ngài bảo…”
“Làm như ta ra lệnh,” Justin nói, rồi anh
bỏ đi, bỏ lại bà quản gia vẫn đang lầm rầm lời xin lỗi và cúi chào rồi cúi chào
lần nữa đầy bối rối.
Anh vội vã đi dọc theo hành lang và lên
cầu thang hẹp lên tầng hai. Chỉ khi đến hành lang dẫn đến phòng Serena, anh
dừng lại một chút rồi liếc xuống tờ giấy trong tay như để chắc chắn thêm lần
nữa. Rồi anh lại đi tiếp. Anh thấy cửa phòng mở toang và anh giảm tốc độ một
chút khi anh đến gần hơn.
Anh đến phòng nàng và gõ cửa. Không có
trả lời và sau một lúc, anh gọi: “Serena!”
Nhưng không có hồi âm. Anh bước vào
phòng. Nó trống không. Ngọn lửa vẫn đang cháy sáng trong lò, nến được thắp, và
rồi anh thấy, trong ngạc nhiên, chiếc bàn nằm lật nhào làm đổ chiếc hộp đồ khâu
vá và những thứ bên trong rải rác khắp thảm. Anh nhìn quanh một lúc, rồi nhìn
xuống cái then cửa bị vỡ nằm dưới đất. Anh há hốc miệng, và khi anh làm vậy,
những âm thanh rõ rệt vang ra từ phòng bên cạnh. Anh sốt ruột gõ cửa nhưng
không chờ trả lời, anh nhấc then cửa lên và đi vào.
Nến vẫn cháy và anh thấy Eudora nằm trên
giường, ngáy oang oang. Anh đến bên bà.
“Thức dậy,” Justin giận dữ gọi. “Cô chủ
của bà đâu?”
Anh cúi xuống lay vai bà. Không hề có một
phản ứng nhỏ nhất, và rồi, cũng như Serena đã biết, anh nhận ra ngủ như vậy là
không bình thường. Anh quay người ra khỏi phòng, và quay lại vào phòng Serena.
Anh đứng nhìn quanh và thấy cánh cửa trong tháp canh nhỏ. Một biểu hiện nhẹ
nhõm hiện lên mặt anh. Anh vội vã băng đến chỗ đó, đi vào tháp canh và thấy
cánh cửa nhỏ hơn cũng mở, lộ ra cầu thang xoắn. Anh vội đi xuống, chân anh dội
vang ồn ào trên những bậc thang đá. Cánh cửa vào thư viện cũng mở và anh vội
bước vào.
Khi anh vào phòng, anh thấy người hầu già
của cha, người anh đã biết từ khi còn bé, đang quỳ gối cạnh cha anh.
“Newman,” anh gọi. “Chuyện gì thế?”
Ông già đứng lên. Nước mắt chảy xuống má
ông, những giọt nước mắt chậm rãi, khó khăn vì tuổi già.
“Đức ông mất rồi, cậu Justin,” ông nói.
“Ngài chết khi đang làm việc. Đó là cách ngài đã mong muốn ra đi… nhưng… ngài
đã đi rồi.”
Justin chậm rãi đến bên cha. Anh đưa tay
ra nhẹ nhàng chạm vào má ông. Nó đã lạnh, và rồi, khi anh sờ vào bàn tay vẫn
cầm bút trải ra trên tờ giấy trắng, anh đột ngột kêu lên, vì anh thấy chữ cuối
cùng cha anh viết là “kết thúc”.
“Cha đã hoàn tất lịch sử của mình,” anh
lặng lẽ nói. “Đó là vì sao cha chết, Newman, công việc của cha hoàn thành rồi.”
“Ôi, cậu Justin… Chúa cứu rỗi linh hồn
ngài ấy!” ông già nức nở.
“Có ai đến đây không, Newman?” Justin
nhanh chóng hỏi. “Một quý cô trẻ, người đến hôm trước ấy? Cô ấy hẳn đã đi qua
đây.”
“Tôi không thấy cô ấy,” Newman trả lời.
“Nhưng tôi thấy lệnh bà, và ồ, cậu Justin, phu nhân trông khủng khiếp lắm, với
một thanh gươm tuốt trần trong tay.”
“Một thanh gươm tuốt trần? Ông chắc chứ?”
“Chắc như tôi đang đứng đây, cậu Justin,
và phu nhân đang đi tìm ai đó. Phu nhân cũng hỏi tôi có thấy một cô gái không.”
“Ôi, Lạy Chúa tôi!”
Justin nói những từ đó dưới hơi thở khi
anh kéo mở cửa thư viện ra. Anh liếc xuống lối đi và rồi anh giật mình. Cửa vào
vườn mở. Anh có thể cảm thấy không khí lạnh giá và mùi hương đất ẩm ướt vừa ướt
vì mưa. Anh chạy như bay xuống những bậc thang. Phải, cánh cửa mở và giờ anh
đang đi vào trong vườn, đứng đó lắng nghe, đầu anh quay bên này rồi bên kia.
Trong một lúc chỉ có tiếng sấm xa xa trên biển, và rồi anh nghe thấy thứ gì
khác, tiếng chó sủa, tiếng sủa trầm của giống chó tai cụp.
Anh bắt đầu chạy về phía tiếng sủa, chạy
nhanh hơn bao giờ hết kể từ khi anh rời trường học. Chính Torqo đã dẫn anh đến
nơi nguy hiểm mà Serena đã rơi từ vách đá, Torqo, chạy đến bờ vách rồi quay
lại, sủa điên cuồng và cố hết sức thu hút sự chú ý vào hoàn cảnh tuyệt vọng của
cô chủ nó.
Justin nghiêng người ra để xem xét nơi
Serena đã ngã. Rìa đá rất hẹp và quả là một phép màu khi nàng không rơi thẳng
xuống những mỏm đá nhọn nguy hiểm cách hàng trăm feet ở bên dưới. Áo dài của
nàng đã cứu sống nàng, vì nó mắc vào rễ của một cái cây cổ thụ. Rõ ràng là nàng
phải được đưa lên một cách cẩn thận nhất vì chỉ còn một hơi thở giữa nàng và sự
hủy diệt hoàn toàn.
Justin chỉ mất vài phút chạy ngược về
nhà, đánh thức người hầu và quay lại với vài người hầu trẻ khỏe mạnh và một sợi
dây thừng chắc chắn. Họ cẩn thận hạ anh xuống qua vách đá. Anh không đế ai khác
làm điều này. Rất nguy hiểm cho cả anh lẫn Serena, vì một sai lầm nhỏ nhất cũng
có thể làm cho cả hai rớt xuống những mỏm đá bên dưới. Cực kỳ thận trọng, họ hạ
anh xuống và cuối cùng, anh ôm được Serena trong tay và la to kêu họ kéo anh
lên, và họ đã kéo cả hai lên an toàn.
Họ đến đỉnh vách đá và những bàn tay chìa
ra sẵn sàng để đón gánh nặng quý giá từ tay Justin; nhưng anh từ chối cụt lủn.
Khẽ lắc người khỏi sợi dây thừng, anh mang Serena băng qua vườn vào trong nhà
và lên lầu vào phòng Nữ hoàng.
Trong ánh sáng của những ngọn nến trong
Đại sảnh, trong một khoảnh khắc điên rồ anh đã nghĩ là có lẽ nàng đã chết. Nàng
quá nhợt nhạt và mái tóc vàng của nàng, ướt sũng vì cơn bão, xõa ra trên vai,
tạo cho nàng một dáng vẻ mỏng manh dễ vỡ đáng sợ.
“Serena!” anh thì thầm gấp gáp. “Serena!”
Nhưng nàng không thể nghe thấy anh. Chỉ
khi anh vào trong phòng ngủ và đặt nàng xuống giường, mi mắt nàng khẽ run run
và một bàn tay nàng, xanh tái vì lạnh, tạo một cử chỉ yếu ớt.
Rất dịu dàng, Justin đặt nàng xuống và
rút cánh tay bên dưới nàng ra.
“Trời ơi, phu nhân ướt sũng rồi,” bà quản
gia kêu lên, nhìn chăm chú đầy lo âu từ phía bên kia giường.
“Lấy chăn, gạch nóng, rượu,” Justin nói
ngắn gọn.
“Đang đem đến, thưa đức ông. Cầu thượng
đế không quá trễ.”
“Serena!”
Giọng nói của anh lúc này tràn ngập sự
đau đớn cực độ vì sợ hãi
Serena khẽ co giật và môi nàng mấp máy.
“Justin,” nàng thốt lên. “Justin, ôi, cứu
em, cứu em với!”
Giọng nàng rất nhỏ và khó mà nghe thấy
được, nhưng sự hoảng loạn tuyệt đối trong tiếng kêu ấy làm những người đứng
quanh giường thấy nước mắt ứa lên mi.
“Em an toàn – an toàn rồi,” Justin trả
lời. “Ta đã cứu em, em có nghe thấy ta không?”
Anh nắm lấy bàn tay nàng trong tay anh và
bắt đầu dịu dàng cọ xát nó. Với một lực mạnh bất ngờ đáng ngạc nhiên, nàng rút
tay ra.
“Justin,” nàng gọi. “Justin, cứu em với!”
Rồi với giọng gần như nài xin thảm thiết, nàng thêm: “Ôi, Ông Hề, chỉ đường cho
tôi với. Tôi phải đến với anh ấy. Gấp lắm; anh ấy ngã rồi!… Justin! Justin!…
Phải… phải… anh ấy là… mong ước của trái tim tôi.”
“Quý cô đáng thương, cô ấy mê sảng rồi,”
bà Matthews kêu lên; và rồi, sau khi bà nói xong, hơi thở bị lấy mất khỏi cơ
thể bà vì biểu hiện trên mặt đức ông.