Tên của đóa hồng - Phần VII - Chương 1 - Phần 2
- Chúng ta sẽ xem, - Jorge đáp, - Tôi không nhất thiết phải lấy mạng Huynh, có lẽ tôi sẽ thuyết phục được Huynh. Nhưng trước tiên, hãy nói cho tôi biết: làm cách nào Huynh đoán được đó là tập hai của quyển sách của Aristotle?
- Cách Huynh nguyền rủa tiếng cười chắc chắn không đủ cho tôi, và những gì tôi biết về cuộc tranh luận của Huynh với những người khác cũng quá ít ỏi. Thoạt tiên, tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Nhưng có những lời viết về một viên đá nhục nhã lăn trên bình nguyên, về những con ve sẽ từ lòng đất kêu vang lên, về những quả vả đáng kính. Tôi đã đọc một loại giông giống như vậy: mấy ngày vừa qua, tôi đã kiểm chứng lại. Đó là những thí dụ Aristotle đã sử dụng trong tập một của tác phẩm Thi ca, và tác phẩm Tu từ học. Rồi tôi nhớ Isidore xứ Seville đã định nghĩa hài kịch là một thứ nói về - biết diễn tả như thế nào nhỉ? – về một điều kém hơn những tình yêu đức hạnh. Dần dần tập hai của tác phẩm này hình thành trong óc tôi. Tôi có thể kể cho Huynh nghe gần như toàn bộ tập đó, mà không cần phải đọc những trang sách định dùng để thuốc tôi chết. Hài kịch phát sinh từ “Komai” – đó là những làng quê – như một cách liên hoan vui vẻ sau bữa ăn hay bữa tiệc. Hài kịch không nói về những kẻ quyền uy, danh giá, mà về những con người phàm tục buồn cười, nhưng không độc ác, nó không chấm dứt bằng cái chết của các nhân vật. Nó đạt được tác dụng gây cười nhờ vạch ra các thói hư tật xấu của người bình dân. Ở đây, Aristotle xem khuynh hướng gây cười như một lực lượng của điều thiện, trong đó cũng có giá trị giáo huấn: qua những câu đố hóm hỉnh và ẩn dụ bất ngờ, mặc dù chúng trình bày sự vật khác với bản chất của nó như thể nói dối vậy, khuynh hướng này thực sự buộc chúng ta phải xem xét sự vật kĩ lưỡng hơn, khiến chúng ta phải thốt lên: À, sự vật là thế này đây, mà trước kia ta chẳng biết. Chân lý được đạt đến nhờ miêu tả con người và thế giới tệ hơn bản chất của chúng, hay tệ hơn chúng ta vẫn nghĩ, dẫu sao thì cũng tệ hơn hình ảnh mà các trường ca, bi kịch và cuộc đời của các vị thánh vẫn đưa ra cho chúng ta thấy. Có phải thế không?
- Gần như thế. Huynh đã tái lập nó nhờ đọc các sách khác à?
- Nhiều điều trong đó Venantius đang nghiên cứu. Tôi nghĩ Venantius đã săn tìm quyển sách ấy khá lâu. Hẳn Huynh ấy đã đọc được trong thư mục các dấu hiệu cũng như tôi, và tin rằng đây là quyển sách Huynh ấy đang tìm kiếm. Nhưng Huynh ấy không biết cách đột nhập “finis Africae”. Khi nghe Berengar nói với Adelmo về nó, Huynh ấy liền lao ngay vào như chó săn thỏ.
- Đúng như thế. Tôi hiểu ngay. Tôi biết đã đến lúc mình phải hành động ác liệt để bảo vệ Thư viện…
- Và Huynh đã tẩm thuốc độc vào sách. Hẳn là một công việc khó khăn… trong bóng tối…
- Bây giờ tay tôi có thể nhìn rõ hơn mắt Huynh. Tôi đã lấy ở chỗ Severinus một cái bàn chải, và tôi cũng có đeo găng. Đó là một ý độc đáo phải không nào? Huynh phải mất một lúc lâu mới suy ra được…
- Phải. Tôi cứ nghĩ đến một vật phức tạp hơn, một cái kim tẩm thuốc độc hay một loại gì tương tự. Phải công nhận cách làm của Huynh thật là tiêu biểu: nạn nhân tự đầu độc khi có một mình, và chỉ trong mức độ người ấy muốn đọc…
Tôi rùng mình nhận ra rằng phút này đây, hai con người đối mặt trong một trận chiến sống còn đang thán phục lẫn nhau, tựa như người này hành động chỉ để người kia tán dương. Đầu óc tôi vụt lên ý nghĩ rằng các trò gian xảo mưu mẹo mà Berengar đã sử dụng để quyến rũ Adelmo, những hành vi chân thật và tự nhiên mà cô gái đã dùng để khêu gợi lòng đam mê và dục vọng của tôi, chúng thật vô nghĩa nếu so với sự khôn ngoan và tài năng điên cuồng mà người này đem ra để chinh phục người kia, và thật tầm thường nếu so với cảnh nhử nhau đang xảy ra ngay trước mắt tôi đây; bảy ngày qua họ triển khai chiến pháp của mình, họ như đã bí mật hẹn ngầm với nhau, mỗi người âm thầm mong đợi người kia tán đồng, người này vừa sợ vừa ghét người kia.
Thầy William nói: - Nhưng Huynh hãy nói cho tôi biết, cớ sao Huynh lại muốn che giấu quyển sách này hơn nhiều quyển sách khác? Tại sao Huynh lại ém đi các luận thuyết về phép phù thủy, những trang sách có thể báng bổ Chúa – mặc dù không phải trả giá bằng án mạng đi nữa; trong khi chỉ vì những tờ giấy này, Huynh lại đi hại những người anh em và hại cả chính mình? Có nhiều quyển sách khác nói về hài kịch, nhiều quyển khác ca ngợi tiếng cười. Tại sao Huynh lại sợ quyển này nhiều như vậy?
- Vì nó do Triết gia[1] viết. Mỗi quyển sách do Người viết đã tiêu diệt một phần nền học vấn mà Thiên Chúa giáo đã tích lũy hàng bao thế kỷ nay. Các Đức Cha đã nói mọi điều cần biết về sức mạnh của Phúc Âm, nhưng Boethius[2] chỉ cần trau chuốt lại lời của Triết gia là sự huyền nhiệm của Phúc Âm đã biến thành trò cười của những phạm trù và tam đoạn luận cho người đời. Sách “Sáng Thế Ký”[3] đã nói những điều phải biết về cấu trúc của vũ trụ, nhưng chỉ cần đọc quyển “Vật lý” của Triết gia là đủ hình dung lại một thế giới bằng những vật chất trơn nhầy vô tri vô giác, và tên Ả Rập Averroes[4] đã gần thuyết phục được mọi người về sự vĩnh cửu của thế giới. Chúng ta đã biết mọi điều về các tên Thánh, thế mà tên Dominic mà Cha bề trên đã chôn xác – kẻ đã bị Triết gia quyến rũ – dám đặt tên các thánh lại, theo những cách suy luận tự nhiên đầy kiêu hãnh. Thế là cái vũ trụ mà Thẩm phán tòa Areopagus cho rằng tự mở ra cho ai biết cách chiêm ngưỡng dòng suối ngời sáng của cội nguồn đầu tiên đã hóa thành nơi giữ gìn các nguyên tố trần tục mà họ gọi là vật thể trừu tượng. Trước kia, chúng ta thường ngước lên trời, thỉnh thoảng mới hạ cố nhíu mày liếc xuống vũng bùn vật chất, bây giờ chúng ta nhìn mặt đất, và tin vào trời qua những lời thế tục. Mỗi lời nói của Triết gia, mà bây giờ ngay cả (các?) Thánh và các tiên tri cũng lấy đó ra thề, đã đảo ngược hình ảnh của thế giới. Nhưng Người chưa đảo ngược hình ảnh của Chúa. Nếu quyển sách này trở nên… hay đã trở nên, đối tượng để bình giảng công khai, thì chúng ta hẳn sẽ đạp qua lằn ranh cuối cùng.
[1] Chỉ Aristotle.
[2] Chính khách và triết gia La Mã (480?-524? sau Công Nguyên).
[3] Genesis. Quyển đầu của Kinh Cựu ước.
[4] Triết gia và nhà vật lý Hồi giáo, (1126-1198). Điểm chính trong triết lý của ông là linh hồn có thể bị tiêu diệt.
- Nhưng Huynh sợ gì trong việc tranh luận về tiếng cười này? Huynh không thể loại trừ tiếng cười bằng cách loại trừ quyển sách đó được?
- Không, chắc chắn không. Nhưng tiếng cười là sự yếu đuối, sa đọa và xuẩn ngốc trong xác thịt ta. Nó là cách giải trí của nông dân, sự phóng túng của tên say rượu, ngay cả giáo hội cũng đã khôn ngoan cho phép trong dịp tiệc tùng, hội hè, chè chén được thỏa cái tật này một ngày đêm để khuây khỏa tâm trí và quên đi các đòi hỏi, dục vọng khác… Thế nhưng, tiếng cười vẫn là thứ thô tục, một vật bảo vệ cho giới bình dân, một điều bí ẩn nhất, một chất thiêng liêng cho những tên khất thực. Thánh tông đồ cũng đã nói thế này: thà kết hôn còn hơn đi thiêu, thà chống lại trật tự đã được thiết lập của Thượng đế còn hơn cười cợt, khoái trá đem trật tự đó ra làm trò cười gớm ghiếc cuối bữa ăn, lúc đã cạn chén say sưa; bầu lên vua ngốc, buông thả trong nghi lễ của bọn heo, lừa, chơi trò truy hoan chổng ngược đầu… Còn trong đây, trong đây này – Jorge đập tay lên bàn gần quyển sách thầy William đang mở ngỏ, - nhiệm vụ của tiếng cười đã được đảo ngược. Nó được nâng lên thành nghệ thuật, cánh cửa của giới học thức mở cửa đón nó, nó trở thành đối tượng nghiên cứu của triết học và nền thần học xảo trá. Hôm qua, Huynh đã thấy những kẻ phàm tục có thể dung dưỡng và thực hiện những hành động dị giáo khủng khiếp nhất như thế nào, chúng đã phản bội lời thề của Chúa và luật của tự nhiên. Nhưng giáo hội có thể dẹp yên được loạn dị giáo của bọn phàm tục, những kẻ tự tiêu diệt mình bằng sự ngu dốt của chính họ. Sự cuồng điên dốt nát của Dolcino và những loại như hắn sẽ chẳng bao giờ tạo nên cuộc khủng hoảng trong dòng đạo. Hắn quyết thuyết giảng bạo lực và sẽ chết vì bạo lực, sẽ chẳng để lại được dấu tích gì, sẽ tàn theo bữa tiệc, và nếu trong bữa tiệc đó một thế giới đảo ngược có được tạo ra trên mặt đất này một khoảnh khắc thì cũng chẳng sao. Với điều kiện hành động đó không được biến thành mưu định, với điều kiện giọng lưỡi thô tục đó không tìm được tiếng la tinh để chuyển dịch nó. Tiếng cười khiến bọn nông nô khỏi sợ Quỷ, vì trong bữa tiệc của lũ ngốc Quỷ cũng hiện ra với vẻ nghèo nàn ngốc nghếch, thế nên có thể điều khiển nó được. Nhưng quyển sách này có thể dạy rằng tự giải thoát khỏi nỗi sợ Quỷ là thông thái. Khi cất tiếng cười, với rượu ùng ục trong cổ họng, tên nông nô cảm thấy mình như một địa chủ, vì gã đã đảo ngược vị trí của mình với lãnh chúa, như quyển sách này có thể dạy và chỉ vẽ chi tiết cho những người học thức các mưu mẹo gian xảo để hợp pháp hóa sự đảo ngược đó. Khi ấy, cái mà may thay vẫn còn là hoạt động của dạ dày, sẽ được biến thành hoạt động của não. Tiếng cười thích hợp với con người là dấu hiệu cho thấy giới hạn của chúng ta, vì con người là những kẻ phạm tội. Nhưng từ quyển sách này, nhiều bộ óc sa đọa như Huynh sẽ suy ra một tam đoạn luận cực đoan, trong đó tiếng cười là cứu cánh của con người! Cười trong một lúc sẽ giúp tên dân quê xua đi nỗi sợ hãi. Nhưng luật pháp được áp đặt nhờ sự sợ hãi mà cái tên chân chính của nó chính là lòng sợ Chúa. Quyển sách này có thể nhen lên đốm lửa của quỷ Lucifer để bùng lên ngọn lửa mới thiêu đốt toàn thế giới, và tiếng cười sẽ được định nghĩa là một nghệ thuật mới để chấm dứt sợ hãi, nghệ thuật mà ngay cả Prometheus[5] cũng chẳng biết đến. Khi cười, cái chết đối với tên nông nô chẳng còn nghĩa lý gì nữa: thế nhưng theo thiên định, sau cơn phóng đãng thì nghi thức lại phải trùm lên gã nỗi sợ chết! Từ quyển sách này có thể sản sinh ra một mục tiêu hủy diệt mới, nhằm thủ tiêu cái chết bằng con đường rũ sạch sợ hãi. Và chúng ta, những sinh vật tội lỗi, sẽ ra sao đây nếu không biết sợ, nếu không giữ được cái mà có lẽ là khả năng nhìn xa trông rộng nhất, đáng yêu nhất trong các khả năng thiên bẩm? Bao thể kỷ nay các học giả và đức cha bằng suy nghĩ về những điều cao quý đã ban phát tinh hoa của nền học xứ đạo để cứu vớt sự khốn khổ và cám dỗ của cái thô tục. Còn quyển sách này - vì cho rằng hài kịch, với thể loại trào phúng và kịch câm của nó, là một loại thần dược sẽ thanh lọc mọi đam mê bằng cách đưa lên sân khấu các thói tật và yếu đuối nhẹ dạ - nó sẽ khiến các học giả giả hiệu nỗ lực cứu vớt những điều cao quý, bằng sự đảo ngược quỷ quái: chấp nhận cái thô tục. Quyển sách này có thể gieo cái ý tưởng là con người mong mặt đất sẽ có vô số miền đất Cockaigne[6]. Nhưng đó là thứ chúng ta không thể có và không được phép có. Hãy nhìn những tu sĩ trẻ đã nhục nhã đọc bản nhố nhăng nhái lại “Bữa tiệc của Cyprian”. Thật là một quyển sách quỷ quái làm biến dạng Thánh Kinh! Tuy nhiên, khi họ đọc nó, họ biết nó là tội lỗi. Nhưng ngày nào lời của Triết gia minh chứng cho các hình giễu bên lề sách của một bộ óc tưởng tượng sa đọa, hay ngày nào cái nằm bên lề nhảy vào trung tâm, thì ngày đó mọi dấu vết của trung tâm sẽ biến mất. Dân Chúa sẽ hóa thành một lũ quái vật ợ ra từ vực thẳm của vùng đất chưa biết đến, và khi đó rìa của thế giới cũ sẽ trở nên tâm của xứ đạo, Arimapsi sẽ ngồi trên ngôi của Peter, bọn người lùn bụng phệ đầu to sẽ chiếm lấy thư viện! Lũ tôi tớ sẽ đặt luật, và chúng tôi (lúc đó cả Huynh nữa) phải tuân theo, trong một tình trạng chẳng có luật lệ gì cả. Một triết gia Hy Lạp mà Aristotle của Huynh có dẫn ra ở đây, đã bảo phải dùng nụ cười để xua đi sự nghiêm trang của đối phương, và nụ cười mâu thuẫn với sự nghiêm trang. Các bậc cha ông thận trọng của chúng tôi đã chọn lựa thế này: nếu tiếng cười là niềm vui của giới bình dân, thì sự phóng túng của họ phải được kiềm chế, sỉ nhục, và đe dọa bằng sự khắc nghiệt. Và giới bình dân chẳng có vũ khí nào để trau chuốt tiếng cười của họ, cho đến khi họ biến nó thành một công cụ chống lại sự nghiêm trang của các bậc chăn chiên tinh thần, những người có sứ mệnh phải dẫn dắt họ đến đời vĩnh cửu, và cứu họ khỏi sa vào sự cám dỗ của tham, sân, si. Nhưng nếu một ngày kia có ai đó khua lên lời của Triết gia và cất tiếng như một triết gia, nâng tiếng cười lên thành một vũ khí tinh xảo, nếu nghệ thuật thuyết phục được thay bằng nghệ thuật giễu cợt – thì ôi thôi, ngày đó, ngay cả Huynh nữa William ạ, và tất cả tri thức của Huynh nữa, cũng sẽ bị cuốn sạch!
[5] Theo huyền thoại Hy Lạp, Prometheus đã trộm lửa trên trời đem xuống dạy cho con người cách sử dụng. Ông bị Zeus phạt xiềng vào một viên đá, mỗi ngày bị diều hâu đến ăn dần mòn lá gan, nhưng đến đêm nó lại hóa nguyên lành như cũ.
[6] Miền đất tưởng tượng có cuộc sống an nhàn, xa hoa.
- Tại sao? Lúc ấy tôi sẽ đấu trí với những người khác. Thế giới ấy sẽ tốt hơn thế giới trong đó lửa và những thanh sắt nung đỏ của Bernard Gui làm nhục ngọn lửa và sắt nung của Dolcino.
- Chính Huynh lúc đó cũng sẽ lọt vào âm mưu của Quỷ. Huynh sẽ chiến đấu ở phía bên kia trong trận thư hùng Armageddon, nơi diễn ra trận chiến đấu cuối cùng. Nhưng đến ngày đó thì giáo hội hẳn có đủ khả năng áp đặt một lần nữa giáo luật lên cuộc chiến. Chúng tôi không sợ những lời báng bổ, vì ngay cả trong những lời chưởi Chúa, chúng tôi cũng nhận ra được hình ảnh biến dạng của Jehovah nổi giận, người đã chửi rủa bọn thiên thần nổi loạn. Chúng tôi không sợ bạo lực của những kẻ giết người chăn chiên, nhân danh cải cách hão huyền, vì đó cũng là bạo lực của các vua chúa cố tiêu diệt dân Israel. Chúng tôi không sợ sự khắc nghiệt của bọn Donatist[7], dục vọng của bọn Bogomil, sự điên cuồng tội lỗi của những Sư huynh dòng Tinh thần tự do: Chúng tôi hiểu hết thảy họ và biết căn nguyên tội lỗi của họ, đó cũng là căn nguyên thánh thiện của chúng tôi. Chúng tôi không sợ, và trên hết, chúng ta biết cách tiêu diệt họ - hay tốt hơn nữa, biết cách để họ tự tiêu diệt mình. Thực ra, tôi phải nói là sự tồn tại của họ rất quý giá đối với chúng tôi, nó đã được ghi trong thiên định vì tội lỗi của họ nhắc chúng tôi đạo đức, lời nguyền rủa của họ cổ vũ cho những lời ngợi ca của chúng tôi, lối sống vô đạo của họ khiến sự thành kính của chúng tôi ngời sáng lên, cũng như cần có Sa tăng để Chúa vinh danh rạng rỡ hơn. Nhưng nếu một ngày kia – và không còn là một ngoại lệ trong giới bình dân, mà là điều phổ biến trong giới học thức đã tận tụy nghiên cứu những minh chứng không tiêu diệt được của Thánh kinh – nghệ thuật giễu cợt được chấp nhận, và trở nên cao quý, tự do, và không còn máy móc nữa; ngày kia có người nói (cho người khác nghe): “Tôi cười hiện thân của Chúa”, thì khi ấy chúng tôi sẽ không có vũ khí nào để chống lại lời báng bổ ấy cả, vì nó sẽ triệu về các thế lực đen tối trong thể xác vốn tụ lại trong phát rắm và hơi ợ chua và chúng sẽ đòi cái quyền mà chỉ duy nhất tinh thần mới có: quyền được xì ra nơi nào tùy thích!
[7] Một giáo phái thuộc đạo Thiên Chúa, được thành lập ở Bắc Phi thế kỷ IV sau Công nguyên.
- Lycurgus đã cho dựng một tượng ca ngợi cái cười.
- Huynh đọc điều đó trong quyển sách phỉ báng của Cloritian, người đã cố giải cho kịch câm khỏi tội vô đạo, ông kể chuyện một bệnh nhân được một bác sĩ chữa lành bệnh bằng cách giúp cho người ấy cười. Cần gì phải chữa cho hắn chứ, nếu Chúa đã định đời trần tục của hắn đã chấm dứt?
- Tôi không nghĩ bác sĩ ấy đã chữa lành cho bệnh nhân. Ông ta dạy bệnh nhân cách cười căn bệnh của mình.
- Bệnh không phải đuổi tà là hết. Nó phải được tiêu diệt.
- Cùng với cơ thể của người bệnh.
- Nếu cần thiết.
- Huynh chính là Quỷ. - Thầy William bèn nói.
Jorge dường như không hiểu. Nếu lão sáng mắt, tôi dám chắc lão phải đờ mắt ra nhìn người vừa nói. Lão hỏi:
- Tôi ư?
- Phải. Họ đã nói dối Huynh. Quỷ không phải là Sa Tăng, Quỷ chính là tinh thần kiêu hãnh, là đức tin không biết mỉm cười, là sự thật chẳng hề hoài nghi. Quỷ ác vì nó biết mình đi đâu, và cũng như Quỷ, Huynh sống trong bóng tối. Nếu Huynh muốn thuyết phục tôi thì Huynh đã thất bại. Jorge, tôi căm ghét Huynh, và nếu có thể, tôi sẽ dẫn Huynh xuống lầu, băng qua sân, trần truồng, lỗ đít cắm lông gà, mặt vẽ hề, để cả tu viện cười nhạo Huynh và chẳng còn sợ Huynh nữa. Tôi muốn trét mật khắp người Huynh rồi lăn vào đám lông, và buộc dây dắt Huynh ra chợ phiên, nói với mọi người rằng: Hắn đã công bố sự thật với quý vị và bảo sự thật có vị chết chóc, và quý vị đã tin, không phải lời hắn, mà là tính tàn nhẫn của hắn. Bây giờ, tôi xin thưa với quý vị rằng, trong cơn xoáy vô biên của những điều khả thi, Chúa cũng cho phép quý vị tưởng tượng ra một thế giới trong đó người cho mình làm sáng tỏ sự thật chẳng là cái gì khác hơn là một con quạ đen vụng về, kẻ lặp lại những lời người ta đã biết tự lâu rồi.
- Huynh còn xấu hơn Quỷ nữa, tu sĩ Khất thực à. – Jorge nói. – Huynh là một thằng hề, cũng như vị thánh đã khai sinh cho tất cả dòng Huynh vậy. Huynh giống như Thánh Francis của Huynh, người cất tiếng nói với tất các thân xác của mình[8], người giảng kinh mà trình diễn như một tên bán thuốc dạo, người làm bọn bần tiện kinh ngạc vì dúi vào tay chúng những đồng tiền vàng, khiến các nữ tu kính đạo xấu hổ vì không đọc kinh mà lại ngâm “Miserere. Xin thương xót chúng tôi”, người ăn xin bằng tiếng Pháp, người lấy một mẩu gỗ để bắt chước động tác của các nhạc công vĩ cầm, người giả dạng một tên lang thang để làm bẽ mặt các tu sĩ tham ăn tục uống, người ném mình trần truồng xuống tuyết, người nói chuyện với cỏ cây muông thú, biến cả huyền thoại của Chúa giáng sinh thành một cảnh làng, nhại tiếng cừu kêu be be để gọi con chiên xứ Bethlehem… Một trường phái hay đấy. Thầy dòng Diotisalvi xứ Florence ấy là tu sĩ Khất thực chứ?
[8] de toto corpore fecerat linguam
- Phải – thầy William mỉm cười. – Đó là người đã đến chủng viện của những người giảng đạo, và bảo sẽ không nhận thực phẩm nếu họ không đưa trước cho Người một mảnh áo của Sư huynh John để giữ làm thánh tích. Khi họ đưa mảnh áo ấy, Người bèn lấy nó chùi mông và ném vào đống phân, rồi lấy một cây gậy lăn nó quanh đống phân và la lên: “Than ôi, các Sư huynh ơi, hãy giúp tôi, tôi lỡ đánh rơi thánh tích xuống nhà xí rồi!”
- Rõ ràng câu chuyện đó làm Huynh thích thú lắm! Có lẽ Huynh cũng kể tôi nghe câu chuyện về một tu sĩ Khất thực khác là Thày dòng Paul Millemosche. Một hôm thầy nằm sõng xoài trên mặt băng, khi đồng bào của thầy chế giễu thầy và một người hỏi thầy có thích nằm trên cái gì tốt hơn không, thầy bèn đáp: “Có, vợ của ngươi…”. Đó là cách Huynh và các người anh em của Huynh tìm kiếm sự thật đấy.
- Đó là cách Thánh Francis dạy con người nhìn sự vật từ một góc độ khác.
- Nhưng chúng tôi đã buộc họ vào kỷ cương. Hôm qua Huynh đã nhìn thấy các anh em của mình đấy. Họ đã gia nhập hàng ngũ của chúng tôi và không còn nói như những người phàm tục nữa. Những người phàm tục không được phép nói. Quyển sách này sẽ biện minh cho tư tưởng ngôn ngữ của người phàm tục là phương tiện của sự thông thái. Phải ngăn chặn điều này, và tôi đã làm. Huynh bảo tôi là Quỷ, nhưng không đúng thế. Tôi là cánh tay của Chúa.
- Tay của Chúa sáng tạo, chứ không che giấu.
- Có những giới hạn không được vượt qua. Chúa ban lệnh rằng một số giấy tờ nhất định phải mang dòng chữ “đây là sư tử”.
- Chúa cũng tạo ra quái vật. Và Huynh nữa. Và Ngài muốn mọi điều đều được nói đến.
Jorge giờ đôi tay run rẩy ra kéo quyển sách về phía mình, lão mở nó ra nhưng xoay lại, để thầy William vẫn có thể thấy nó thuận chiều. Lão bảo:
- Thế tại sao Ngài lại để bản viết này lạc mất hàng bao thế kỷ, chỉ còn sót lại một bản sao duy nhất, và bản sao của cái bản viết chỉ có Chúa biết đã trôi dạt đến đâu, lại bị chôn vùi hàng nhiều năm trong tay của một tên vô thần không biết tiếng Hy Lạp, rồi bị bỏ quên chẳng ai ngó ngàng đến trong một góc bí mật của một thư viện cũ kĩ, nơi chính tôi, chứ không phải Huynh, được Thượng đế gọi phải tìm nó và giấu nó đi thêm nhiều năm nữa? Tôi biết, tôi biết như thể đã đọc được nó ghi bằng những dòng chữ sắt đá, với đôi mắt có thể nhìn thấy được những điều Huynh không thấy. Tôi biết đây là ý Chúa, và tôi đã hành động để minh giảng nó. Nhân danh Cha, và Con và Thánh thần.