Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển VIII - Chương 131 - 132

131. Giấc Mộng Hồ

(Hồ Mộng)

Tất Di Am bạn ta tính phóng túng khác người, hào hùng tự tại, mặt béo râu rậm, kẻ sĩ đều biết tiếng. Nhân vì có việc tới ở nhà riêng ông chú làm Thứ sử, nghỉ ngơi trên lầu, nghe đồn trong lầu có nhiều hồ. Tất mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng* thường tỏ lòng hâm mộ, hận không được một lần gặp gỡ. Nhân ở trên lầu cứ mong mỏi tơ tưởng, kế về phòng thì trời đã tối, lúc ấy đang tháng hè nóng bức bèn nằm ngủ ngay giữa cửa. Đang ngủ thì có người lay gọi, tỉnh dậy nhìn thì thấy một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi nhưng vẫn còn phong vận. Tất giật mình trỗi dậy hỏi là ai, người đàn bà cười nói: “Ta là hồ, được chàng có lòng mơ ước, thầm cảm lòng mà tới”. Tất nghe thấy mừng rỡ, buông lời đùa cợt ve vãn, người đàn bà cười nói: “Thiếp già rồi, nếu người ta không ghét bỏ thì tự mình cũng thấy hổ thẹn. Có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể hầu khăn lược, đêm mai xin ông ở đây một mình, nó sẽ tới”, dứt lời ra đi.

*Truyện Thanh Phượng: xem truyện Thanh Phượng, quyển I.

Tối hôm sau Tất đốt hương ngồi chờ, quả nhiên người đàn bà dắt con gái tới, thấy phong thái xinh đẹp, trên đời không hai. Người đàn bà dặn con gái: “Tất lang có túc duyên với con, cứ ở lại đây, sáng mai phải về sớm, đừng ngủ quên đấy”. Tất kéo tay nàng vào màn, cùng nhau vui thú, xong rồi nàng cười nói: “Chàng béo vừa nặng vừa ngốc, làm người ta không sao chịu nổi”. Chưa sáng nàng đã ra đi, chập tối lại tới, nói: “Bọn chị em định mở tiệc chúc mừng tân lang, ngày mai xin chàng cùng đi”. Tất hỏi ở đâu, nàng đáp: “Chị cả đứng ra mời, cách đây cũng không xa”. Đêm sau Tất ngồi đợi lâu quá không thấy nàng tới, dần dần mỏi mệt nằm gục xuống bàn. Chợt cô gái bước vào nói: “Làm phiền chàng phải đợi lâu”, rồi cầm tay Tất dẫn đi.

Tới một nơi nhà cao cửa rộng, đi thẳng vào sảnh đường thì thấy đèn đuốc giăng giăng nhiều như sao trời. Giây lát chủ nhân bước ra, thấy tuổi khoảng hai mươi, trang điểm sơ sài nhưng vô cùng xinh đẹp, khép nép chúc mừng mới. Sắp vào tiệc thì tỳ nữ vào báo: “Cô Hai tới”, kế thấy một nữ lang vào, khoảng mười tám mười chín tuổi, nhìn cô gái cười nói: “Em gái thế là biết mùi tình rồi, có vừa lòng không chàng rể mới không”. Cô gái cầm quạt đập vào lưng chị, trợn mắt nhìn, nàng Hai nói: “Nhớ lại lúc nhỏ đùa vật lộn với em, em sợ bị cù vào mạng sườn, chị mới giơ ngón tay quát nạt từ xa là đã cười bò ra, kế giận ta, nói sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt, ta nói con nhãi sau này sẽ lấy phải anh chàng rậm râu đâm cho nát môi ra, nay quả đúng thế”. Nàng Cả cười nói: “Chẳng trách dì Ba lại giận dỗi, rể mới đang ở đây mà ăn nói bừa bãi như thế”.

Kế đó cùng nhau vào tiệc, uống rượu cười nói rất vui vẻ. Chợt một cô gái nhỏ bế một con mèo tới, khoảng mười một mười hai tuổi, tóc còn chưa kết bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ xinh đẹp. Nàng Cả nói: “Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể à? Nhưng ở đây hết chỗ rồi”, rồi bế cô nhỏ đặt ngồi lên đùi lấy bánh trái cho ăn. Lát sau lại bế đặt vào lòng nàng Hai, nói: “Nó đè lên đùi ta nặng quá”. Nàng Hai nói: “Con nhãi to xác nặng hàng trăm cân, ta ốm yếu làm sao chịu nổi. Đã muốn xem mặt anh rể, thì anh rể vốn to lớn, đùi to dễ ngồi lắm”, rồi bế xốc em đặt vào lòng Tất, Tất thấy người cô nhỏ thơm tho mềm mại mà nhẹ như không, bèn ôm lấy cho uống rượu cùng chén với mình. Nàng Cả nói: “Con nhãi đừng quá chén, say rồi thất thố thì anh rể cười cho đấy!”. Cô nhỏ nhoẻn miệng cười, lấy tay chọc mèo cho nó kêu lên. Nàng Cả nói: “Còn không vứt đi, cứ ôm lấy nó cho lây bọ chét”. Nàng Hai nói: “Xin lấy con mèo làm tửu lệnh, mọi người cứ cầm đũa chuyền cho nhau, tới ai mà mèo kêu thì người ấy phải uống”, mọi người theo lời. Cứ đũa tới tay Tất là mèo lại kêu, Tất vốn uống rượu rất hào, uống liền mấy chén lớn mới biết cứ đũa tới mình là cô nhỏ lại véo mèo cho kêu lên.

Mọi người cười ầm, nàng Hai nói: “Thôi em đi ngủ đi, ngồi tê cả chân ông anh, không khéo chị Ba lại phiền”, cô gái nhỏ bèn bế mèo đi ra. Nàng Cả thấy Tất tửu lượng cao liền gỡ cái độn tóc rót rượu mời, Tất nhìn thấy cái độn chỉ khoảng một thăng nhưng khi uống thì thấy rượu nhiều như mấy đấu, uống cạn nhìn lại thì hóa ra là tàu lá sen. Nàng Hai cũng muốn mời, Tất chối từ nói không uống nổi nữa, nàng bèn lấy ra cái hộp đựng nhẫn nhỏ như viên đạn rót rượu vào nói: “Nếu không uống được nhiều thì xin uống một chút cho ta vui”. Tất nhìn thấy nghĩ chỉ một hớp là hết, nhưng uống liên tiếp hàng trăm hớp vẫn không cạn. Cô gái ngồi cạnh bèn lấy cái chén hạt sen thay cái hộp đựng nhẫn, nói: “Đừng để kẻ gian lừa gạt”, đặt cái hộp lên bàn thì là một cái tô lớn. Nàng Hai nói: “Việc gì đến ngươi? Vợ chồng mới ba ngày mà yêu thương đến thế kia à?”. Tất cầm lấy cái chén đua lên miệng dốc cạn, chợt thấy vật trong tay mềm mềm, nhìn kỹ thì không phải là chén mà là một chiếc giày thêu, đường kim mũi chỉ cục kỳ khéo léo. Nàng Hai vội giật lấy, mắng: “Con nhãi đánh cắp giày người ta lúc nào thế? Chẳng trách gì chân ta cứ lạnh toát”, rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày. Cô gái mời rượu khắp lượt rồi đứng lên từ biệt, tiễn Tất ra tới ngoài thôn, bảo cứ về một mình. Tất chợt tỉnh thì ra là giấc mộng, nhưng thấy trong miệng vẫn còn mùi rượu thơm phức, lấy làm lạ lùng.

Đến tối cô gái tới, nói: “Đêm qua say rượu chưa chết à?” Tất nói vẫn đang ngờ là giấc mộng. Nàng nói: “Các chị em sợ chàng say sưa ngông cuồng nên thác vào giấc mộng đấy, chứ thật ra không phải mộng đâu!”. Cô gái cùng Tất đánh cờ, Tất thường thua, nàng cười nói: “Chàng hàng ngày vẫn nghiện môn này, thiếp cứ nghĩ là giỏi lắm, nay xem ra cũng chỉ thường thường vậy thôi”. Tất xin chỉ dạy cho, cô gái nói: “Thuật chơi cờ là do người chơi tự lĩnh hội mà ngộ, thiếp làm sao giúp chàng được cứ mỗi ngày nghiền ngẫm thêm một ít thì may ra có thể khá lên”. Qua vài tháng, Tất thấy đánh cờ hơi lên tay, cô gái đánh thử rồi cười nói: “Còn chưa được, còn chưa được?”. Tất ra ngoài chơi với các bạn cờ thì ai cũng thấy giỏi hơn hẳn, có người lấy làm lạ. Tất vốn tính ngay thẳng thành thật không quen giấu giếm bèn nói lộ ra, cô gái biết ngay, trách: “Chẳng lạ gì bạn bè không chơi với gã cuồng sinh, đã dặn đi dặn lại là phải kín miệng, sao chàng còn làm như thế rồi giận dỗi bỏ đi. Tất xin lỗi mãi nàng mới hơi nguôi, nhưng từ đó tới ngủ lại thưa hơn trước.

Được hơn một năm, một đêm nàng tới ngồi im nhìn Tất, rủ đánh cờ thì không đánh, bảo đi ngủ cũng không ôi, buồn rầu hồi lâu rồi nói: “Chàng xem thiếp với Thanh Phượng ai hơn?”, Tất đáp: “Nàng hơn nhiều chứ!”. Cô gái nói: “Thiếp tự thẹn là không bằng, nhưng ông Liêu Trai là bạn văn chương với chàng, nhờ chàng phiền ông viết cho một thiên tiểu truyện, chưa chắc sau ngàn năm đã không có người mong mỏi như chàng”. Tất nói: “Ta vốn có ý ấy, nhưng vì nhớ lời nàng dặn nên còn giữ kín”. Cô gái nói: “Đúng là trước kia thiếp có dặn thế thật, nhưng nay đã sắp chia tay, còn e ngại gì nữa”. Tất hỏi đi đâu, nàng đáp: “Thiếp và em Tư được Tây Vương Mẫu triệu làm Hoa điểu sứ, không thể tới đây được nữa”. Tất xin dặn dò vài lời, nàng nói: “Bỏ tức giận thì bớt lỗi lầm”, rồi đứng lên cầm tay Tất nói: “Chàng tiễn thiếp một đoạn”. Đi khoảng một dặm thì nhỏ lệ chia tay, nàng nói: “Hai ta có lòng, biết đâu sẽ có ngày gặp lại”, rồi đi.

Ngày mười chín tháng chạp năm Khang Hy thứ 21 (1682), ông Tất cùng ta nằm gác chân lên nhau trò chuyện ở Xước Nhiên Đường, kể lại tỉ mỉ chuyện lạ này. Ta nói: “Có hồ như thế thì bút mục Liêu Trai cũng được vẻ vang”, bèn ghi chép lại.

132. Chương A Đoan

(Chương A Đoan)

Thích sinh người huyện Vệ Huy (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ đã chín thắn, gan dạ dám nhận việc lớn. Lúc ấy có nhà đại tộc có tòa phủ đệ, giữa ban ngày thấy ma hiện hình, người nhà nối nhau chết nên xin bán rẻ. Sinh thấy rẽ bèn mua để ở, nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành tạm bỏ hoang, tôi tớ cứ đêm đêm la hoảng, kêu là có ma. Hơn hai tháng thì một người tỳ nữ chết, không bao lâu thì vợ sinh đang lúc chiều tối tới khu lầu gác hoang phế, về phát bệnh vài hôm cũng chết. Gia nhân càng sợ khuyên dời đi chỗ khác, sinh không nghe, nhưng góa vợ trơ trọi một mình, trong lòng đã buồn rầu, bọn tôi tớ lại cứ đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói. Sinh nói giận hầm hầm mang chăn gối ra ngủ một mình trong ngôi đình bỏ hoang, để đèn chờ xem sự lạ nhưng hồi lâu không thấy gì, dần dần thiếp đi.

Bỗng có người thò tay vào chăn sờ soạng vuốt ve, sinh tỉnh dậy nhìn thì là một người tỳ nữ già mặt mày nhăn nheo đầu tóc rối bù trông rất ghê tởm. Sinh biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra cười nói: “Tôn giá thì ta không thể vâng mệnh”. Bà ta hổ thẹn rút tay lại, thất thểu bỏ đi. Giây lát một nữ lang từ phía tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, sấn tới trước đèn giận dữ mắng gã học trò ngông ở đâu dám tới đây nằm, sinh trỗi dậy cười nói: “Tiểu sinh là chủ nhà này, đợi nàng để đòi tiền phòng thôi”, rồi vùng dậy trần truồng đuổi bắt. Cô gái vội bỏ chạy, sinh chạy tới phía tây bắc trước chặn đường, nàng cùng đường ngồi luôn xuống giường. Sinh tới gần, dưới ánh đèn thấy nàng đẹp như tiên bèn ôm vào lòng. Cô gái cười nói: “Gã học trò ngông không sợ ma ư? Ta sẽ vật chết đấy”. Sinh cởi tuột áo quần ra, nàng cũng không chống cự lắm, xong rồi bèn nói: “Thiếp họ Chương tên A Đoan, lấy phải thằng chồng lêu lổng, tính hung ác bất nhân cứ chửi mắng đánh đập nên phẫn uất chết yểu, chôn ở đây hơn hai mươi năm rồi. Dưới nền nhà này toàn là mồ mả”.

Sinh hỏi người tỳ nữ già là ai, nàng đáp: “Cũng là một con ma cũ ở đây, hầu hạ cho thiếp. Có người sống ở bên trên thì ma quỷ bên dưới không yên nên mới rồi sai mụ ra đuổi chàng đi”. Sinh hỏi mụ sờ soạng để làm gì, nàng cười đáp: “Mụ ta đã ba mươi năm nay chưa được gần gũi đàn ông, kể cũng đáng thương, nhưng thật không tự biết xét mình. Đại khái ai yếu bóng vía thì ma càng quấy phá, ai cứng cỏi thì ma không dám xúc phạm”. Nghe chuông chùa xóm bên dứt tiếng, nàng mặc quần áo bước xuống giường nói: “Nếu chàng không nghi ngờ, thì đêm thiếp sẽ lại tới”. Trời tối, quả thật nàng lại tới, cùng nhau mây mưa rất hoan lạc. Sinh nói: “Vợ ta chẳng may qua đời, ta thương xót không khuây, nàng có thể đưa giúp về đây được không?”. Cô gái nghe thế càng thêm ngậm ngùi, nói: “Thiếp chết hai mươi năm mà không có ai nghĩ nhớ tới một lần, chàng quả là người đa tình, thiếp xin cố hết sức. Nhưng nghe nói nương tử đã có chỗ đầu thai rồi, không biết còn ở dưới âm ty không”.

Qua đêm sau nàng nói với sinh rằng: “Nương tử sắp được đầu thai vào nhà giàu sang nhưng vì lúc còn sống vì mất đôi hoa tai mà đánh đập đứa tỳ nữ khiến nó treo cổ tự tử, còn kiện tụng chưa xong nên chưa đi, nay đang tạm ở lại chỗ Dược Vương, có người canh giữ. Thiếp sai mụ tỳ nữ đi lo lót, có khi sắp về tới”. Sinh hỏi sao nàng lại được thong thả, cô gái đáp: “phàm ma quỷ chết oan nếu không tự tới khai báo thì Diêm Vương không sao biết được”. Vừa hết canh hai thì người tỳ nữ già đưa vợ sinh về, sinh nắm tay vợ đau xót khóc lóc, vợ cũng rơi lệ không nói được gì. Cô gái từ giã, nói: “Hai người cứ nói chuyện với nhau, đêm khác sẽ gặp lại”. Sinh an ủi hỏi thăm việc đứa tỳ nữ tự tử, vợ đáp: “Không hề gì, đã xử xong rồi”, rồi lên giường ôm ấp yêu đương như lúc còn sống, từ đó lại ăn ở với nhau như thường. Năm ngày sau, vợ sinh chợt khóc nói: “Ngày mai thiếp phải đi Sơn Đông, đến lúc vĩnh quyết rồi, biết làm thế nào?”. Sinh nghe nói rơi lệ sụt sùi, vô cùng đau đớn. Cô gái khuyên nói: “Thiếp có một cách có thể giúp hai người tạm thời sum họp”. Hai người cùng gạt lệ hỏi cách gì, nàng xin lấy mười xấp giấy tiền đem đốt ở dưới gốc cây hạnh trước gian nhà phía nam để hối lộ với người áp giải đi đầu thai xin hoãn lại ít lâu.

Sinh theo lời, đến tối thì vợ về nói: “May nhờ có Đoan nương nên nay được sum vầy thêm mười hôm”, sinh mừng rỡ không cho Đoan về mà giữ lại cùng nằm chung giường từ đêm đến sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng tàn. Qua bảy tám ngày, thấy kỳ hạn sắp hết, vợ chồng khóc lóc suốt đêm, hỏi cô gái có kế gì không. Nàng nói: “Tình thế này khó mà làm như lần trước, nhưng muốn thử thì không có trăm vạn không được”, sinh bèn đốt đủ số. Hôm sau cô gái tới mừng rỡ nói: “Thiếp nhờ người nói với kẻ áp giải, lúc đầu y ra vẻ khó khăn, đến khi thấy có nhiều tiền mới xiêu lòng, giờ đã lấy con ma khác đi đầu thai thay nương tử rồi”. Từ đó ban ngày cũng không về, bảo sinh đóng kín cửa, thắp đèn không lúc nào tắt. Cứ thế hơn một năm, chợt cô gái mắc bệnh, thẫn thờ buồn bã, hoảng hốt như thấy ma. Vợ sinh vỗ về nàng, nói: “Đây là bệnh ma làm”, sinh hỏi: “Đoan nương đã là ma rồi, lại còn ma nào làm cho bệnh nữa?”. Vợ sinh đáp,: “Không phải, người chết thành ma, ma chết thành mị, ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy”.

Sinh muốn mời thầy cúng, vợ nói: “Bệnh của ma thì làm sao người chữa được? Bà Vương ở thôn bên đang làm thầy cúng dưới âm ty, có thể gọi tới. Nhưng từ đây tới đó đường xa mười dặm, mà thiếp chân yếu không đi bộ được, xin chàng đốt cho con ngựa giấy”. Sinh theo lời, ngựa giấy vừa cháy tàn thì tỳ nữ dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân đưa dây cương cho vợ sinh, trong chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một bà già cưỡi chung ngựa tới, buộc vào cột hiên. Bà già vào ngồi xuống, lắc lư lên đồng, ngã lăn xuống đất một lúc rồi bò dậy nói: “Ta là Hắc Sơn đại vương đây, nương tử đây bệnh nặng lắm, may mà gặp tiểu thần, phúc trạch không kém đâu. Bệnh này là bị ma làm nhưng không sao không sao, muốn khỏi phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào”, vợ sinh răm rắp vâng dạ.

Bà ta lại ngã xuống đất rồi tỉnh lại, nhìn vào người bệnh quát tháo rồi thôi. Kế xin về, vợ sinh tiễn ra tới sân, tặng luôn cho con ngựa, bà ta vui vẻ ra về. Vào nhìn thấy cô gái như hơi tỉnh táo, vợ chồng cả mừng vỗ về hỏi han, nàng chợt nói: “Thiếp sợ không trở về nhân gian được nữa, cứ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện ra, cũng là số mệnh vậy”, rồi khóc sướt mướt. Qua đêm sau bệnh nàng càng nặng, co quắp run rẩy như thấy vật gì, cứ kéo sinh lên nằm chung, rúc đầu vào lòng sinh như sợ bị bắt đi, sinh đứng lên đi đâu thì kinh hoảng kêu la, cứ thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng không biết tính sao. Gặp hôm sinh đi vắng nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ khóc hoảng hốt vào hỏi thì Đoan nương đã chết trên giường, xác vẫn còn đó. Sinh giở chăn nhìn thấy xương trắng phau phau, thương xót gào khóc, đem tống táng như người, chôn cạnh mồ mả ông bà. Một đêm vợ sinh nằm mơ khóc thổn thức, sinh lay gọi hỏi chuyện gì thì đáp: “Vừa rồi mộng thấy Đoan nương tới nói chồng nàng làm mị giận nàng chết rồi mà không giữ tiết nên tới đòi mạng, xin lập đạo tràng siêu độ cho”. Sinh đậy sớm định làm theo lời, vợ ngăn lại nói: “Việc siêu độ cho ma chết thì chàng không làm được đâu”, rồi trở dậy đi, giây lát trở về nói: “Ta đã sai người đi mời sư, phải đốt tiền trước cho họ làm lộ phí”.

Sinh theo lời, mặt trời vừa lặn thì tăng chúng kéo cả tới, trống chiêng nạo bạt đều giống hệt như ở trần gian, vợ cứ nói ồn ào điếc cả tai nhưng sinh không nghe thấy gì cả. Cúng xong, vợ sinh lại nằm mơ thấy Đoan nương về tạ ơn, nói: “Thù oán đã rửa sạch rồi, sắp đi thác sinh làm con gái Thành hoàng, nhờ nói lại cho chàng Thích biết”. Vợ sinh về nhà ba năm, gia nhân lúc đầu nghe biết rất sợ, lâu ngày dần quen, sinh đi đâu vắng thì đứng ngoài cửa sổ thưa bẩm việc nhà. Một đêm, nàng nhìn sinh khóc nói: “Người lính áp giải vong hồn đi đầu thai trước đây đã để lộ việc man trá, nay âm ty lùng bắt thiếp rất gấp, e không thể sum họp lâu nữa”. Mấy hôm sau quả nhiên bị bệnh, nói: “Vì nặng tình chàng nên chỉ muốn chết mãi chứ không thích được thác sinh, nhưng nay sắp phải vĩnh biệt, chắc cũng là số chăng?”. Sinh lo sợ hỏi có cách nào thoát không, nàng nói: “Chuyện này thì không có cách gì đâu”. Sinh hỏi liệu có bị trừng phạt gì không, vợ đáp: “Cũng bị trừng phạt qua loa, tham sống mới là tội to chứ tham chết chỉ là tội nhỏ”. Nói xong nằm yên không động đậy, nhìn kỹ thì dung mạo thân thể dần dần biến mất. Sinh cứ ra ngủ một mình trong đình để chờ có ngày gặp lại, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm, từ đó gia nhân ở yên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3