Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển X - Chương 181 - 182 - 183 - 184 - 185 - 186 - 187 - 189 - 190
181. Cố sinh
Cố sinh người Giang Nam, làm khách ở huyện Tắc Hạ (tỉnh Sơn Đông) bị đau mắt, ngày đêm rên rỉ, không thuốc men nào chữa được. Hơn mười hôm thì đỡ đau, nhưng cứ nhắm mắt lại là thấy một tòa phủ đệ lớn, bốn năm lần tới chỉ thấy cổng khép hờ, sâu bên trong có người qua lại nhưng nhìn từ xa không thấy rõ gì cả. Một hôm đang chăm chú nhìn ngó chợt thấy mình đã lọt vào bên trong, qua ba lần cửa vẫn không gặp một ai. Có tòa sảnh đường lớn dưới trải thảm lông màu đỏ, nhìn vào thấy bên trong toàn là trẻ con, đứa thì ngồi, đứa thì đứng, đứa thì bò, không biết bao nhiêu mà kể. Đang khi ngạc nhiên thì một người từ nhà trong đi ra nhìn sinh nói: “Tiểu vương tử vừa nói có khách xa tới, quả đúng,” rồi mời vào.
Cố ngần ngại không dám, người ấy ép mãi mới vào. Hỏi đây là đâu, người ấy đáp: “Phủ đệ của vương thế tử thứ chín, thế tử bị sốt rét mới khỏi, hôm nay tân khách tới mừng, tiên sinh thật là có duyên,” chưa dứt lời lại có người từ trong chạy ra giục vào mau. Phút chốc tới một nơi đình đài chạm trổ, lan can sơn son, có một ngôi điện quay mặt về hướng bắc, thềm gồm chín bậc, lên tới nơi thì khách đã đông đủ. Thấy một thiếu niên ngồi ngoảnh mặt về phía bắc, Cố biết là vương tử bèn sụp lạy, khách khứa đều đứng cả dậy, vương tử kéo Cố vào dãy bàn phía đông. Uống được vài chén thì đàn sáo trỗi lên, các ca kỹ lên thềm diễn vở Hoa Phong chúc[1].
[1] Hoa Phong chúc: sử chép có người đất Hoa Phong tới chúc thọ vua Nghiêu, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc thọ vương tử.
Mới được ba màn thì chủ quán trọ và đầy tớ đưa cơm trưa vào, tới đầu giường gọi, Cố nghe thấy rất rõ ràng, sợ vương tử biết song chẳng ai nghe thấy cả. Bèn nói thác là thay áo bước ra, ngước nhìn thì mặt trời đã xế, thấy đầy tớ đứng ngay đầu giường mới sực hiểu là chưa từng rời khỏi quán trọ. Lòng áy náy muốn quay lại ngay, bèn bảo người đầy tớ đóng cửa ra ngoài. Vừa nhắm mắt lại thì thấy cung điện nhà cửa như cũ, vội vàng theo đường cũ trở vào, tới chỗ đám trẻ con lúc nãy thì không thấy đứa nào nữa mà chỉ có vài mươi người tóc rối lưng gù nằm ngồi bên trong, thấy Cố cùng cất tiếng chửi mắng: “Đồ vô lại ở đâu vào đây nhòm ngó thế.” Cố hoảng sợ không dám phân trần, rảo bước ra phía sau, lên điện ngồi lại chỗ cũ, thấy trên cằm vương tử đã mọc thêm bộ râu. Vương tử cười hỏi đi đâu, tuồng đã diễn tới màn bảy rồi, rồi lấy chén lớn ra phạt.
Giây lát diễn xong, đám ca kỹ lại trình danh sách các vở tuồng lên, Cố chấm vở Bành Tổ lấy vợ[2]. Bọn ca kỹ lập tức lấy chén gáo dừa dâng rượu, phải tới năm đấu. Cố rời chiếu từ tạ, nói thần bị đau mắt, không dám uống say. Vương tử nói: “Ông đau mắt thì có quan Thái y ở đây, cứ nhờ khám cho.” Trong dãy bàn phía đông lập tức có một người bước tới lấy hai ngón tay vạch mí mắt Cố ra, rồi lấy trâm ngọc chấm thuốc mỡ trắng tra vào, bảo nhắm mắt ngủ một lúc. Vương tử sai tiểu đồng dắt Cố vào phòng trong bảo nằm, thấy chăn nệm êm ấm thơm tho nên ngủ quên luôn. Không bao lâu chợt nghe tiếng chiêng khua ran, giật mình tỉnh dậy, ngờ là bên ngoài còn đang diễn tuồng, mở mắt nhìn thì ra là con chó trong quán trọ đang liếm dầu trong chảo, mà mắt dường như đã khỏi đau hẳn. Vội nhắm mắt lại nhưng không thấy gì nữa cả.
[2] Bành Tổ cưới vợ: Sử ký của Tư Mã Thiên chép Bành Tổ thọ tám trăm tuổi, sống qua ba đời vua, cưới bốn mươi chín người vợ, có năm mươi bốn con trai, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc tụng vương tử sống lâu, có nhiều con nối dõi.
182. Chu Khắc Xương
Cống sĩ ở đất Hoài Thượng là Chu Thuận Nghĩa tuổi đã năm mươi chỉ sinh được một con trai tên Khắc Xương, rất yêu thương. Năm Xương mười ba mười bốn tuổi, phong tư rất đẹp đẽ nhưng không thích học hành, thường trốn học đi chơi với bọn trẻ con, có khi cả ngày không về, Chu cũng biết. Một hôm đã tối mịt vẫn chưa thấy về, vội đi tìm thì không thấy đâu, vợ chồng kêu khóc cơ hồ không muốn sống nữa. Hơn một năm Xương chợt tự về, nói là bị người đạo sĩ bỏ thuốc mê bắt đi, may mà không làm hại, nhân lúc ông ta đi vắng bèn trốn về. Chu mừng quá cũng chẳng hỏi han gì nhiều, đến khi dạy cho học thì Xương còn thông minh gấp đôi ngày trước. Qua năm sau, Xương học hành càng tấn tới, kế thi đỗ vào trường phủ, tiếng tăm lừng lẫy, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho nhưng Xương không muốn lấy vợ. Có con gái Tiến sĩ họ Triệu có sắc đẹp, Chu ép con cưới về, nàng ấy về rồi thì vợ chồng cười nói với nhau rất vui vẻ, nhưng Xương vẫn ngủ một mình.
Hơn năm sau, Xương thi hương đậu Cử nhân, Chu càng thỏa dạ, nhưng tuổi ngày càng lớn càng mong có cháu nội để bế nên thường nói móc để chọc ghẹo Xương, nhưng Xương vẫn lờ đi như không hiểu. Bà mẹ thì không nhịn được, cứ sớm tối ngầy ngà, Xương biến sắc bỏ ra, nói: “Ta đã muốn bỏ đi lâu rồi, nhưng chưa đi ngay vì nhớ tới ơn cha mẹ chăm sóc nuôi nấng thôi. Chứ thật ta không sao lấy vợ sinh con để thỏa ý cha mẹ đâu. Bây giờ thì xin đi, còn nàng ta xin tùy ý, muốn về nhà thì về.” Bà mẹ đuổi theo kéo lại thì Xương đã ngã xuống, chỉ còn mũ áo không như xác ve lột, cả sợ ngờ là Xương đã chết, đó chỉ là hồn ma trở về, đành ngậm ngùi đau xót mà thôi. Hôm sau, chợt Xương cưỡi ngựa dắt đầy tớ trở về, cả nhà khiếp sợ, tới gần hỏi han thì nói là bị người ác bắt đi bán cho nhà phú thương, phú thương không có con nên coi như con đẻ. Sau khi có Xương chợt sinh được một con trai, thấy Xương nhớ nhà nên cho đưa về.
Hỏi tới chữ nghĩa thì vẫn ngu độn như trước, mới biết đây đúng là Xương, còn người vào trường phủ đỗ thi hương chỉ là ma giả làm Xương mà thôi. Nhưng trộm mừng là việc chưa bị tiết lộ, bèn bảo Xương nhận luôn danh hiệu Cử nhân. Vào phòng ngủ thì vợ mơn trớn đùa cợt như rất quen thuộc, mà Xương thì thẹn thò như mới cưới vậy, hơn năm thì sinh được một con trai.
Dị Sử thị nói: Người xưa nói hạng người tầm thường có phúc thì trong khoảng mũi miệng mắt mày khí sắc đều tầm thường, nhưng về sau phúc tới thì tinh quang rực rỡ, ma quỷ gì cũng phải bỏ đi. Đây thì vẻ tầm thường còn đó mà Cử nhân không thi cũng đỗ, vợ đẹp không cưới cũng có, huống hồ kẻ hơi có học hành, cố gắng thêm một chút sao!
183. Thần ở hồ Phiên Dương[1]
[1] Phiên Dương thần.
Hoắc Trạm Trì làm Tư lý huyện Nhiêu Châu (tỉnh Giang Tây), đi ngang hồ Phiên Dương, thấy trên hồ có đền thờ thần, dừng lại vào viếng. Trong đền có pho tượng Đinh Tấn Lang bằng gỗ mà nhà họ Hoắc vẫn cho là một vị thần đặt ở sau cùng. Hoắc nói: “Đây là bậc tôn quý trong họ ta, sao lại đặt ở sau cùng?” bèn đưa lên ngôi vị phía trên. Kế lên thuyền đi, gặp trận gió lớn thổi gãy cột buồm, thuyền bị đắm, cả nhà kêu khóc. Chợt có một chiếc thuyền nhỏ lướt sóng tới, vòng cạnh thuyền quan kéo nhanh Hoắc lên, kế người nhà đều cùng leo lên, thấy người kia giống hệt vị thần của nhà họ Hoắc. Không bao lâu sóng lặng, nhìn lại thì người ấy đã biến mất.
184. Tiền chảy[1]
[1] Tiền lưu.
Lưu Tông Ngọc người huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông), có đầy tớ là Đỗ Hòa ngẫu nhiên đi trong vườn, thấy tiền chảy như dòng nước, sâu rộng hai ba thước. Đỗ vừa sợ vừa mừng, lấy tay vốc một vốc, rồi nằm đè lên trên. Khi cúi xuống lần nữa thì dòng tiền đã biến mất, nhưng vốc tiền trong tay vẫn còn.
185. Mắt Dương sẹo[1]
[1] Dương ba nhãn.
Một người thợ săn đêm vào trong núi, thấy một người lùn cao khoảng hai thước nhảy nhót đi dưới khe. Lúc sau lại một người nữa tới, cũng cao như thế, gặp nhau cùng trò chuyện, hỏi nhau đi đâu. Người tới trước nói: “Ta định đi xem mắt Dương sẹo, lần trước gặp thấy khí sắc tối tăm, dữ nhiều lành ít.” Người tới sau nói: “Ta cũng nghĩ thế, ngươi nói không sai.” Người thợ săn biết không phải là người bèn quát lớn, hai người lập tức biến mất. Đêm ấy săn được một con chồn, mắt bên trái có một cái sẹo lớn, to bằng đồng tiền.
186. Rồng giả nhện[1]
[1] Long hý thù.
Từ công làm Huyện lệnh Tế Đông (tỉnh Sơn Đông), trong công thự có ngôi lầu, dùng để chứa thức ăn, liên tiếp bị ăn vụng, vung vãi cả ra trên đất, bọn gia nhân nhiều lần bị quở trách, bèn rình bắt. Thấy một con nhện to bằng cái đấu, sợ hãi chạy đi báo với ông, ông lấy làm lạ, bèn sai bọn thị tỳ hàng ngày vứt mồi cho ăn. Con nhện quen dần, lúc đói thì ra tìm người, ăn no thì bỏ đi. Hơn mấy năm, ông ngẫu nhiên đang duyệt văn án, con nhện chợt đến nằm mọp dưới bàn. Ông cho rằng nó đói, vừa mới sai người nhà mang mồi cho ăn, đã thấy hai con rắn nhỏ bằng chiếc đũa nằm cạnh con nhện, con nhện co chân rút bụng, dáng vẻ rất sợ hãi. Trong chớp mắt rắn to ra bằng quả trứng, ông sợ hãi bỏ chạy. Chợt một tiếng sấm lớn vang lên, cửa nẻo đổ sập, ông ngất đi, phu nhân và tôi tớ hoảng sợ chết mất bảy người, ông cũng bệnh hơn tháng thì chết. Ông là người liêm chính thương dân, ngày chôn cất, nhân dân tới phúng điếu khóc than đầy đường.
Dị Sử thị nói: Rồng giả làm nhện, thường nghĩ rằng là lời đồn đại ngoa truyền trong dân gian, chẳng lẽ lại có thật sao? Nghe nói sấm sét nổ vang là để đánh kẻ hung dữ, sao lại đánh vào người làm quan thanh liêm, thảm độc tới mức ấy, trời kia sao quá huyền bí như thế?
187. Sai khiến ma quỷ[1]
[1] Dịch quỷ.
Thầy thuốc họ Dương ở Sơn Tây giỏi thuật châm cứu, lại có thể sai khiến ma quỷ, mỗi lần ra khỏi nhà thì cưỡi lừa cầm roi, đều là ma quỷ. Một đêm cùng bạn đi từ nơi khác về, trên đường gặp hai người to lớn dị thường, bạn cả kinh. Dương hỏi ai, hai người nói là Vương chân dài, Lý đầu to ra đón chủ nhân. Dương nói: “Đi lên trước dẫn đường!” Hai người cung cúc đi lên trước, Dương đi chậm thì đứng lại chờ, như là nô lệ vậy.
188. Nguyên lão ba triều[1]
[1] Tam triều nguyên lão.
I
Quan Tể tướng nọ vốn làm quan triều Minh, từng hàng giặc, sĩ phu đều chê cười. Lúc già về nhà, dựng miếu thờ tổ tiên, có mấy người ghé vào ngủ đêm ở đó. Sáng ra, thấy trong miếu có một tấm biển đề “Nguyên lão ba triều” và một đôi câu đối viết: “Một hai ba bốn năm sáu bảy, Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm”, không biết treo lúc nào, lấy làm lạ nhưng không hiểu ý nghĩa. Có người đoán rằng: “Vế đầu ngầm ý là Vương Bát. vế sau ngầm nói là vô sỉ”[2], có lẽ đúng thế.
[2] Vế đầu vô sỉ: Ở đây có chỗ chơi chữ, vì vế đầu chỉ đếm tới số bảy, vế sau còn thiếu chữ “sỉ” (Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm sỉ). Vương Bát nguyên văn là “vong bát”, nhưng trong Hán ngữ chữ “vong” (quên) được coi là đồng âm với chữ “vương” (họ Vương). Người Trung Quốc xưa hay dùng từ Vương Bát với ý nghĩa như quân khốn khiếp.
II
Quan Kinh lược họ Hồng đánh phương nam khải hoàn, về ngang Kim Lăng, lập đàn tế tướng sĩ chết trận. Có người môn nhân cũ tới yết kiến, lạy xong xin trình bài văn tế. Hồng vốn ghét văn chương, lấy cớ mắt kém từ chối. Người ấy nói vậy xin cảm phiền cố nghe cho ta được đọc qua một lượt. Rồi rút bài văn tế trong tay áo ra cất giọng sang sảng đọc lớn, thì ra là bài văn của vua Sùng Trinh triều Minh cũ ngự chế tế Kinh lược họ Hồng[3]. Đọc xong khóc lớn bỏ đi.
[3] Kinh lược họ Hồng: tức Hồng Thừa Trù, cuối đời vua Sùng Trinh nhà Minh làm Tổng đốc Hà Bắc Liêu Dương, đánh nhau với quân Thanh ở Tùng Sơn thua trận đầu hàng, sau giúp nhà Thanh đàn áp phong trào phản Thanh phục Minh, làm tới chức Vũ Anh điện Đại học sĩ của triều Thanh. Sau trận Tùng Sơn có lời ngoa truyền Hồng đã tử trận nên vua Sùng Trinh đích thân làm bài văn tế Hồng.
189. Ánh sáng nửa khuya[1]
[1] Dạ minh.
Có người khách buôn đi buôn ở Nam Hải, nửa đêm trong thuyền chợt sáng rực, trở dậy xem thì thấy có một con vật to lớn, nửa người nhô lên khỏi mặt nước sừng sững như núi, mắt như hai vầng dương mới mọc, ánh sáng soi khắp bốn phía, cả một vùng rộng lớn sáng như ban ngày. Y hoảng sợ hỏi nhà thuyền, không ai biết là gì, đều nằm rạp xuống nhìn trộm. Giây lát con vật ấy từ từ lặn xuống nước. Về sau y tới Mân Trung (vùng Phúc Kiến) người ở đó nói đêm ấy trời chợt sáng bừng rồi tối lại ai cũng cho là lạ lùng, tính lại thì đúng vào đêm y thấy sự quái lạ trên thuyền.
190. Tiếng chim[1]
[1] Điểu ngữ.
Ở Trung Châu có đạo sĩ đi xin ăn trong làng xóm, ăn no rồi nghe tiếng quạ kêu, bèn nói với chủ nhân coi chừng cháy nhà. Chủ nhân hỏi duyên do, đáp: “Chim vừa nói ‘Cháy nhà khó cứu’, sợ lắm!” Mọi người đều cười, không ai đề phòng. Hôm sau, quả nhiên bị cháy, lan ra luôn mấy nhà, mới phục ông ta là thần. Có người hiếu sự theo hỏi, gọi ông ta là tiên. Đạo sĩ nói: “Ta bất quá là nghe hiểu được tiếng chim thôi, đâu phải là tiên.” Lúc ấy có con chim sẻ kêu trên cây, mọi người hỏi nó nói gì, đạo sĩ đáp: “Chim sẻ nói: Mừng sáu nuôi mừng sáu nuôi, mười bốn mười sáu thì chôn. Chắc là nhà nào có con sinh đôi, hôm nay là mùng mười, không quá năm sáu ngày nữa thì đều chết.” Hỏi ra quả có hai đứa bé tự nhiên mà chết, ngày tháng đều đúng. Quan huyện nghe chuyện lạ, gọi đạo sĩ tới, đãi làm khách.
Gặp lúc có bầy vịt đi ngang sân, quan hỏi chúng nói gì, đạo sĩ đáp: “Nội thất của minh công ắt đang có chuyện tranh cãi, vịt nói ‘Bãi bãi, hỏi ông ta, hỏi ông ta’.” Quan huyện rất phục, đại khái vì thê thiếp cãi nhau, ông ta bực mình nên bỏ ra ngoài. Một hôm khác đang ngồi, bầy vịt lại đi ngang, quan huyện lại hỏi. Đạo sĩ đáp: “Lời nói hôm nay khác với hôm trước, đại khái là chuyện minh công đang tính toán thôi.” Hỏi tính toán chuyện gì, đáp: “Chúng nói ‘Sáp một trăm tám, tiền một ngàn tám’.” Quan huyện thẹn, ngờ là đạo sĩ nói mỉa, đạo sĩ xin đi, quan huyện không cho. Qua mấy ngày, quan huyện tiếp khách chợt nghe tiếng chim cuốc kêu, khách hỏi, đạo sĩ đáp: “Nó nói là ‘Bãi quan về bãi quan về’.” Mọi người đều ngạc nhiên biến sắc, quan huyện cả giận, đuổi đạo sĩ đi. Không bao lâu, quả nhiên việc quan huyện ăn hối lộ bị phát giác. Than ôi, vị tiên kia đã răn trước rồi, mà tiếc cho người tham lam không chịu tỉnh ngộ!
Tục đất Tế (tỉnh Sơn Đông) gọi ve là “Sảo thiên”, loại màu xanh là “Đô liễu”.Trong huyện ta có hai cha con, cùng là học trò hạng thanh xã[2] đi khảo khóa hàng năm. Chợt có con ve bay tới đậu vào áo, người cha mừng nói: “Sảo thiên là điềm tốt.” Một đứa nhỏ thấy thế cãi: “Sảo thiên đâu mà sảo thiên, đô liễu đấy.” Hai cha con không vui, kế quả nhiên đều thi rớt, bị truất về làm dân[3].
[2] Hạng thanh xã: Học chính toàn thư chép thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lại thi rớt sẽ bị truất làm dân.
[3] Ở đây có chỗ chơi chữ. “Sảo thiên” nghĩa đen là hơi khác đi, nên người cha mới mừng, cho là điềm thi đỗ, sẽ được lên hạng, nhưng “Đô liễu” nghĩa đen là đều thôi rồi, đây ý nói đó là điềm báo cả hai cha con cùng bị truất.