Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XI - Chương 195 - 196

195. Vu Khử Ác

Đào Thánh Dụ ở huyện Bắc Bình (tỉnh Hà Bắc) là kẻ sĩ có tài. Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) lên kinh ứng thí, ở trọ ngoài thành. Tình cờ ra ngoài thấy một người mang tráp sách cứ quanh quẩn như chưa tìm được chỗ ở, hỏi han thì cũng là học trò, trò chuyện thấy có phong thái danh sĩ. Đào thích lắm mời về ở cùng. Khách cả mừng, mang túi vào nhà, từ đó ở chung. Khách tự nói là người phủ Thuận Thiên, họ Vu tên Khử Ác, vì Đào lớn hơn nên coi như anh. Tính Vu ưa nhàn nhã, thường ở một mình trong phòng, trên bàn không có quyển sách nào, Đào mà không trò chuyện thì chỉ nằm im lặng mà thôi. Đào ngờ vực, lục lọi rương tráp thấy ngoài nghiên bút ra chẳng có gì đáng giá lấy làm lạ bèn hỏi. Vu cười đáp: “Chúng ta là người đọc sách, chẳng lẽ đến lúc khát nước mới lo đào giếng sao!” Một hôm hỏi mượn sách của Đào, về phòng đóng cửa chép rất nhanh, hết ngày được năm mươi tờ. Đào rình xem thấy cứ chép xong bài nào là đốt bỏ bài ấy, càng lấy làm kỳ quái. Hỏi nguyên cớ thì Vu đáp: “Ta làm thế để khỏi đọc thôi mà,” bảo đọc lại những sách đã sao thì đọc vanh vách một lúc vài thiên, không sai một chữ. Đào thích lắm, muốn học thuật ấy, Vu nói không được, Đào ngờ là bủn xỉn, giận dỗi trách móc.

Vu nói: “Ông thật không thể tất cho ta chút nào cả! Nếu không nói ra thì không hả lòng, mà nói ra e ông ngờ sợ, làm sao bây giờ.” Đào bảo cứ nói không hề gì, Vu nói: “Ta không phải là người mà chỉ là ma thôi. Nay dưới âm ty cũng theo khoa mục mà trao chức quan, ngày mười bốn tháng bảy vâng chiếu khảo xét quan trường, ngày mười lăm sĩ tử vào trường, cuối tháng ra bảng!” Đào hỏi khảo xét quan trường để làm gì, Vu đáp: “Đó là ý thận trọng của Thượng đế, bất kể là quan lại tốt xấu đều phải khảo xét tất, người có văn học thì cho chấm thi, người không hiểu văn chương thì không cho dự vào. Đại khái các thần dưới âm cũng như các quan trên trần, các vị đắc chí có người không đọc kinh sử, chẳng qua chỉ là lúc còn trẻ mượn văn học để cầu công danh, trộm được chút công danh rồi thì bỏ bê việc học, giữ chức mười mấy năm thì những kẻ sĩ văn học còn chữ nghĩa gì trong bụng nữa? Cho nên trên trần gian những kẻ ít học thừa thế hãnh tiến mà kẻ anh hùng lại thất chí, chỉ vì thiếu một lần khảo xét như vậy đấy.”

Đào cho là rất đúng, vì vậy càng kính sợ Vu. Một hôm Vu từ ngoài vào, có vẻ lo lắng, than rằng: “Ta sinh ra nghèo hèn, tự nghĩ sau khi chết sẽ khá hơn, không ngờ xuống suối vàng vẫn còn lận đận.” Đào hỏi nguyên do, Vu đáp: “Nay Văn Xương[1] đã được phong làm Đô La quốc vương, việc khảo xét quan lại cũng bỏ luôn, thần linh trôi nổi, ma quỷ xiêu dạt mấy mươi năm đều được chấm văn, bọn ta còn trông mong gì được nữa?” Đào hỏi đám ấy là những ai, Vu đáp: “Có nói ra thì ông cũng không biết, nhưng nêu qua một hai người thì cũng rõ được đại khái, như quan coi nhạc Sư Khoáng, quan giữ kho Hòa Kiểu[2] vậy. Ta tự nghĩ rằng mình số không thể dựa, tài không thể cậy, chẳng bằng bỏ quách không thi cho xong.” Nói xong có vẻ ấm ức, định thu xếp hành lý lên đường, Đào kéo lại an ủi bèn thôi.

[1] Văn Xương: tức Văn Xương Đế quân, vị thần coi việc văn học khoa cử trong truyền thuyết Trung Hoa.

[2] Sư Khoáng là nhạc quan nước Tấn thời Xuân thu, mù mắt nhưng thẩm âm rất giỏi. Hòa Kiểu là người thời Tấn, nhà giàu nhưng tính rất keo kiệt, làm quan giữ kho của triều đình, bị Đỗ Dự chê là kẻ mê tiền. Sư Khoáng, Hòa Kiểu đây chỉ những kẻ không có đại tài đại chí nên không có độ lượng dung người.

Đến đêm rằm tháng bảy Vu nói với Đào: “Ta sắp vào trường thi, phiền ông lúc sáng tinh mơ ra thắp hương ngoài cửa phía đông thành, gọi Khứ Ác ba lần, ta sẽ tới,” rồi ra cửa đi. Đào mua rượu nấu thức ăn chờ, khi trời vừa sáng làm theo lời dặn. Không bao lâu Vu dắt một thiếu niên tới, Đào hỏi tên họ, Vu đáp: “Đây là Phương Tử Tấn, là bạn thân của ta, tình cờ gặp nhau trong trường thi, y nghe tiếng ông rất muốn làm quen.” Bèn cùng nhau về chỗ Đào trọ, thắp đèn chào hỏi, thiếu niên phong thái như cây ngọc, thái độ lại rất nhu mì khiêm tốn, Đào rất yêu thích, nhân nói: “Bài thi của Tử Tấn chắc rất đắc ý.” Vu nói: “Nói ra thì buồn cười, chứ trong trường ra bảy đề y đã làm được quá nửa, nhưng khi hỏi tới tên quan Chủ khảo bèn vứt hết bỏ ra, thật là kỳ nhân.” Đào quạt lò hâm rượu bày lên, nhân hỏi: “Đề thi trong trường ra sao? Khử Ác chắc đỗ đầu chứ?” Vu đáp: “Thư nghệ, kinh luận mỗi thứ một đề, ai có khả năng thì làm thêm bài sách vấn. Từ xưa rất nhiều người ngăn lấp đường tà mà phong tục đến nay đã thành xấu xa tệ hại không thể gọi tên được, không phải chỉ mười tám tầng địa ngục mà đủ trừng trị, mà mười tám tầng địa ngục không đủ để trừng trị thì còn có cách nào để trừng trị? Có kẻ nói nên đặt thêm một hai ngục nữa, nhưng như thế rất trái với ý hiếu sinh của Thượng đế, vậy thì nên thêm hay không? Hay có cách nào khác để làm trong sạch ngay từ cội nguồn không? Kẻ sĩ các ngươi cứ nói hết đừng giấu giếm, bài ta làm tuy không hay nhưng được một phen khoái ý. Bài biểu thì theo đề Tạ ơn nhân dịp diệt sạch Thiên ma, ban cho các bầy tôi long mã và thiên y khác nhau. Kế là bài thơ theo đề Dao Đài ứng chế, bài phú Hoa đào ở Tây trì, ba đề ấy thì ta cho rằng trong cả trường không có bài thứ hai.”

Nói xong vỗ tay, Phương cười nói: “Bây giờ thì cứ để ông tha hồ khoái trá, vài hôm nữa mà không khóc ròng thì mới thật là đàn ông đấy.” Trời sáng Phương muốn chào đi, Đào giữ lại ở cùng, Phương không chịu, hẹn tối sẽ tới nhưng ba ngày không thấy đâu. Đào bảo Vu đi tìm, Vu nói: “Không cần, Tử Tấn là người đường đường chứ không phải là kẻ vô tâm.” Mặt trời vừa xế, quả nhiên Phương tới, đưa cho Đào một quyển sách, nói: “Thất hứa ba ngày là để sao lại các bài làm cũ của ta, tất cả hơn trăm bài kính nhờ ông phẩm bình.” Đào mở ra đọc thích lắm, đọc một câu là khen một câu, được một hai bài thì cất vào tráp. Trò chuyện cùng nhau đến khuya, Phương bèn ở lại, ngủ cùng giường với Vu. Từ đó thành lệ, đêm nào Phương cũng tới, Đào cũng không có Phương thì không vui. Một đêm Phương hớt hải bước vào nói với Đào: “Bảng đã ra, Vu Ngữ huynh trượt rồi.” Vu đang nằm nghe thế hoảng sợ vùng dậy, nước mắt giàn giụa, hai người hết sức an ủi mới thôi khóc nhưng chỉ nhìn nhau im lặng, không khí nặng nề không sao chịu nổi. Phương nói: “Nghe nói Đại Tuần hoàn Trương Hoàn hầu[3] sắp tới tuần sát, e những kẻ thi rớt sẽ đặt vè này nọ, nếu không thì văn trường sẽ có chuyện thay đổi.”

[3] Trương Hoàn hầu: tức Trương Phi. Xem truyện Hoàn hầu.

Vu nghe có vẻ mừng rỡ, Đào hỏi nguyên cớ, Vu đáp: “Hoàn hầu Dục Đức cứ ba mươi năm một lần đi tuần sát âm ty, ba mươi lăm năm một lần đi tuần sát dương thế, hai nơi ấy có điều gì bất bình cứ đợi ông ta tới là xong hết.” Rồi đứng lên kéo Phương cùng đi, qua hai đêm mới trở về. Phương nói với Đào rằng: “Ông không chúc mừng Vu Ngữ huynh sao? Đêm rồi Hoàn hầu tới xé nát bảng cũ, những người có tên trên bảng ba phần chỉ còn có một, lại duyệt cả lại những quyển bị chấm rớt, tìm được Vu Ngữ huynh mừng lắm, tiến cử làm Tuần hải sứ Giao Nam, chỉ sớm tối là có xe ngựa tới đón thôi.” Đào mừng rỡ đặt tiệc chúc mừng, uống được vài chén, Vu hỏi Đào: “Nhà ông có chỗ trống không?” Đào hỏi để làm gì, Vu đáp: “Tử Tấn cô đơn không nhà cửa, lại không nỡ rời ông nên tiểu đệ muốn mượn chỗ cho y nương dựa.” Đào mừng rỡ nói: “Nếu thế thì quá may mắn, mà cho dù nhà cửa không rộng rãi thì ở chung phòng cũng có hề gì? Có điều nhà còn có cha già, nên ta còn phải thưa trước.” Vu nói: “Vốn biết tôn đại nhân nhân từ phúc hậu có thể nương dựa, ông sắp đến ngày vào trường, nếu Tử Tấn không chờ được thì về trước được không?” Đào bảo Phương cứ ở lại làm bạn ở đất khách, chờ mình thi xong sẽ cùng về.

Hôm sau trời vừa tối thì có xe ngựa tới cổng đón Vu lên đường phó nhiệm. Vu đứng lên nắm tay Đào nói: “Từ nay xin vĩnh biệt, có một câu muốn nói nhưng sợ ông nhụt chí tiến thủ.” Hỏi câu gì, Vu đáp: “Số ông lận đận sinh không gặp thời, khoa này mười phần chỉ có một phần đỗ, khoa sau Hoàn hầu đi tuần sát dương thế, công đạo bắt đầu sáng tỏ thì mười phần có ba phần đỗ, đến khoa thứ ba mới có hy vọng.” Đào nghe thế muốn thôi không thi nữa, Vu nói: “Không phải đâu, đó đều là số trời, cho dù không thể biết rõ nhưng số đã khổ thì phải chịu cho hết thôi.” Kế nhìn Phương nói: “Đừng chần chừ nữa, sáng mai giờ ngày tháng năm đều tốt, xin đem xe lọng đưa ông về, ta cưỡi ngựa đi cũng được.” Phương vui vẻ từ biệt, Đào trong lòng rối loạn mờ mịt không hiểu Vu dặn dò Phương những gì, chỉ gạt lệ đưa tiễn, thấy xe ngựa chia đường, trong chớp mắt đã đi hết, mới hối hận là Tử Tấn ra đi chưa có một lời gởi gắm, nhưng đã không kịp nữa. Thi xong ba kỳ không được như ý lắm, lặn lội trở về, vào cổng hỏi Tử Tấn thì trong nhà không ai biết cả. Nhân kể lại với cha, cha mừng rỡ nói: “Nếu thế thì khách tới lâu rồi.”

Trước là ông Đào ngủ trưa, nằm mơ thấy có xe lọng ngừng ở cổng, một thiếu niên đẹp trai trong xe bước ra, lên thềm vái lạy. Ông kinh ngạc hỏi có việc gì thiếu niên đáp: “Đại ca hứa cho ở nhờ nhưng phải vào thi không về cùng được nên con tới trước.” Nói xong xin vào lạy mẹ, ông đang ngần ngại chối từ thì bà vú trong nhà ra nói: “Phu nhân sinh được công tử,” giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ. Hôm ấy Đào kể lại chuyện đều khớp với giấc mộng, mới biết đứa nhỏ chính là hậu thân của Tử Tấn, hai cha con cùng mừng rỡ đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Tấn. Đứa nhỏ sinh ra rất hay khóc đêm, mẹ khổ quá, Đào nói: “Nếu đúng là Tử Tấn thì thấy con vào phải nín khóc.” Vì phong tục kiêng cho trẻ mới sinh thấy người lạ nên không cho Đào gặp, nhưng mẹ vì đứa nhỏ khóc không biết làm sao bèn gọi Đào vào. Đào gọi đứa nhỏ nói: “Tử Tấn đừng khóc nữa, ta tới rồi đây.” Đứa nhỏ đang khóc ngằn ngặt, nghe thế chợt im bặt, mở mắt nhìn Đào chằm chằm như ngắm người quen, Đào xoa đầu nó rồi bước ra, từ đó nó không khóc đêm nữa. Mấy tháng sau thì Đào không dám gặp, vì cứ thấy Đào là nó giơ tay đòi bế, bỏ đi thì khóc không chịu nín, Đào cũng phải bế nó đùa giỡn. Năm bốn tuổi đứa nhỏ rời mẹ, cứ sang ngủ chung với anh, anh đi đâu thì nằm thức đợi đến lúc về. Anh nằm dạy đọc Mao thi[4], em trên gối líu lo đọc theo, một đêm thuộc hơn bốn mươi câu. Đào lấy quyển văn cũ của Tử Tấn dạy cho, đứa nhỏ vui thích học theo, đọc qua là nhớ thuộc lòng, nhưng lấy văn người khác cho đọc thử thì không thuộc ngay được.

[4] Mao thi: tức Kinh Thi.

Lên tám chín tuổi thì mặt mày sáng láng, rõ ra là Tử Tấn. Đào hai lần đi thi hương đều rớt, đến khoa năm Đinh Dậu chuyện trường thi vỡ lở[5], các quan Giám khảo nhiều người bị trị tội, đường tiến thân của sĩ tử bắt đầu mở rộng, đó là nhờ Trương Tuần sát. Đào khoa sau thi đỗ Tú tài, kế đi thi hội nhưng nguội lạnh chí tiến thủ nên ở ẩn dạy em, thường nói với mọi người rằng: “Ta có niềm vui này, quan chức cũng không thèm đổi.”

[5] Theo nội dung câu chuyện thì có lẽ là năm Đinh Dậu 1657 trong đời vua Thuận Trị nhà Thanh. Chưa rõ về sự kiện này.

Dị Sử thị nói: Ta thường tới miếu Trương Hoàn hầu chiêm ngưỡng dung mạo, thấy lẫm liệt có sinh khí, lại lúc bình sinh thì ăn nói quát tháo như sấm sét, vung mâu thúc ngựa tới đâu cũng làm người ta ngạc nhiên vui thích. Đời cho rằng tướng quân vũ dũng nên chỉ xếp vào hàng Giáng Quán[6], đâu biết Văn Xương lắm việc, phải cậy rất nhiều vào người! Than ôi, ba mươi lăm năm mới tới một lần, sao mà muộn thế!

[6] Giáng Quán: tức Giáng hầu Chu Bột và Quán Anh, võ thần của Hán Cao tổ Lưu Bang, đều là bậc khai quốc công thần của nhà Hán.

196. Phượng Tiên

Lưu Xích Thủy người huyện Bình Lạc (tỉnh Quảng Tây), còn nhỏ đã thông minh đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm đâm ra chơi bời bỏ học. Nhà không dư dật mà ưa chải chuốt, quần áo chăn nệm đều là thứ tốt đẹp. Một tối được người ta mời uống rượu, lúc đi quên tắt đèn, uống được vài chén sực nhớ ra vội quay về. Nghe trong phòng có tiếng trò chuyện khe khẽ, núp nhìn vào thấy một thiếu niên ôm một cô gái đẹp nằm trên giường. Nhà Lưu xây trên phủ đệ của một nhà quyền quý bỏ hoang, thường có nhiều chuyện quái dị nên biết ngay là hồ nhưng cũng không sợ, sấn vào quát: “Giường ta cho các ngươi nằm ngáy đấy à?” Hai người hoảng hốt vơ quần áo trần truồng bỏ chạy, trên giường còn sót một cái quần lụa tía, trên dải có đính cái túi con. Lưu thích lắm nhưng sợ bị lấy trộm lại, liền giấu vào trong chăn rồi ôm chặt. Giây lát có một tỳ nữ đầu tóc rối bù bước vào, xin Lưu trả lại, Lưu cười đòi phải báo đáp. Tỳ nữ xin đổi rượu, Lưu không chịu, xin tặng vàng, cũng không chịu, bèn cười quay ra. Lát sau trở lại nói: “Cô cả ta nói nếu cho xin lại thì xin đền ơn bằng một người vợ đẹp.” Lưu hỏi là ai, đáp: “Nhà ta họ Bì, cô cả là Bát Tiên, người cùng nằm lúc nãy là chàng họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên đã gả cho quan nhân họ Đinh ở huyện Phú Xuyên (tỉnh Quảng Tây). Cô ba là Phượng Tiên còn đẹp hơn hai cô lớn nhiều, chắc chắn chàng sẽ vừa lòng.” Lưu sợ nuốt lời, nói xin ngồi chờ tin hay, tỳ nữ đi hồi lâu rồi quay lại nói: “Cô cả ta nhắn với quan nhân đây là chuyện tốt lành làm sao vội vã được. Cô ta vừa nói xong thì bị cô Ba chửi mắng, phải chờ vài hôm, chứ nhà bọn ta không phải loại hứa bừa rồi nuốt lời đâu.” Lưu bèn trả lại cái quần.

Qua mấy hôm vẫn không thấy tin tức gì, chập tối Lưu đi chơi về, vừa đóng cửa ngồi xuống chợt hai cánh cổng tự mở toang, có hai người lấy chăn khiêng một nữ lang, nắm lấy bốn góc chăn bước vào nói: “Đưa dâu tới rồi đây!” Cười đặt lên giường mà đi. Lưu tới nhìn, thấy nàng còn say chưa tỉnh, mùi rượu nồng nặc, mặt mũi đỏ hồng, xinh đẹp tuyệt trần. Lưu mừng quá, cầm chân cởi tất rồi ôm lấy nàng cởi áo xiêm ra. Cô gái hơi tỉnh hé mắt thấy Lưu nhưng không vùng vẫy gì được, chỉ tức tối nói: “Con đĩ Bát Tiên bán ta rồi!” Lưu ôm ấp vuốt ve, cô gái thấy người Lưu lạnh quá, cười khẽ đọc: “Đêm nay là đêm gì, gặp chàng trai lạnh giá.” Lưu nói: “Cứ chờ xem nàng ơi, thế này mà lạnh hả?” Rồi ân ái với nàng. Xong rồi cô gái nói: “Con nhãi vô sỉ làm bẩn giường người ta rồi đem thiếp đổi lấy cái quần à! Thế nào cũng phải trả thù.”

Từ đó đêm nào cũng tới, gối chăn rất đằm thắm. Một hôm lấy cái xuyến vàng trong tay áo ra nói với Lưu: “Cái này là của Bát Tiên,” mấy hôm sau lại đem tới một đôi giày thêu gấm khảm ngọc cực kỳ tinh xảo, dặn Lưu cứ khoe ầm lên. Lưu đem khoe với khắp bạn bè, ai tới xem cũng tặng tiền biếu rượu, Lưu từ đó thành ra có món hàng lạ. Một đêm cô gái tới, chợt nói xin từ giã, Lưu lấy làm lạ hỏi, nàng đáp: “Bà chị vì việc đôi giày mà giận thiếp, định dọn nhà đi xa để chia cách hai ta.” Lưu lo lắng xin trả lại đôi giày. Cô gái nói: “Không cần phải thế. Bà ấy đang định làm như vậy để ép thiếp, nếu trả lại là trúng kế đấy.” Lưu hỏi sao không ở lại một mình, nàng đáp: “Cha mẹ đi xa, một nhà hơn mười miệng ăn đều trông vào anh Hồ xoay xở, nếu thiếp không đi theo, sợ con mụ lắm mồm ấy lại bịa đặt này nọ.” Từ đó không tới nữa.

Qua hai năm, Lưu nhung nhớ không khuây, tình cờ đi đường gặp một nữ lang cưỡi ngựa thong thả đi, có người lão bộc cầm dây cương chen qua sát người, qua rồi lại nhấc tấm khăn che mặt ngoảnh nhìn Lưu, phong tư vô cùng xinh đẹp. Giây lát lại có một thiếu niên phía sau vượt lên, Lưu nói: “Không biết nàng ấy là ai mà đẹp quá?” Rồi khen nức nở. Thiếu niên chắp tay cười nói: “Ông quá lời rồi, đó là người vợ quê của ta đấy.” Lưu hoảng hốt ngượng ngùng xin lỗi, thiếu niên đáp: “Có gì đâu. Nhưng Nam Dương có ba ông Cát thì ông chiếm được rồng[1] rồi, ta thì tầm thường có gì đáng nói.” Lưu nghe câu nói lấy làm ngờ, thiếu niên lại hỏi: “Anh không nhận ra kẻ nằm trộm trên giường sao?” Lưu mới biết đó là chàng họ Hồ, anh em bạn rể với mình, bèn chuyện trò chọc ghẹo nhau rất vui vẻ. Thiếu niên nói: “Cha mẹ mới về, ta định tới thăm, ông đi cùng không?” Lưu mừng rỡ, theo vào núi Oanh Sơn trên núi vốn có nhà dân trong huyện lánh nạn tới ở.

[1] Thời Tam quốc anh em Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và em họ là Gia Cát Đản ẩn cư ở Nam Dương, đều có tiếng tài giỏi, trong đó Lượng tức Khổng Minh giỏi nhất, có hiệu là Ngọa Long. Sau Cẩn theo giúp Ngô, Lượng theo giúp Thục, Đản theo giúp Ngụy, người ta vì thế có câu: “Thục được rồng, Ngô được hổ, Ngụy được chó.” Đây ý nói Lưu lấy được người đẹp nhất trong ba chị em Bát Tiên.

Cô gái xuống ngựa vào, lát sau có mấy người ra đón, nói: “Lưu quan nhân cũng tới rồi!” Vào ra mắt ông bà nhạc thấy một thiếu niên áo giày sang trọng ngồi trước ở đó, ông già nói: “Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên,” mọi người vái chào nhau rồi cùng ngồi. Lát sau rượu thịt bày lên la liệt, mọi người cười nói râm ran, ông già nói: “Hôm nay cả ba chàng rể cùng tới chơi, có thể nói là cuộc gặp gỡ hay đẹp, lại không có người ngoài, cứ gọi cả bọn trẻ ra làm một bữa tiệc đoàn viên.” Giây lát ba chị em kéo nhau ra, ông già sai lấy thêm ghế cùng cho ngồi cạnh chồng. Bát Tiên thấy Lưu cứ che miệng cười. Phượng Tiên cũng theo đà mà đùa giỡn chọc ghẹo, Thủy Tiên thì dung mạo hơi kém hơn hai người, nhưng có vẻ nghiêm trang đường bệ, cả bàn cười nói ầm ĩ mà nàng chỉ cầm chén rượu cười nụ. Rồi đó giày dép lẫn lộn, lan xạ thơm lừng, cùng nhau uống rượu vô cùng vui vẻ.

Lưu nhìn thấy ở đầu giường bày đủ nhạc cụ bèn cầm chiếc sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông già. Ông mừng rỡ, bảo ai rành loại nào thì chơi loại ấy, mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và Phượng Tiên. Bát Tiên nói: “Đinh lang không rành thì thôi, chứ ngươi sao không chịu động đậy gì cả?” Rồi cầm cái phách ném vào lòng Phượng Tiên, tiếng tơ trúc đan vào nhau dìu dặt. Ông già vui vẻ nói: “Người nhà ta giỏi nhạc lắm! Các con đều biết múa hát, sao không trổ tài.” Bát Tiên kéo Thủy Tiên đứng lên, nói: “Trước nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc, không dám làm phiền nó vất vả, còn hai chị em ta có thể hát khúc Lạc Phi.” Hai người múa hát vừa xong thì tỳ nữ bưng lên một cái mâm vàng đựng trái cây, không ai biết là trái gì. Ông già nói: “Đây là từ Chân Lạp đem qua, gọi là trái điều bà la,” rồi cầm mấy trái đưa cho Đinh.

Phượng Tiên không vui, nói: “Chẳng lẽ cha lại thương rể giàu ghét rể nghèo à?” Ông già nhếch mép chưa trả lời, Bát Tiên đã nói: “Vì cha thấy Đinh lang ở huyện khác nên coi như khách đấy thôi, chứ nếu bàn về lớn nhỏ thì đâu phải chỉ em Phượng mới có chồng nghèo.” Phượng Tiên vẫn không vui, cởi áo đẹp ra, đưa trống phách cho tỳ nữ rồi hát một khúc Phá dao, vừa hát vừa sa nước mắt, hát xong phất tay áo bỏ ra, mọi người đều mất vui. Bát Tiên nói: “Con nhãi vẫn cao ngạo như xưa,” bèn đuổi theo nhưng thấy đâu. Lưu xấu hổ cũng chào ra về, đi được nửa đường thấy Phượng Tiên ngồi bên vệ đường, gọi cùng ngồi xuống nói: “Chàng là đàn ông mà không giúp vợ hả giận được à? Trong sách tự có nhà vàng, xin chàng làm được như thế.” Rồi đưa chân ra nói: “Ra cổng đi mau, gai đâm nát cả giày rồi, vật thiếp tặng có mang theo không?” Lưu lấy ra đưa cho cô gái thay, rồi xin lại đôi đã rách.

Nàng nhoẻn miệng cười nói: “Chàng cũng chẳng ra sao, mấy lần thấy giữ cả những đồ dùng khi chăn gối. Nếu thương yêu nhau thì xin tặng cho vật này.” Rồi đưa Lưu một tấm gương, nói: “Muốn thấy thiếp thì lúc nào đọc sách mỏi mệt cứ lấy ra nhìn, không thì không bao giờ thấy nhau đâu.” Nói xong biến mất. Lưu buồn rầu trở về, nhìn vào gương thấy Phượng Tiên đứng quay lưng như đi xa ra hàng trăm bước, nhớ lời nàng dặn bèn tạ khách buông màn học hành. Một hôm thấy người trong gương đã quay mặt lại, chúm chím như sắp cười, càng quý tấm gương, lúc không có ai lại lấy ra ngắm nghía. Hơn tháng thì bắt đầu chán nản, đi chơi quên cả giờ về. Trở về nhìn bóng người trong gương thấy vẻ mặt rầu rĩ như muốn khóc, hôm sau lại nhìn thì thấy quay lưng lại như lúc đầu, mới hiểu ra là vì mình bỏ bê việc học hành.

Bèn đóng cửa ra sức dùi mài kinh sử ngày đêm không nghỉ, hơn tháng thì người trong gương quay mặt trở ra. Từ đó nghiệm thấy cứ lúc nào học hành bê trễ thì tỏ vẻ buồn bã, mấy ngày sau chăm chỉ lại thì tỏ vẻ vui mừng, vì vậy treo luôn tấm gương trước mặt như đang đối diện với thầy học vậy. Như thế liền hai năm, Lưu đi thi một lần đỗ ngay, mừng rỡ nói: “Nay thì có thể gặp Phượng Tiên của ta rồi.” Lấy tấm gương ra nhìn, thấy mày ngài cong cong, răng ngà he hé, dáng vẻ mừng rỡ hiển hiện trước mắt, nhớ quá cứ nhìn chằm chằm không chớp mắt. Chợt người trong gương nhoẻn miệng cười nói: “Bây giờ mới biết thế nào là người yêu giữa bóng gương, tình nhân trong bức vẽ.” Lưu mừng rỡ nhìn quanh thì Phượng Tiên đã đứng sau ghế, liền nắm tay hỏi thăm ông bà nhạc. Nàng đáp: “Sau hôm chia tay thiếp không về nhà lần nào, cứ náu thân trong hang núi, từ xa chia sẻ nỗi vất vả với chàng.”

Lưu đi dự tiệc mừng ở quận, cô gái xin cùng đi, cùng ngồi một xe mà không ai thấy nàng. Lúc sắp trở về, nàng bàn với Lưu giả như vừa cưới nàng ở quận, về tới nhà mới hiện thân tiếp khách, coi sóc việc nhà, mọi người đều kinh ngạc vì nàng quá đẹp chứ không biết là hồ. Lưu được cử làm việc dưới quyền quan huyện Phú Xuyên, tới đó yết kiến nên gặp Đinh, Đinh kéo về nhà khoản đãi rất trọng hậu, nói: “Cha mẹ mới dời nhà qua chỗ khác, vợ ta tới thăm sắp về rồi, phải gởi thư báo để tất cả cùng tới mừng.”

Lưu ban đầu tưởng Đinh cũng là hồ, đến khi hỏi kỹ họ hàng quê quán mới biết là một nhà buôn lớn ở Phú Xuyên. Nguyên một hôm Đinh từ nhà khác trở về, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy nàng đẹp liếc nhìn, nàng xin đi nhờ ngựa, Đinh mừng đưa về phòng sách ăn ở với nhau, thấy lách được qua song cửa vào phòng mới biết là hồ. Nhưng nàng nói: “Chàng chớ ngờ vực, thiếp thấy chàng là người thành thực nên nguyện theo nương tựa,” Đinh yêu quý nên không lấy ai nữa. Lưu về thuê một căn nhà rộng của nhà quyền quý, sắp đặt nơi ăn chốn ở cho khách, đã quét dọn sạch sẽ nhưng chưa có đủ bàn ghế vật dùng, qua đêm thì thấy phòng ốc đã được bày biện lộng lẫy. Mấy hôm sau quả có hơn ba mươi người giương cờ chở lễ vật tới, xe ngựa đông đúc chật đường. Lưu vái chào rồi đưa ông nhạc cùng Đinh, Hồ vào nhà khách, Phượng Tiên đón mẹ và hai chị vào nhà trong.

Bát Tiên nói: “Con nhãi nay đã lên bà rồi, không oán bà mối nữa chứ. Xuyến với giày của ta còn không?” Phượng Tiên tìm đưa trả, nói: “Giày thì còn đây, nhưng hàng ngàn người đã nhìn nát ra rồi.” Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng, nói: “Đánh cái này để gởi cho Lưu lang?” Rồi ném đôi giày vào lửa, khấn rằng:

“Lúc mới như hoa tươi

Khi cũ như hoa rã

Nâng niu chưa dám dùng

Hằng Nga đà mượn đỡ.”

Thủy Tiên cũng khấn thay rằng:

“Từng lồng búp măng ngọc

Bước ra muôn người khen

Nếu để Hằng Nga thấy

Thương bóng nguyệt không tròn.”

Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:

“Tối tối lên trời xanh

Một sớm rời nơi cũ

Lưu lại bóng nho nhỏ

Cho cả thế gian nhìn.”

Rồi vun tro vào mâm, cao hơn mười phân, thấy Lưu bước vào bưng đưa, nói là Bát Tiên tặng, thấy toàn là giày thêu, hệt như đôi trước. Bát Tiên vội bước ra hất cái mâm xuống đất, chỉ còn lại một hai chiếc nguyên lành, lại cúi xuống thổi mới tan hết không còn dấu tích. Mấy hôm sau Đinh vì nhà ở xa nên cùng Thủy Tiên về trước, Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông già và Hồ thúc giục mấy lần, mãi đến trưa mới cùng mọi người ra về. Lúc họ mới tới, xe kiệu rầm rộ, người ra xem đông như chợ, có hai tên cướp nhìn thấy người đẹp chết mê chết mệt nên mưu chặn đường cướp lấy, lúc ấy theo dõi thấy họ đã ra khỏi thôn bèn đuổi theo, nhưng chỉ cách có một tầm tên mà giục ngựa phóng nhanh vẫn không theo kịp. Đến một chỗ đường hẹp, hai bên là vách núi, kiệu đi chậm lại, chúng đuổi kịp vung đao hò hét, mọi người bỏ kiệu chạy tứ tán. Một tên xuống ngựa mở rèm thì bên trong chỉ có một bà già, ngờ là bắt lầm bà mẹ, vừa quay nhìn chung quanh thì bị chém vào tay phải rồi bị trói nghiến lại, định thần nhìn lại thấy không phải là đường núi mà là cổng phủ thành Bình Lạc, còn bà già trong kiệu là mẹ Tiến sĩ họ Lý dưới quê lên. Tên cướp tới sau cũng bị chém chân ngựa bắt trói tại cổng thành. Lý bắt giải nộp quan Thái thú, vừa tra hỏi đã nhận tội. Lúc ấy có một tên cướp khét tiếng đang bị truy nã, hỏi ra thì chính là y. Mùa xuâu năm sau Lưu thi đỗ Tiến sĩ. Phượng Tiên cũng sợ chuốc họa nên từ chối không cho bạn bè thân thích tới chúc mừng. Lưu cũng không lấy vợ khác, lúc làm quan tới chức Thị lang mới nạp thiếp, sinh được hai trai.

Dị Sử thị nói: Than ôi, thói đời ấm lạnh, người tiên kẻ tục cũng không khác nhau sao? Lúc trẻ không gắng sức, khi già lại đau lòng, tiếc vì không có giai nhân hiếu thắng làm bóng người vui buồn trong gương vậy! Ta mong hằng hà sa số người tiên đều sai con gái cùng xuống lấy người trần cho trong cái biển bần cùng ít đi những chúng sinh khổ sở.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3