Từ Hy Thái Hậu - Chương 1 phần 03
Nếu số nàng tốt, được vua vời đến “nhất phát, nhất trúng” nàng thụ thai ngay, Sakota lại sanh con gái thì số nàng có hồng loan chiếu mệnh, lòng trời đã định, bước thang mây thênh thang rộng mở. Nàng có thể lên cao hơn thế nữa, bước đầu đã qua, bước sau cũng dễ. Biết đâu mọi việc sẽ diễn tiến như lòng ảo vọng.
Nàng phải rèn luyện từ bây giờ, đọc những tài liệu, công văn, nghiên cứu từng chữ những sắc chỉ, chiếu chỉ. Nàng lại cần tìm hiểu những công việc về quốc sự, nội trí, ngoại giao để nếu Trời, Phật giúp cho được như ước vọng, mọi việc nàng đều thông thạo, không bị bỡ ngỡ. Dần dần, nàng học hỏi tìm hiểu, lãnh thổ trong nước bao la, có hàng mấy trăm triệu dân. Từ nhỏ đến giờ vũ trụ của nàng chỉ có Bắc Kinh nơi nàng sinh trưởng. Nàng biết nàng thuộc về một giống đi chinh phục, nòi giống của người Mãn Châu đã chinh phục Trung Hoa và lập nền đô hộ dân tộc đó. Đã hai trăm năm nay, triều đại người phương Bắc đóng đô ở Bắc Kinh, xây đắp hoàng thành vô cùng kiên cố ở trong tỉnh này.
Người ta gọi thành phố của Hoàng đế là cấm thành, vì trong đó của vua ngự trị, ngài là người đàn ông duy nhất, đêm được ở trong đó. Đến chiều, chiêng, trống khua khắp nơi để mọi người đàn ông ở trong đó phải ra ngoài. Chỉ có Hoàng thượng và các tần mĩ nữ và bọn hoạn quan. Bây giờ nàng đã biết rõ hoàng thành, cấm thành, đại nội là thế nào. Tất cả công việc hành chánh đều tập trung ở đó, cai trị một nước bao la, rộng lớn, sông ngòi, núi non trùng điệp, có biết bao nhiêu đô thị, làng mạc, dân số hàng mấy trăm triệu người, rải rác khắp mọi nơi, những nhà buôn, nông dân, học giả, nghệ sĩ, cao lâu, tửu quán, đàn ông, đàn bà đủ các loại người làm hàng trăm vạn nghề khác nhau.
Trí tưởng tượng Yehonala bay bổng ra ngoài ngục tù vương giả theo những trang sách. Các sách chỉ ghi một cách tổng quát. Sơ lược không bằng những các sắc chỉ có những chi tiết rất xác đáng cho sự nghiên cứu học hỏi, hiểu biết. Nàng được biết hiện nay có một cuộc phiến loạn làm chấn động miền Nam. Đáng ghét nhât là một sự cổ võ, tuyên truyền cho một đạo giáo ngoại lai. Quân phiến loạn là người Hán, thành lập một đảng gọi là Thái Bình Thiên Quốc. Đảng trướng là một người có đạo Gia Tô tên là Hùng tự xưng là bào đệ tái sanh của một vị thần ngoại quốc và một mụ nhà quê. Xét cuộc hạ sanh này và dòng dõi của Christ không có gì là lạ, vì trong nhiều sách có ghi chép nhiều chuyện tương tự như thế. Như một chuyện một người đàn bà nông phu đang cày ruộng thấy một vị thần xuất hiện trên mây, do phép thần thông đã cấy được tinh trùng vào người đàn bà đó nên sáu tháng sau người đàn bà đó sanh hạ một người con trai, là con của vị thiên thần. Lại còn một chuyện cổ tích có một người con gái, con một người thuyền chài, đang ngồi vá lưới cho cha, một vị thần ở dười nước nhô lên dùng phép thần đã cấy được tinh trùng vào người con gái đó. Có một điều đáng quan tâm là đảng Thái Bình, dười hiệu cờ tôn giáo đã quy tụ một số rất đông những bọn người bất hảo, bất mãn.
Nếu người ta coi thường, không đem quân tiêu trừ, đảng Thái Bình này có thể lật đổ được triều đại Mãn Thanh. Dưới triều vua Đạo Quang trị vì, cũng không hơn gì cha. Bà Hoàng Thái hậu coi vua Hàm Phong như một đứa trẻ nít.
Yehonala nghĩ chỉ có Hoàng Thái hậu đương kim là một cái thang cho nàng leo lên đài vinh quang. Nàng phải biết sử dụng chiếc thang đó. Nàng tận tâm phục vụ bà già, đem hết sự khôn ngoan, để chiều chuộng, hầu hạ làm sao cho bà đẹp ý, vừa lòng mến yêu, quyến luyến nàng. Có hôm nàng hái một bông hoa thật đẹp, hôm khác một trái cây thật chín, ngon, mà đẹp, nàng lựa chọn trong vườn Ngự Uyển, hai tay kính cẩn đem dâng lên cho bà.
Bây giờ đang mùa dưa chín, bà Hoàng Thái hậu thích những trái dưa xinh xinh, bở tơi, thịt vàng, thơm phức. Loại dưa này ưa mọc ở trên đống rác; người ta gieo hột về đầu xuân. Ngày nào Yehonal cũng ra xem các luống dưa, tìm những trái dưa chín, có khi bị lá che khuất. Những trái nào còn xanh, chưa được chín đều, nàng dán một mảnh giấy đề hai chữ “Ngự dụng” để bọn thái giám nô tì khỏi ngắt trộm.
Có một hôm, đúng một tuần sau khi được Lý Liên Anh báo tin cho nàng biết về Hoàng hậu Sakota, nàng thấy một trái dưa, lấy tay gõ vào kêu như chuông. Trái này đã chín mùi, nàng cắt, đem vào hoàng cung, hai tay dâng lên Hoàng Thái hậu.
Khi nàng vào trong cung Thái hậu, con nữ tì ngồi hầu quạt, bảo nàng: “Thái hậu đang ngủ.” Con nữ tì này có vẻ ghen tức với nàng vì biết nàng được Thái hậu mến yêu.
Yehonal nói lớn:
- Giờ này Thái hậu cón ngủ sao? Chắc ngài khiếm an? Thường nhật ngài dậy sớm lắm mà. Khi nào nàng muốn nói to, tiếng nàng trong treo, lanh lảnh như tiếng chim hoạ mi, cách mấy gian phòng cũng nghe thấy. Tiếng nàng lọt vào tai Thái hậu. Ngài đang ngồi thêu một con rồng vàng vào chiếc đai của Hoàng thượng. Địa vị của ngài đáng lẽ không phải làm những việc đó, song ngài không biết đọc sách, không có việc gì làm, ngài ngồi buồn, thêu thùa cho vui. Nghe thấy tiếng Yehonala, nhân lúc đó ngài thêu đã chán tay, ngài đặt miếng thêu xuống bàn, gọi Yehonal.
- Vào đây con. Người ta nói dối con, bảo mẹ ngủ.
Yehonala nhìn con nữ tì một cách đắc thắng, mỉm cười, con này tức quá, cau mày.
Nàng nói lớn:
- Thưa Thái hậu, không có ai nói Thái hậu ngủ, con nghe nhầm.
Nàng trí trá nói mấy câu đó để không buộc tội con nữ tì đã nói dối, định gạt nàng.
Nàng đi qua mấy gian phòng rộng lớn rồi đến phòng Hoàng Thái hậu. Vì trời nóng bức, bà bận quần áo mát, bằng lụa mỏng, cắt ngắn. Yehonala quỳ xuống, hai bàn tay dâng lên trái dưa chín.
Bà hoàng thái hậu reo lên:
- Con đem dưa đến vừa đúng lúc mẹ đang nghĩ đến dưa muốn có một trái chín.
Thưa Thái hậu, để con sai thái giám buộc trái dưa treo trong lòng giếng ở phía tây, cho mát.
Bà không nghe lời nàng đề nghị:
- Không được, nếu trái dưa vào tay bọn thái giám. Chúng lén lút ăn hết, khi nào mẹ sai đem về, chúng sẽ đem cho mẹ một trái còn xanh, hay chúng nói chuột tha mất, hay trái dưa tuột dây rớt xuống giếng. Bọn thái giám trí trá, hỗn lắm, mẹ biết. Mẹ muốn bổ ra ăn ngay, cất ở trong bụng là chắc nhất.
Bà quay đầu ra ngoài, gọi to:
- Lấy cho ta con dao lớn vào đây.
Ba, bốn con nữ tì vội vàng lấy dao đem vao. Khi bọn nữ tì đi ra, Yehonala bổ trái dưa, cắt ra từng miếng đưa Thái hậu. Hết miếng này đến miếng khác, bà ăn nhồm nhoàm gần hết nữa quả dưa. Bà ăn như một đứa trẻ nít, nức dưa chảy ròng ròng xuống dưới cằm.
Nàng kêu nữ tì lấy chiếc khăn. Nàng quấn chiếc khăn quanh cổ bà già để nước dưa khỏi làm hoen ố chiếc lụa bà mặc. Khi bà ăn đã chán, bà bảo:
- Còn một nửa, lấy cái gì úp lại, cất đi. Chiếu nay, lúc nào Hoàng thượng đến thỉnh an ta, ta sẽ cho nửa trái dưa. Để ở đây, đừng đem đi đâu, không bị mất cắp.
Yehonal vội vàng nói:
- Vâng, xin tuân lệnh.
Nàng không cho bọn nữ tì mó tay vào nửa trái dưa, tự nàng làm lấy. Nàng kêu đem vào một chiếc đĩa lớn để trái dưa, lấy chiếc bát sứ úp lên trên, rồi để vào trong một chậu nước lạnh.
Nàng cố làm rất cẩn thận, cầu kì, cốt để bà nhắc tên nàng trước Hoàng thượng khi ngài đến vấn an. Trong khi nàng hầu hạ, chiều chuộng bà già để ý nhắc nhở tên nàng với đức Kim thượng. Lý Liên Anh cũng sốt sắng không kém để tiến cử nàng. Hắn đút lót tiền nong quà bánh bọn cận vệ chờ lúc nào ngài ngự bồn chồn muốn có một người đàn bà đẹp vừa mắt để cho vào hầu, bọn này sẽ tâu lên tên nàng Yehonala.
Phương pháp tấn công lưỡng diện đó đã đem lại kết quả. Sau hôm đem trái dưa vào dâng mẫu hậu, nàng ngồi trong thư viện, giở một cuốn sách, thấy có một mảnh giấy gấp tư. Nàng mở ra coi, thấy có hai dòng chữ viết nguệch ngoạc:
“Rồng vừa tỉnh giấc Phượng hoàng bay cao.”
(Long tỉnh, phượng phi) Nàng biết ngay ai đã viết mấy dòng chữ này. Nhưng làm sao Lý Liên Anh lại biết được thâm ý của nàng? Nàng có thổ lộ nói gì cho hắn biết đâu. Nàng bình tĩnh ngồi đọc sách trong khi ông giảng sư già, lúc thức, lúc ngủ, gật gù trên ghế. Thời gian trôi qua. Hôm đó như thường lệ, quá trưa, nàng còn phải học hội hoạ. Nàng rất thích học ông già này vì ông buông thả không chấp nệ bắt phải suy luận, chăm chú những lời của cố nhân. Học về hội hoạ lại khác hẳn, trong giờ học không được phép giải trí, suy nghĩ, làm một việc gì khác ngoài việc học. Giáo sư là một thiếu phụ rất khó tính. Cô này tên là Miện, gốc người Hán, chồng chết khi còn ít tuổi. Theo luật lệ triều đình nhà Mãn Thanh, những đàn bà người Hán không được phép nhập đại nội, nên người ta cho phép cô này không phải bó chân, tóc phải uốn bồng lên cao, y phục người Mãn Thanh. Sao người ta lại cần một người Hán bắt phải cải trang như vậy? Vì cô này là một hoạ sĩ, một mĩ thuật gia danh tiếng, dùng để giảng dạy các cung tần trong hoàng cung. Cô này thuộc một gia đình nghệ sĩ người hán, cô sở trường về vẽ (kê cúc) những cây cúc và đàn bà, cô vẽ rất tuyệt xảo, vượt cả cha lẫn anh cô. Cô có tài nhưng không kiên nhẫn, những người nào không có khiếu về hội hoạ hay có vẻ chậm hiểu, cô từ chối không dạy. Yehonala vừa thông minh vừa có hoa tay, nàng lại nhiệt tâm học hỏi. Khi nhận thức ở nàng những đặc điểm đó, viên giáo sư hết sức chăm chú giảng dạy cho nàng. Cô giáo sư rất nghiêm nghị và khó tính, nên Yehonala chưa được phép vẽ theo thiên nhiên, phải học bắt đầu những mẫu vẽ cổ khắc vào gỗ và những ấn hạ của những hoạ sĩ danh tiếng ngày xưa. Học như thế để cho tâm trí thấm nhuần đường lối, cách thức, mẫu mực, màu sắc. Nàng phải sao lại những bản mẫu và bị cấm tuyệt đối không được tự tay vẽ lấy.
Theo như thường lệ, ngày hôm đó, cô giáo dạy vẽ đúng 4 giờ đến. Ở trong cung có rất nhiều đồng hồ treo của các nhân vật Tây phương đem cống hiến nhà vua, qua các triều đại suốt một thế kỉ. Ba người thái giám được chỉ định chuyên môn suốt ngày lên dây cót đồng hồ. Cô giáo ghét những chiếc đồng hồ chạy lạch cạch, kêu kinh coong suốt ngày làm mất sự yên tĩnh thích hợp cho việc học. Cô chỉ nhìn chiếc đồng hồ nước (lâu khắc).
Cô giáo sư cũng khá đẹp song hai con mắt hơi nhỏ. Hôm ấy cô mặc chiếc áo màu mận. Tóc bới cao, gài chiếc lược, có gắn hạt trai… Người thái giám tuỳ tùng, mở chiếc hộp lớn lấy ra một nắm bút vẽ, những chiếc dĩa nhỏ để hoà phẩm và các thức đồ dùng khác để vẽ. Yehonala đứng trước mặt giáo sư. Cô giáo nói:
- Mời ngồi… ngồi…
Yehonala giữ lễ chưa dám ngồi. Cô giáo phải ngồi trước để nàng bắt chước ngồi xuống ghế. Bây giờ, Yehonala lại nhìn thấy dưới khía cạch khác về nước Trung Hoa rộng mênh mông với dân số vĩ đại, nghệ thuật phong phú tích luỹ từ ngàn xưa, những danh hoạ từ thế kỉ trước như Quang khải Chính.
Nàng thích những bức hoa cổ, vẽ những cảnh thần tiên, huyền thoại, như các tiên nga ngự trong xe loan đi trên mây có rồng kéo. Quang Khải Chính còn vẽ trên một cuốn lụa bạch những phong cảnh, nhân vật ở chốn triều chung, vua Càn Long đã tự tay châu phê và đóng dấu tỉ vào tấm tranh “Một danh hoạ bất hủ.” Cuốn tranh lụa này dài hơn ba thước, bề ngang hai mươi lăm phân. Tấm tranh vẽ chính cảnh ở hoàng cung, có một cảnh Yehonala thích nhất, là danh hoạ diễn tả một cảnh con gấu xổng chuồng, con vật này nhảy chổm định vồ Thiên tử. Một thể nữ trong triều đã liều mình lăn xả vào con gấu để cứu giá. Yehonala nghĩ bụng người đàn bà đó cũng giống như mình, có phí phách, can trường. Người đàn bà trong tranh cao lớn, rất đẹp, hiên ngang, hai tay khoang trước ngực, dáng diệu dũng cảm. Yehonala cũng thích tấm tranh có Hoàng đế, Hoàng hậu, hai thế tế xử, xung quang có các quan phụ đạo. Bức tranh là cảnh rất linh động, một gia đình quân vương đầm ấm.
Lại còn một cảnh nữa nàng cũng thích lắm. Cảnh một chú bé, nét mặt hóm hỉnh, người thợ cạo đang cạo đầu cho chú. Lạy Trời phù hộ, nàng muốn có một đứa con trai như ở trong tranh.
Bài học hôm nay về Vương Vệ, cách đây mười lăm thế kỉ. Ông này nguyên là một danh y, đã từ bỏ nghề của tổ phụ để nghiên cứa về thi văn hội hoạ.
Với giọng nói trong như tiếng hạc, cô giáo sư nói:
- Bài học hôm nay là nghiên cứu những tấm hoạ của vương Vệ. Để ý nhận xét những nét vẽ, lá tre rụng lả tả trên tấm đá màu sẫm và những cánh mai, những bông mai xen lẫn với bông cúc.
Cô giáo tính rất nghiêm nghị, cô không nói gí khác trong giờ học, Yehonala ngoan ngoãn ngồi nghe cô giáo giảng dạy, tai nghe mắt nhìn những tấm tranh mẫu. Tuy vậy nàng cũng nêu lên một thắc mắc, phát biểu một nhận xét:
- Tôi thấy lạ, làm sao trong một tấm tranh có cả hoa mai lẫn hoa cúc. Vẽ như vậy, thời tiết đảo lộn?
Cô giáo có ý không bằng lòng, cô nói:
- Với một bức danh hoạ của Vương Vệ, không thể nói hoạ sĩ nhầm lẫn. Phải biết trong một bức hoạ của Vương Vệ có bức vẽ những tàu chuối dưới làn mưa tuyết. Có ai có thể tưởng tượng những tàu lá chuối trong tuyết không? Thế mà Vương vệ lại vẽ những việc trái khoái như vậy. Cô phải suy luận một bài thơ về bức hoạ đó. Người ta nói Vương Vệ là một thi hào hơn là một danh hoạ. Theo tôi nhận xét, những bài thơ của ông là những bức hoạ mà những bức hoạ của ông là một bài Đường thi. Vẽ theo nguồn hứng tâm trạng chứ không vẽ theo thực tại, như thế là đem lí tưởng vào nghệ thuật.
Cô giáo vừa nói vừa pha màu sắc, chọn những ngọn bút lông, để ý quan sát Yehonala, cô nói:
- Tôi chắc cô thắc mắc muốn biết làm sao tôi bảo cô chép lại những tác phẩm của Vương Vệ? Tôi có ý đó để cô nhận xét những nét vẽ rất tinh xảo của nhà danh hoạ. Tôi xem ý cô cũng nhẫn nại, kiên tâm. Nhưng sự kiên tâm, nhẫn nại phải được hướng dẫn và giám sát trong nội tâm. Có như thế sự nhẫn nại mới không uổng và trở thành một kì tài.
- Ý tôi muốn chấp vấn giáo sư.
- Tôi nghe, xin cô phát biểu ý kiến.
Giáo sư tay cầm ngọn bút lông vẽ những nét rất mảnh nhưng rất cứng cáp, mạnh mẽ trên một tờ giấy trải trên mặt bàn vuông. Yehonala hỏi:
- Thưa giáo sư, bao giờ tôi tự ý vẽ được một mình?
Giáo sư ngừng bút, lắng nghe tai nghe, ngồi im, mắt lơ đãng nhìn chỗ khác, một lúc sau trả lời:
- Cô sử dụng ngòi bút một mình không cần phải hỏi tôi chỉ dẫn nữa.
Yehonala không nói gì, câu trả lời đó đã rõ ràng, đầy đủ ý nghĩa. Nếu nàng được Hoàng thượng vời đến, không ai có quyền sai khiến, chỉ bảo được nàng, nàng leo lên một địa vị tuyệt đỉnh cao sang. Nàng cầm ngọn bút lông, nắn nót, phóng lại những bông hoa mai xen lẫn hoa cúc.
Đêm hôm đó, nàng đang ngủ, không biết lúc đó vào khoảng mấy giờ, có người lay vai nàng gọi dậy. Nàng không ngủ sớm nhưng khi đã ngủ thì ngủ rất say. Khi người ta lay nàng dậy, nàng mơ màng màng như ở trong hang tối chui ra, cố mở mắt, tai nghe con nữ tì nói:
- Dậy đi cô Yehonal! Dậy đi cô! Có lệnh Hoàng thượng triệu thỉnh! Thiên tử gọi, cô hiểu chưa?
Nghe nói thế, nàng hết buồn ngủ, vùng trở dậy, tỉnh táo, đẩy chăn, đem ra xa, nhảy xuống giường.
Người nữ tì nói:
- Nước tắm đã pha sẵn rồi, mời cô vào tắm ngay đi, trong bồn nước tắm, con có pha sẵn dầu thơm. Con đã lấy sẵn cho cô chiếc áo đẹp nhất màu hoa cà.
- Không, đừng lấy màu hoa cà, lấy cho tôi chiếc áo màu hoa đào.
Một bọn đàn bà kéo vào trong buồng, người nào cũng ngáp, còn ngái ngủ. Nào bà tổng giám thị, người làm đầu, người coi về nữ trang. Các cung phi chưa được nữ trang trừ phi có lệnh vua vời đến mới có quyền đeo. Yehonala quỳ trong bồn nước tắm, một nữ tì xát xà phòng thơm khắp người nàng, kì cọ. Người nữ tì nói:
- Bây giờ cô đứng lên, tôi lấy chiếc khăn bông lau ráo người cho cô, phải xức dầu thơm vào bảy lỗ khiếu, nhất là hai tai. Hoàng htượng thích tai đàn bà. Tai cô nhỏ nhắn, vành tai xinh. Cô nhớ ngoáy hai lỗ mũi cho thật sạch, còn những nơi kín, cô để đấy, phần tôi đảm nhiệm.
Yehonala đứng yên cho người nữ tì lau chúi tắm rửa phải làm gấp. Lý Liên Anh đứng chờ ngoài cửa, giục giã, đếm từng giây, từng phút. Hoàng thượng vừa thức dậy, ngài đang uống rượu và ăn bánh nhân thịt.
Người thái giám ghé mồm nói qua tấm màn cửa:
- Phải gấp gấp lên, nếu chềnh chàng lâu quá, ngài ngự cho gọi người khác. Tôi biết tính ngài nóng lắm, không chờ được lâu.
Người nữ tì trả lời:
- Xong rồi.
Nó đeo vội đôi vòng tay vào hai tay Yehonala rồi đẩy nàng ra mở cửa.
- Thôi đi đi, cô nàng.
Yehonala kêu lên:
- Con chó vẫn quẩn dưới chân nàng.
Lý Liên Anh nói:
- Không được, không được. Không được dắt chó đi theo.
Yehonal đột nhiên sợ, vội cúi ôm con chó vào lòng. Nàng giẫm chân, nói:
- Tôi muốn con chó đi theo.
Lý Liên Anh hét lên:
- Không thể được.
Con nữ tì chạy ra, hét lên như sấm:
- Trời đất quỷ thần ơi! Để mặc người ta đem theo con chó. Cái đó tuỳ thích, có làm gì anh phải làm ầm lên. Nếu cấm đoán, bắt buộc người ta quá, người ta không đi, liệu bọn mình có được yên không?
Yehonala đi vào biệt điện lúc đó vào nửa đêm, tay khư khư ôm con chó bé tí tẹo. Trước khi vào làm hoạn quan Lý Liên Anh học làm giày, nên ở trong cấm thành, người ta châm biếm, gọi hắn là “Đồ xi đánh giày.” Trong đêm hôm tối tăm giữa mùa hạ, Yehonala đi theo Lý Liên Anh trên những đường nhỏ hẹp ở trong cấm thành. Người thái giám đem một chiếc lồng soi đường, đi trước. Ánh sáng ngọn đèn chỉ vừa chiếu sáng bàn chân đi. Con nữ tì lẽo đẽo theo sau.
Những hòn đá ở đường ẩm ướt, những giọt sương đọng trên ngọn cỏ trắng như tuyết. Trong đêm hôm tĩnh mịch, không có một tiếng động, xa xa, thỉnh thoảng có tiếng đàn bà rên rỉ, thở dài nghe rất não nuột.
Tuy chưa được đến biệt điện bao giờ, Yehonala cũng như các cung phi khác, biết ngôi biệt điện trong cung thành, xung quanh là vườn Ngự Uyển bao bọc, nấp bóng dưới một ngọn tháp lớn “Vũ Hoa tháp.” Tháp có một hàng cột sơn son thiếp vàng, có chạm trổ rồng cuốn. Trong tháp thiết lập ba bàn thờ đặt bài vị của các chư thần. Từ đời Khang Hy, tất cả các vua, chúa đều đến đây hành hương, cầu bách thần ủng hộ.
Nàng đi qua ngôi đền đó rồi đến cổng biệt nơi Hoàng thượng ngự. Cánh cổng nặng trịch từ từ mở, người thái giám đưa nàng đi ngang qua một gian phòng rộng bát ngát, rồi qua những hành lang phăng lặng không có một bóng người ngoài mấy thái giám ngồi gác. Đi hết gian phòng rộng đến khuôn cửa khép, chạm những con rồng mạ vàng. An Đắc Hải người chưởng quản thái giám đã đứng chờ ở đó. Người này cao lớn, nét mặt lầm lì, hai tay khoang trước ngực, mặc chiếc áo vóc hoa màu đỏ sẫm, dây lưng mạ vàng óng ánh dưới ánh sáng của mấy ngọn nến thắp trên giá đèn bằng gỗ chạm trổ. Hắn không nói gì với Yehonal, lờ như không biết nàng là ai, bàn tay phải phất ra hiệu cho Lý Liên Anh lui ra ngoài.
Đột nhiên, người thái giám chưởng quản nom thấy đầu con chó nhô ra khỏi ống tay áo nàng.
Yehonala, cô không được phép đem theo chú chó vào phòng đức vua. Yehonala ngẩng đầu, giương to mắt nhìn thẳng vào mặt An Đắc Hải, lạnh lùng bảo:
- Nếu không được đem nó theo, tôi không vào.
Nàng nói mấy câu đó rất dõng dạc mạnh bạo, vẻ mặt thản nhiên, như việc vào hay không trong phòng vua là một vấn đề không đáng kể. An Đắc Hải nghe và thấy thái độ kì khôi đó, hắn sửng sốt:
- Cô to gan thực, dám ngạo mạn, thách đố Thiên tử á?
Nàng làm thinh không nói nữa lời, lấy tay vuốt ve con chó. Lý Liên Anh đến gần bảo An Đắc Hải:
- Anh Hải, con này ương ngạnh lắm, nó ăn nói như con nít không ra thể thống gì, nó liều mạng lắm, dữ như con cọp cái. Tất cả chúng em, ai cũng phải gờm nó. Nếu nó không chịu vào tống cổ nó vô. Em nghĩ không nên ép buộc nó, nó đầu bò đầu bưới bực mình lắm.
Cánh màn cửa đột nhiên hé mở sau lưng An Đắc Hải, một thái giám ở trong thò đầu ra nói:
- Sao trì chậm quá thế. Có cần Hoàng thượng ra đây phân xử vụ lộn xộn này không?
Lý Liên Anh muốn chấm dứt câu chuyện lằng nhằng, bảo An Đắc Hải:
- Anh Hải nên nghe em cho nó vào, nó giấu con chó thế nào kệ nó. Nếu nó không giấu được rồi, nó thả con chó ra, giao cho nữ tì ngồi chờ sẵn ở ngoài cửa.
Viên thái giám chưởng quản làm nét mặt rất nghiêm nghị, nhưng không sao khắc phục được. Yehonala vẫn trừng trừng nhìn thẳng vào mặt không chút e dè.
An Đắc Hải phải nhượng bộ. Hắn cằn nhằn, rầy la, nhưng cuối cùng phải chịu thua. Hắn dẫn Yehonala qua một phòng khác có những tấm màn cửa rất đầy, bọc vóc vàng, thêu rồng đỏ. Đằng sau tấm màn cửa là một khuôn gỗ nặng trịch, chạm trổ rồng, phượng.
An Đắc Hải vén tấm màn cửa, mở hé, ra hiệu bảo nàng bước vào. Lần này có một mình nàng vào, mọi người ở ngoài. Nàng đến trước mặt Thiên tử, ngự trên long sàng rất sớm, đặt trên một chiếc bục cao. Long sàn bằng đồng, bốn chân bằng gỗ mun, chạm rồng cuốn. Xung quanh bốn thành giường, có một hàng lang can bằng đồng mạ vàng, trên hàng lang can, chạm trổ những bông hoa, lá cây. Những chân rồng năm móng (ngũ trảo) đỡ những tấm lưới đó. Ngài mặc một chiếc áo lót bằng lụa đỏ, ống tay rộng, gài kín cổ, hai bàn tay nhỏ nhắn, nõn nà khoanh trước ngực. Yehonala đã nom thấy ngài một lần vào hôm tuyển trạch, hôm đó ngài đội vương miện, hôm nay ngài để đầu trần, tóc đen, cắt ngắn. Mặt ngài dài và hẹp, trán lồi. Một người đứng ở dưới, một người ngồi trên giường, bốn mắt nhìn nhau. Ngài ra hiệu nàng đến gần. Khoan thai, nàng tiến gần lại nàng, hai con mắt nàng vẫn nhìn thẳng vào mặt ngài. Gần đến nơi, nàng đứng lại.
Giọng mảnh dẻ, cao và trong, ngài nói:
- Mi là người đàn bà thứ nhất vào đây dám ngửng cao đầu nhìn trẫm, những người khác đều sợ không dám nhìn trẫm. Nàng nghe nói nghĩ bụng: “Chắc Sakota vào đây, mặt cúi gằm”, Sakota hiện giờ ở một gian phòng nào gần đây, Sakota tính nhút nhát, chắc khiếp sợ lắm. Ta chẳng sợ ai, ta đem cả con chó đi theo. Bọn cung phi bị bỏ rơi đã dạy nàng cách xưng hô, thế nào cho đúng lễ nghi chốn thêin đường. Nói với Thiên tử không như nói với người thường, phải dùng những từ ngữ riêng như: “Muôn tâu đức vạn tuế” hay “Muôn tâu Thánh thượng.” Yehonala bất chấp, nàng nói với vua như nói với mọi người, chẳng cần những sáo ngữ, những câu hoa mĩ.
Nàng vừa xoa đầu con chó vừa nói:
- Trước khi vào trong này, thiếp chưa được biết, chưa nghe thấy ai nói đến loại chó nhỏ này. Nay thiếp được một con thích quá.
Hoàng thượng hai mắt nhìn nàng, sửng sốt, thấy nàng nói năng rất tự nhiên, ngây thơ như một đứa trẻ nhỏ.
- Đến đây ngồi cạnh trẫm, nói cho trẫm biết sao mi không sợ trẫm?
Nàng leo lên bục ngồi ở mép giường, đối diện với vua, vẫn ôm kkhư khư ở tay con chó. Con chó con ngửi mùi nước bông, nó bị sặc, hắt hơi. Nàng nói: “Không biết mùi gì hắc quá làm con chó bị sặc?”
Vua trả lời:
- Mùi long não, nói cho trẫm biết sao mi không sợ trẫm?
Nàng cảm thấy trên mặt, trên môi, hai bàn tay vuốt ve con chó, hai con mắt một người đàn bà đang bị theo dõi từng lời nói, từng cử chỉ. Nàng rùng mình tuy đang giữa mùa Hạ, không có gió lạnh, nàng cúi đầu nhìn con chó. Một lúc sau nàng ngẩng đầu nhìn người đàn ông ngồi đối diện, nàng thỏ thẻ nói như một đứa trẻ:
- Thiếp biết số lí của thiếp.
- Mi biết số mi thế nào? Tại sao mi biết?
Tấn kịch nàng đã soạn thảo, bây giờ nàng đem ra diễn làm vua say mê, thích thú, để cả tâm trí nghe tiếng oanh thỏ thẻ. Nàng hé mở một nụ cười rất tươi, cong đôi vành môi mỏng, hai mắt long lanh tình tứ, không lạnh nhạt như hồi nãy. Giọng nói mềm mại, ngân vang, như cung đàn muôn điệu lúc bổng lúc trầm khiến người nghe phải say mê, thích thú.
- Từ khi cha thiếp qua đời, thiếp ở nhà người chú ruột cũng vừa là giám hộ. Hôm nhận được sắc chỉ triệu thỉnh để tuyển trạch, thiếp có đem vàng hương đến lễ ở đền thờ Đức Quan Âm. Thần thiếp đốt hương, khấn vái và…
Nàng nói đến đó ngừng lại, hai môi run run, cố mở một nụ cười, nửa tình tứ, nửa thẹn thò.