Từ Hy Thái Hậu - Chương 5 phần 04

Tuy vậy, bà cũng chưa tin tưởng vào ma thuật của quân quyền phỉ. Bà nghĩ không hiểu những ma thuật đó có thật hay không.

Bà cho bãi triều trờ về tư cung, không nói một lời nào với phế đế.

Quyết nghị tuyên chiến đã được hầu hết triều thần ưng thuận, bà đã thấy đỡ lo. Người mỏi mệt, đêm hôm đó, bà ngủ rất ngon giấc. Bà bảo bọn thể nữ:

- Để yên ta ngủ suốt ngày hâm nay, cấm không ai được đánh thức, làm mất giấc ngủ của ta.

Lúc đó vào giờ Mùi (hai giờ trưa) Tiếng Lý Liên Anh ở ngoài cửa làm bà thức dậy.

Lý Liên Anh ở ngoài cửa nói vào:

- Tâu Thái hậu, thân vương Chính đi cùng với Quang Hi xin vào bệ kiến.

Bà Thái hậu không thể không tiếp bọn này, bà vội vàng mặc áo, đội mũ ra.

Quang Hi sau khi sụp xuống lễ, tâu:

- Muôn tâu Thánh thượng, cuộc chiến đã thật sự bùng nổ. Sáng nay tên đội người Mãn Châu đã giết hai người ngoại quốc, trong số đó có viên lãnh sự người Đức đi kiệu, định đến xin yết kiến Thánh thượng. Người đội này có công đã giết hai người ngoại quốc, hắn vội đến thân vương Chính để xin lãnh thưởng.

Bà Thái hậu nghe lời báo cáo, lòng bà lo buồn như thắt ruột, thắt gan.

- Nhưng làm sao quân chúng đã biết khi sắc chỉ chưa được công bố? Tên đội chưa có lệnh đã tự sát hại, không có thưởng gì hết.

Thân vương Chính húng hắn ho, ấp úng tâu:

- Muôn tâu Thánh thượng, tình thế đã đến lúc nguy kịch, thân vương Tuấn và Chí Huấn, sau khi bãi triều đã ra lệnh thanh toán hết ngoại nhân trong kinh thành.

Nói xong hai người đưa mắt nhìn nhau. Quang Hi nói thêm:

- Muôn tâu Thánh thượng, quân thù phải chịu trách nhiệm. Tên đội xác nhận quan lính gác người da trắng đã bắn trước và giết chết ba người Hán.

Bà Thái hậu kêu lên:

- Khiếp quá... Khiếp quá...

Vẻ lo âu hiện trên nét mặt bà, hai tay xoắn vào nhau.

- Nhung Lữ đâu? Đi gọi Nhung Lữ đến ngay, nhanh lên. Chiến tranh bùng nổ sớm quá, ta chưa kịp sửa soạn gì hết.

Nói xong, bà quay phắt người, đi thẳng vào trong phòng.

Hai giờ sau, Nhung Lữ đến, nét mặt ủ ê buồn thảm.

Bà ra lệnh cho thái giám, thể nữ ra ngoài hết, bà hạ lệnh:

- Có chuyện cơ mật, cấm không ai được vào.

Bà nhìn Nhung Lữ đứng trước mặt, hai mắt hắn cúi xuống nhìn bà, bà nói giọng yếu ớt:

- Anh cho tôi ý kiến, tình thế khẩn trương, ta nên làm thế nào?

Giọng nói trầm trầm, nét mặt lo buồn, Nhung Lữ trả lời:

- Tôi cho bộ đội hộ tống người ngoại quốc ra bờ biển. Làm sao bà không chịu nghe lời tôi?

Bà Thái hậu ngoảnh đầu đi, lấy khăn tay lau nước mắt. Nhung Lữ lại nhắc lại:

- Bà đã không nghe lời tôi khuyên can, bây giờ bà lại hỏi ý kiến tôi?

Bà Thái hậu sụt sịt khóc, Nhung Lữ nói:

- Bà định lấy quỹ nào trả cho bọn quyền phỉ? Bà đừng tưởng họ làm không công đâu?

Bà nhìn Nhung Lữ, như muốn vật nài hắn giúp đỡ có phương kế gì hay, đột nhiên bà thấy mặt hắn tái đi, hai tay run run ôm ngực, hai chân như đứng không vững, muốn khuỵu xuống.

Bà vội vàng chạy đến đỡ, hai bàn tay hắn đã lạnh ngắt hai mắt hé mở vẻ đã đờ, hơi thở có vẻ khó khăn.

Bà kêu to:

Trời ơi! Trời ơi!

Các thể nữ chạy vào thấy bà Thái hậu quỳ cạnh viên cơ mật vụ, mọi người kêu ầm lên, bọn thái giám đến. Bà ra lệnh:

- Nhấc ông đặt lên giường.

Bọn thái giám khênh Nhung Lữ đặt lên trên trường kỉ, kê một chiếc gối dưới đầu, bà cho gọi ngự y khẩn cấp đến. Nhung Lữ nằm yên trên trường kỉ, hơi thở khò khè.

Viên ngự y tâu:

- Tâu Thái hậu viên cơ mật hiện đang đau, có lệnh Thái hậu triệu thỉnh, ông phải cố gắng gượng đến hầu.

Bà quay đầu, quắt mắt nhìn Lý Liên Anh.

- Sao mi không nói cho ta biết.

- Tâu Thái hậu, quân cơ mật không cho hạ thần trình lên Thái hậu.

Vì tình nghĩa thâm sâu với một người đã hi sinh suốt cả đời cho bà, bà cố nén lòng xúc động, đau đớn, bà lấy lại bình tĩnh, sai bảo thuộc hạ xung quanh:

- Đem ông về dinh, các quan ngự y, ngày đêm phải túc trực bên giường, chạy chữa. Báo cáo tình trạng sức khỏe của ông từng giờ một. Ta ra chùa lễ bái, kêu cầu.

Bọn thái giám phụng chỉ thi hành mệnh lệnh. Bà nói xong vội vã đến ngôi chùa riêng ở trong cung. Lúc đó vào giờ Tuất, nhá nhem tối.

Màn đêm rủ xuống, cảnh vật êm ả có vẻ buồn buồn, không có ngọn gió nào để xua đuổi cái nóng gay gắt ban ngày. Bà Thái hậu trong lòng buồn bã, lo âu, như một sức nặng ngàn cân đè trong tâm hồn bà. Bà đi thẳng đến bàn thờ đức Quan Âm. Bà thấp ba nén nhang, cắm vào lư hương bằng ngọc dưới ánh sáng chập chờn của mấy ngọn nến. Bà thấy chuỗi hạt ngọc ở trên bàn thờ, lẩm bẩm cầu khấn, tụng niệm.

- Chị cũng cô đơn như em, xin chị nghe lời kêu cầu xin chị phù hộ. Chị giải thoát cho em, những quân thù đang dòm ngó, ngấp nghé, muốn chiếm đoạt giang sơn cẩm tú này, đó là gia tài của ông cha em để lại. Chúng muốn chia cắt nước này như một quả dưa để nuốt dần. Xin chị giải thoát, giải thoát cho em. Đó là lời cầu nguyện thứ nhất của em. Em xin chị cứu tử cho người em yêu. Hôm nay hắn đã ngã quỵ trước mặt em. Có lẽ giờ tận số của hắn đã điểm. Chị giúp em, chị can thiệp với trời già cho hắn sống thêm. Nếu việc đó không thể được, chị phù hộ cho em lúc đơn độc hay bại trận, em vẫn được đường hoàng. Nét mặt chị không bao giờ thay đổi, sắc đẹp chị bao giờ cũng thế. Chị cho em sức mạnh tinh thần để được như chị.

Bà vừa kêu cầu vừa lần tràng hạt, tin tưởng lời cầu nguyện phần nào cũng được cảm ứng. Quân thù có thể thắng, người yêu có thể mệnh một, nét mặt bà vẫn không thay đổi, sắc đẹp vẫn như xưa, vẫn kiều diễm, vẫn duyên dáng. Bà vẫn giữ được quyền thế, uy lực.

Những tháng trong nước có chiến tranh, bà Thái hậu sống hoàn toàn cô đơn, không có ai để bàn bạc, san sẻ nỗi lo âu. Thân vương Ưng đến nói với bà:

- Tâu Thái hậu, quân quyền phỉ khi xuất trận có đem theo một lá bùa hộ mệnh: Một miếng giấy vàng hình tròn, vẽ một hình tượng kì quái, không phải người mà cũng không phải quỷ, không có chân, xung quanh đầu có bốn vòng hào quang. Trên khuôn mặt hình tam giác, hai con mắt đen dữ tợn. Hình thù kì quái có viết những chữ về yêu thuật: Ta là thần ở Hàn Vân, Hỏa thần, Lão Tử cũng trợ giúp ta. Ở bên trái, phía trên có viết những chữ: Bảo thủ thiên mô cấp cấp giáng hạ. Ở phía dưới bên phải có những dòng chữ: Hắc thần dịch khí cấp giáng hạ. Ai mà đọc mấy dòng chữ yêu thuật đó tự nhiên có linh ứng, đọc một lần thì một ngoại nhân trong nước sẽ chết. Tâu Thái hậu, học những dòng chữ đó có hại gì không?

- Không có hại.

Bà Thái hậu đọc đi đọc lại mấy chữ đó cho nhớ. Mỗi ngày bà đọc nhiều lần. Lý Liên Anh đến xem bà đọc được bao nhiêu lần thì có bao nhiêu người chết. Hắn nói chuyện với bà về yêu thuật của bọn quyền phỉ: “Khi lưỡi kiếm họ chém vào đâu nó tóe ra lửa. Khi họ bắt sống được một người ngoại quốc, họ làm lễ hỏi Trời nên giết hay không? Họ vo một nắm giấy vàng đốt, nếu tro bốc lên cao thì Trời bảo phải chết, nếu tro giấy rơi xuống thì tha tội giết.”

Bà Thái hậu không tin những chuyện huyễn hoặc, mơ hồ, song trong tình thế khẩn trương, nguy kịch, những chuyện tuy hoang đường cũng làm bà phấn khởi được phần nào.

Bà hi vọng ai đó sẽ đến giúp bà, cứu trợ bà. Ngày đêm bà đang lo nạn binh đao với người ngoại quốc, lại có những tin tức khủng khiếp, cấp báo: Dân chúng xao xuyến đang nổi lên chống đối, nạn hồng thủy gia tăng, nhiều làng không còn gì ăn chết đói như rạ, mùa màng thất thu, không thể gieo mạ được. Dân đói quá, đi cướp phá các nhà giàu và các nhà tu sĩ ngoại quốc, ở đó lúc nào cũng sẵn có tiền bạc, lương thực.

Bọn thầy tu ngoại quốc bị giết, bị cướp chỉ có một số nhỏ so với ngàn hàng, hàng vạn nạn nhân người Trung Hoa bị nạn cướp bóc, tuy vậy chính phủ của họ sẽ phái quân đội, tàu chiến đến nếu trật tự không được vãn hồi. Nhìn ra bốn bể năm châu, không một nước nào, một người nào để Thái hậu có hi vọng đến cứu trợ. Nhung Lữ nằm liệt trên giường bệnh. Tướng Viên Thế Khải đã tự kiểm chứng bọn quyền phỉ, không tin lời tuyên bố huênh hoang súng, đạn, gươm, giáo không làm gì được chúng, không chạm đến người chúng. Ông xin Thái hậu đừng cả tin vào bọn bịp bợm, khoác lác. Ông không giúp được gì, cũng không bàn bạc được điều gì ích lợi để vãn hồi trật tự.

Trong lúc đó, thân vương Tuấn đến quấy rầy bà, hắn khoe khoang có thể đẩy hết bọn người ngoại quốc ra biển nếu bà cho phép... Bà khất lần này sang lần khác, mong tình thế được sáng sủa, thanh bình trở lại. Thân vương Tuấn tự ý tán trợ quân quyền phỉ, vô cớ tấn công vào các lãnh sự quán. Viên tổng đốc Nam Kinh, bây giờ đã già nhưng rất trung thành với triều đình, gởi sở về, xin bà Thái hậu cấm chỉ những việc khiêu khích, tấn công người ngoại quốc, khẩn cầu bà cho bảo vệ kiều dân ngoại quốc.

Bà Thái hậu trả lời, gởi theo lối tống đạt đặc biệt công văn:

“Không phải do trẫm trong lòng thích thú khởi hấn. Khanh thông báo cho các lãnh sự quán ngoại quốc, trẫm muốn giao hảo với các chính phủ của họ, trên tinh thần hữu nghị, hiểu biết. Trẫm muốn đề nghị cùng các nước soạn thảo một quy chế, vì lợi ích chung, một giải pháp sống chung trong hòa bình.”

Bà cho soạn thảo một tờ công hàm gửi đi khắp các nước:

...Vì nhiều trường hợp ngẫu nhiên, dồn dập xảy tới rất bất lợi đã phát sinh ra sự mất trật tự, chúng tôi không biết giải thích thế nào đã xảy ra cuộc đao binh Trung Hoa với liệt cường Tây phương. Các đại biểu của chúng tôi ở hải ngoại, cách xa hàng vạn dặm không am hiểu trạng huống thực sự ở nước nhà và giải bày những cảm tình chân thật của chúng tôi.

Bà giải thích những trạng huống về chiến sự hiện tại, sự nổi dậy của quân giặc người Hán, bọn hạ lưu, ti tiện du đãng, lúc nào cũng sẵn sàng gây sự lộn xộn, bất ổn trong dân chúng. Triều đình đã can thiệp, ra chỉ thị cho các địa phương đề phòng, nếu không các tu sĩ ngoại quốc sẽ bị giết trên khắp lãnh thổ. Vì thế đã xảy ra chuyện một viên lãnh sự Đức bị giết và các chiến sĩ ngoại quốc muốn xâm chiếm các đồn lũy ở Thiên Tân. Viên quan chỉ huy người Hán không thể nào chấp thuận được. Người ngoại quốc đã oanh tạc các đồn ải đó.

Bà kết luận:

Xét như vậy, chúng tôi không chịu trách nhiệm về cuộc chiến này. Trung Hoa tự biết mình còn yếu kém, muốn được sống yên ổn, không có tham vọng. Gây chiến với toàn thể thế giới là một chuyện phi lí, điên rồ. Với bản công hàm này, chúng tôi trình bày trung thực những biện pháp để áp dụng do tình thế tạo nên. Những đại diện của chúng tôi ở ngoại quốc sẽ giải thích rõ ràng bản công hàm này. Chúng tôi đã ra chỉ thị cho các cơ quan binh vụ phải bảo hộ các sứ quán, chúng tôi sẽ cố vãn hồi trật tự cho cuộc sinh hoạt trở lại bình thường. Các tổng bộ trưởng, tất cả các cơ quan phải tăng năng lực để đạt tới mục tiêu đó. Không ai có thể hờ hững, khách quan trong lúc quốc gia đang gặp biến cố.

Bức công hàm đó bà thấy chưa đủ. Bà gửi cho các vua chúa liệt cường những bức điện văn do chính tay bà soạn thảo. Trong bức điện văn gửi cho Nga hoàng, bà viết:

Suốt trong hai thế kỉ rưỡi nay, hai nước chúng ta sống trong tình bằng hữu, giao hảo. Vì, gần đây, có sự bất đồng ý kiến của một nhóm người theo đạo Gia Tô và các đạo cổ truyền khác, bọn vô lại đã lợi dụng để gây rối cuộc trị an. Liệt cường ngoại quốc đã tưởng nhầm triều đình chúng tôi chủ trương bài xích đạo Gia Tô giáo.

Dưới bức điện văn, bà viết mấy dòng này:

Bây giờ, Trung Quốc đã gây nên, ngoài ý muốn của mình, mối bất hòa với liệt cường Tây phương. Chúng tôi kính nhờ quý quốc can thiệp để vãn hồi hòa bình, chấm dứt các sự bất đồng ý kiến với Tây phương. Tôi trân trọng kêu gọi Hoàng thượng đứng ra làm trọng tài, cứu giúp chúng tôi. Chúng tôi mong đợi quý quốc phúc đáp.

Bà Thái hậu viết cho nữ hoàng Anh Cát Lợi, trong bức điện văn lời lẽ rất thân mật, như viết cho một người chị. Bà nhấn mạnh việc thương mại của Trung Hoa phần lớn với Anh Cát Lợi. Bà nói:

Chúng tôi xin nữ hoàng xét, nếu chẳng may chúng tôi mất quyền tự chủ, quyền lợi quý quốc sẽ bị thiệt hại, không phải là nhỏ. Chúng tôi cố gắng thành lập một đạo quân đế tự vệ. Chúng tôi trân trọng yêu cầu quý quốc đứng làm trung gian, giàn xếp việc xích mích, để đem lại thanh bình trên đất nước chúng tôi. Chúng tôi mong được biết tôn ý.

Bà gởi một lá thơ cho Nhật hoàng, lá thơ mang chữ kí của bà và phế đế. Bức thơ gởi cho sứ thần Trung Hoa ở Đông Kinh, chuyển đệ lên Nhật hoàng.

Kính chào Hoàng thượng, Trung Hoa và Nhật Bản gắn liền như hai ngón tay của bàn tay. Âu Châu và Á Châu kết liên trong trận chiến, hai quốc gia Á Châu chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ. Các nước Tây phương như một đàn mãnh thú đói, muốn đi xâm chiếm đất đai. Họ không tha thứ, sẽ dòm ngó đến lãnh thổ quý quốc. Trước nguy cơ thiệt hại, hai nước chúng ta sẽ quên những xích mích cũ, kết liên làm huynh đệ chỉ bang. Chúng tôi trân trọng yêu cầu quý quốc làm trọng tài với bọn quân thù đang vây hãm chúng tôi.

Bà Thái hậu gởi giác thư, điện văn đi các nước để cầu cứu, nhưng bà không được một nước nào trả lời. Ngày đêm bà mong có thơ phúc đáp, lời kêu gọi của bà được hưởng ứng. Ngày đêm thân vương Tuấn đến thúc giục, quấy rầy bà.

- Tâu Thái hậu, bạn hay thù, thiện cảm hay ác cảm với triều đình, toàn thể các quan lại, lớn, nhỏ, cả đến quân giặc người Hán, đều căm thù, bất cộng đới thiên với bọn Gia Tô giáo bọn ngoại nhân, họ đến nước ta để buôn bán hay để huyễn hoặc dân chúng, truyền bá đạo của họ, đối nghịch với ý chí của chúng ta.

Bà Thái hậu bị hoàn toàn cô đơn, cô lập, thể chất cũng như tinh thần, không có tiếng nói của một người nào, một nước nào đáp lại lời bà, thần Phật thì trơ trơ trích trích. Ngày này sang ngày khác, suốt ngày, bà Thái hậu ở trong Long điện.

Các quan, các thân vương đứng im trong khi thân vương Tuấn nói. Xung quanh bà, hoàn toàn phẳng lặng, yên tĩnh. Nhung Lữ vẫn nằm liệt trên giường bệnh. Hè đến, ngày này qua ngày khác, trời nắng chang chang đã lâu không có mưa. Nền trời trong xanh không một cụm cây, một vẩn đục. Dân tình nhốn nháo, ta thán, dân đói quá, trộm cướp nổi lên như ong. Sau trận hồng thủy năm ngoái, tiếp đến năm nay hạn hán, tiêu khô. Dân chúng lầm than, thời buổi nhiễu nhương, thiên đình phẫn nộ, ra tai. Bà Thái hậu bề ngoài rất bình tĩnh, thực ra trong lòng rối như tơ vò, bà không còn chút hi vọng nào. Trong kinh thành, giặc cướp nhan nhản, quân quyền phỉ đầy đường. Những người tử tế có chút máu mặt đóng chặt cửa ở trong nhà. Các sứ quán đề phòng, sợ bị đánh úp bất ngờ, các cửa đóng hết, quân lính đặt trong tình trạng báo động.

Ngày 20 tháng 5, bà Thái hậu biết chờ đợi cũng vô ích không sao có thể ngăn cản được sự phá hoại, tiêu hủy. Mới sáng kinh thành đã đỏ rực lửa. Hàng trăm cửa tiệm bị tiêu hủy do quân giặc và quân quyền phỉ châm lửa đốt. Những người buôn bán giàu có, mạnh ai người ấy chạy toán loạn ra khỏi thành phố. Họ bồng bế, đem theo vợ con chạy loạn. Bọn quyền phỉ, giặc cướp tạo nên hỗn loạn, không phải họ nhắm vào người ngoại quốc mà thực ra để thúc giục triều đình và nhất là bà Thái hậu phải có thái độ dứt khoát. Ngày hôm đó, bà nhận một lúc hai tờ phúc trình của hai viên thượng thư Viên và Hứa, hai viên chức này làm ở bộ ngoại giao. Hai người này quả quyết, chính mắt họ nom thấy, lính ngoại quốc bắn chết quân quyền phỉ, xác hãy còn trên đường phố, trước lãnh sứ quán. Bọn quyền quý bắt buộc phải tự vệ. Phế đế có hỏi viên thượng thư Hứa, nếu thảng hoặc quân đội ngoại quốc tấn công, mình liệu có đủ sức đề kháng hay không? Câu trả lời, mình làm sao có thể chống cự nổi, làm vua ứa hai hàng nước mắt. Viên thượng thư Viên tuyên bố khi ông nghe thấy có cuộc tấn công vào lãnh sứ quán, là một thất bại lớn, mình đã vi phạm nặng nề về quốc tế công.

Bà Thái hậu do dự, không quyết định hành động. Bà oán trời, trách đất, biết trông cậy vào đâu?

Lời lẽ các tờ phúc trình cò vẻ hỗn xược, như quy trách nhiệm vào bà Thái hậu, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu bà. Ngày lại ngày, trong các sứ quán, người ngoại quốc sống như bị cô lập, vây hãm. Bà Thái hậu được tin báo những người trong sứ quán không tiếp xúc với bên ngoài, nên bị đói khát. Bà lo lắng cho số phận họ, nên truyền đem thức ăn và mấy thùng nước tốt để uống. Họ từ chối không nhận vì sợ nước có thuốc độc.

Ngày rằm tháng sáu âm lịch, tình thế đến hồi quyết liệt, gay cấn nhất. Có hàng trăm giáo dân người Hán bị quân quyền phỉ sát ở trước cửa nhà một thân vương.

Khi bà Thái hậu được tin bọn người vô tội bị sát hại, bà vô cùng xúc động, hai tay đưa lên bên tai, người run rẩy. Nếu người đi theo đạo Gia Tô chịu từ bỏ đạo, bà không bị bắt buộc phải lao mình vào chiến tranh tàn khốc này, nhưng bọn này ngoan đạo không chịu từ bỏ.

Bà còn nhận được những tin cấp báo ở Thiên Tân gởi về tình thế vô cùng cấp bách nguy ngập, quân đội ngoại quốc đã chiếm thành phố Thiên Tân, tiến quân về kinh thành để phá vỡ vòng vây của người Hán quanh các lãnh sứ quán. Quân đội hoàng gia thua liểng xiểng, cuốn cờ chạy toán loạn. Bà Thái hậu biết làm sao bây giờ, chỉ còn mong đợi thời cơ, lễ bái, cầu thần lực.

Ngày mùng 10 tháng 7, sự kêu cầu lễ bái hàng ngày của bà đã cảm ứng thấu đến cửu trùng, Nhung Lữ thoát khỏi cơn bạo bệnh. Bà ra chùa làm lễ tạ và cho người đem đến cho Nhung Lữ những giỏ món ăn ngoại quốc rất bổ dưỡng để chóng được bình phục. Bốn hôm sau, Nhung Lữ nằm trên cáng cho người khênh đến trình diện bà Thái hậu.

Nom thấy Nhung Lữ người ốm yếu, xanh xao, bà cho phép cứ nằm yên trên võng, không phải dậy. Bà ở trên ngai bước xuống, bắc một chiếc ghế, ngồi bên cạnh. Bà hỏi, tiếng nói nhỏ nhẹ, hịu dàng:

- Trong khi anh nằm đờ trên giường, hồn anh phảng phất nơi đâu?

- Hồn tôi bay bổng, phảng phất nơi đâu? Tôi quên hết không còn nhớ lại được. Tôi không hiểu nhờ vào uy linh nào tôi còn trở lại dương thế, chắc hẳn nhờ bà thành tâm kêu cầu cho tôi được qua cầu thoát nạn.

- Đúng vậy, tôi chí thiết chí thành, kêu cầu lễ bái cho anh được tai qua nạn khỏi. Anh có biết không chiến tranh hiện giờ đang hồi quyết liệt, Thiên Tân thất thủ, quân thù tiến tới gần kinh thành.

- Tôi biết tất cả. Lúc này phải tranh thủ thời gian, sớm ngày nào, bớt nguy nan ngày đó. Việc trước tiên phải bắt giữ thân vương Tuấn lại, bọn người ngoại quốc quy trách nhiệm cho hắn, hắn đã cổ võ, xúi giục bọn quyền phỉ làm càn. Chém đầu hắn cho người ngoại quốc nom thấy và minh oan cho Thái hậu lúc nào cũng chủ trương thái bình, giao hảo.

Bà Thái hậu bị chạm vào lòng tự ái, bà kêu lên:

- Anh nói sao? Đầu hàng quân thù? Chặt đầu thân vương Tuấn, cái đó không nói làm gì, nhưng đầu hàng? Không, không thể được, tôi không sao chịu như thế. Tất cả những gì suốt cả một đời tôi xây đắp, nay thành tro bụi.

Nhung Lữ rên giọng nói rất yếu ớt:

- Bà thật ương ngạnh, cổ hủ, không theo trào lưu, tôi không biết đến bao giờ bà mới chịu từ bỏ sự đi ngược trào lưu tiến hóa.

Hắn ra hiệu cho bọn phu khênh hắn đi. Bà Thái hậu nhìn hắn, ruột như thắt lại, để cho hắn đi không giữ lại.

Bà Thái hậu hãy còn cố tin tưởng vào yêu lực của bọn quyền phỉ. Một nửa kinh thành đã bị ngọn lửa thiêu rụi, quân đội ngoại quốc nhất định không chịu đầu hàng. Họ chờ quân cứu viện đến.

Ngày hôm thứ ba, năm lần liền, bà cho triệu tập các quan văn võ, thân vương... tụ họp ở cung Diên Thọ. Mặc dù người còn yếu, Nhung Lữ cũng cố gắng đến dự, ngồi ở hàng ghế các viên ngự sử. Nhung Lữ vẫn giữ vững lập trường, những lời khuyến nghị, trước sau như một, bà Thái hậu không chịu nghe theo. Các quan và thân vương câm như hến, mặt người nào cũng xanh xao, hốc hác, vừa lo vừa sợ, vừa mệt mỏi.

Trong khi mọi người ngậm miệng, im lặng, thân vương Ưng bô bô khoe khoang những bùa phép, thần chú của bọn quyền phỉ thật vô cùng lợi hại, thần sầu, quỷ khóc. Quân giặc (ngoại quốc) không sao qua được hào, một số đông bị chết đuối.

Nhung Lữ nghe trái tai quá, tuy người còn mệt, ông kêu lên:

- Quân quyền phỉ là một nắm lông trước gió, đã là một nắm lông trước gió, quân giặc đến như một trận cuồng phong, nắm lông bay hết không còn một sợi.

Lời tiên tri đó đã thành một sự thật hiển nhiên. Vào giờ Thân (3 giờ trưa), ngày hôm mùng 5, quận Lan hớt hải chạy vào thư viện, bà Thái hậu ngồi đọc sách ở đó, hắn kêu thét lên, bất chấp lễ nghi:

- Lão phật! Lão phật. Chúng vào đến đây rồi. Bọn quỷ sứ Gia Tô phá cổng tỉnh, giặc kéo vào như thác lũ.

Bà ngửng đầu lên, trái tim ngừng đập.

- Như thế, người anh họ ta nói đúng.

Bà gấp sách đứng dậy. Bà đứng yên suy nghĩ, lấy ngón tay cái và ngón tay chỉ cầm chiếc môi trên.

Quận Lan kêu lên:

- Thái hậu phải đi ẩn. Thái hậu và Thiên tử tạm lánh lên mạn Bắc.

Bà đang suy nghĩ, lắc đầu. Quận Lan vội vàng đi tìm Nhung Lữ đến. Hắn đến gần bà, tay chống gậy, đi chưa được vững, nhưng với lòng nhiệt thành muốn phục vụ bà. Bà ngồi xuống, hai bàn tay nắm lại, nhìn hắn với hai con mắt để lộ trong lòng vô cùng bối rối, lo sợ.

Nhung Lữ đến gần bà, tiếng nói mệt nhọc, yếu ớt:

- Bà phải nghe tôi. Bà không thể ở đây được, bà tượng trưng cho triều đình, bà ở đâu, trung tâm quốc gia ở đó. Đêm nay vào giờ Dần, trăng chưa lên, trời không sao. Bà phải lánh đi.

- Lại đi… Lại phải đi nữa…

- Việc như thế phải như thế, biết làm sao. Bà đã biết đường vất vả lại còn có người nọ người kia, không phải đi một mình.

- Có anh không?

- Không, tôi không đi. Tôi phải ở lại để tập trung tàn lực. Rồi bà sẽ về, cũng như lần trước bà đã trở về. Tôi phải ở lại để bảo vệ ngôi báu.

- Anh không có quân đội trong tay, bảo vệ bằng cách nào?

Bà gục đầu xuống. Nhung Lữ nhìn thấy những giọt nước mắt trên hàng lông mi rậm.

Nhung Lữ cố trấn tĩnh bà:

- Cái gì tôi không thể đạt được bằng sức mạnh, tôi dùng mưu trí. Tôi xin hứa bảo toàn ngôi báu cho bà:

Bà ngẩng đầu lên, người ta nhìn thấy trên gương mặt bà sự nhượng bộ. Không phải bà nghe Nhung Lữ rồi nhượng bộ. Nghĩ mà thấy thương và cũng vì tình cũ nghĩa xưa, Nhung Lữ nắm bàn tay bà một lúc. Nhung Lữ đi lùi ra xa một bước, trở lại vị trí theo đúng lễ nghi quân thần.

Tâu Thái hậu, thời giờ cấp bách, không nên trì hoãn. Hạ thần phải lo việc hóa trang Thái hậu và chọn người thay thế hạ thần đi hộ giá. Thái hậu phải xoa vào da một chất làm cho da thành màu nâu sậm, đầu đội chiếc nón như một nông dân. Bà lén rời khỏi hoàng cung, chỉ có hai thể nữ tháp tùng, đi đông quá có sự ồn ào rất bất tiện. Hoàng thượng hóa trang làm một nông phu. Các thứ phi ở lại hết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3