Trăng lạnh - Phần I - Chương 01 - 02
PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
Thời gian chết, nếu nó cứ qua đi theo tiếng tích tắc của những bánh xe bé tí; chỉ khi chiếc đồng hồ ngừng chạy, thời gian mới tồn tại.
WILLIAM FAULKNER
CHƯƠNG 1
“Mất bao lâu bọn chúng mới chết nhỉ?”
Gã đàn ông được hỏi câu đó có vẻ như không nghe thấy câu hoi. Gã lại nhìn gương chiếu hậu và tập trung lái xe. Vừa qua nửa đêm, các con phố khu Hạ Manhattan đã đóng băng. Một frông[1] khí lạnh lẽo quét quang đãng bầu trời, thổi cho những bông tuyết rơi lúc trước kết thành một lớp bóng láng trên mặt đường nhựa. Hai gã đàn ông đang ngồi trong chiếc Band-Aid-di động[2] chạy rất tít – đó là cách Vincent Láu gọi chiếc SUV màu nâu vàng. Nó chạy đã mấy năm, đã đến lúc cần kiểm tra phanh và thay lốp. Nhưng mang một chiếc xe ăn cắp đi bảo dưỡng đâu phải ý tưởng không ngoan, nhất là khi hai hành khách mới đây của nó lại là hai nạn nhân của một vụ án mạng.
[1] Front: khoảng không gian hay bề mặt ngăn cách hai khối khí có thuộc tính nhiệt - ẩm khác nhau. (Các chú thích là của người dịch.)
[2] Band-Aid là nhãn hiệu băng dính y tế của hãng dược phẩm và thiết bị y tế Johnson & Johnson, Mỹ, một mặt có màu nâu vàng (ám chỉ màu của chiếc SUV, dạng viết tắt của Sport Utiliti Vehicle – dòng xe đa dụng).
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www. gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu sách. ]
Tay tài xế - vóc dáng rắn chắc ở tuổi năm mươi, với mái tóc cắt gọn gàng – cẩn thận rẽ vào một con phố phụ và tiếp xúc cuộc hành trình, không tăng tốc, thực hiện những lần cua xe chính xác, giữ cho xe chạy chính giữa làn đường của mình. Gã sẽ lái xe y như thế, dù cho các con phố có khô khao hay trơn trượt, dù cho chiếc xe có vừa dính dáng đến án mạng hay chẳng hề gì.
Cẩn thận, tỉ mỉ.
Mất bao lâu?
Vincent Bự – Vincent với những ngón tay dài, mập mạp, lúc nào cũng ướt át, và chiếc thắt lưng màu nâu kéo ra đến nấc cuối cùng vẫn chật căng quanh bụng – run lập cập. Gã đã phải đứng đợi nơi góc phố sau ca làm ban đêm của mình – một nhân viên xử lí văn bản. Trời lạnh thấu xương, nhưng Vincent không thích dãy hành lang nơi gã làm việc. Ánh đèn thì xanh nhợt nhạt và các bức tường gắn những tấm gương lớn khiến gã có thể tự soi lấy tấm thân hình chum từ mọi góc độ. Vì thế mà gã đã bước ra bầu không khí tháng Mười hai giá lạnh, thoáng đãng, đi tới đi lui, chén một thanh kẹo. Chà, chén luôn hai thanh.
Khi Vincent đang liếc nhìn lên mặt trăng tròn vành vạnh – chiếc đĩa trắng toát hiện ra chốc lát giữa hai tòa nhà – Thợ Đồng Hồ nói to ý nghĩ của mình: “Mất bao lâu bọn chúng mới chết nhỉ? Thật thú vị.”
Vincent chỉ vừa quen Thợ Đồng Hồ – tên thật là Gerald Duncan – nhưng gã đã biết rằng người nào đặt ra cho Duncan một câu hỏi là người ấy phải gánh lấy mọi bất trắc. Thậm chí một câu hỏi đơn giản cũng có thể mở cánh cửa vào một mạch độc thoại dài dằng dặc. Và gã trả lời lúc nào cũng đâu ra đấy, hệt như một vị giáo sư đại học. Vincent biết rằng mấy phút im lặng nãy giờ là do Duncan đang cân nhắc câu trả lời.
Vincent bật nắp một lon Pepsi. Gã thấy lạnh nhưng muốn thứ gì đó ngòn ngọt. Gã uống ừng ực rồi đút cái vỏ lon vào túi áo khoác. Gã chén một gói bích quy bơ lạc. Duncan nhìn sang để chắc chắn rằng Vincent đang đeo găng tay. Bọn gã luôn luôn đeo găng tay trong chiếc Band-Aid-di động.
Thận trọng, tỉ mỉ…
“Theo tao thì câu hỏi ấy có vài câu trả lời”, Duncan nói với giọng thờ ơ, nhẹ nhàng. “Giả dụ, kẻ thứ nhất tao giết hai mươi tư tuổi, vậy mày có thể bảo là y mất hai mươi tư năm trên đời này mới chết.”
Giả dụ, ôi dào…Vincent Láu nghĩ với sự mỉa mai của một gã thiếu niên, mặc dù gã phải thừa nhận câu trả lời hiển nhiên này đã chẳng xuất hiện trong đầu óc mình.
“Kẻ kia ba mươi hai, tao cho là thế.”
Một chiếc xe cảnh sát phóng qua, theo hướng ngược lại. Mạch máu ở thái dương Vincent đập thình thịch nhưng Duncan không phản ứng gì. Toán cảnh sát không tỏ ra chú ý đến chiếc Explorer ăn cắp.
Duncan tiếp tục. “Một cách khác để trả lời câu hỏi ấy là xem xét khoảng thời gian kể từ lúc tao bắt đầu hành động tới lúc tim bọn chúng ngừng đập. Có lẽ mày nghĩ về điều này. Thấy không, người ta cứ muốn đặt thời gian vào cái khung quy chiếu dễ hiểu. Nó hợp lí chừng nào nó ích lợi. Ích lợi khi biết rằng người vận động viên chạy mỗi dặm mất ba phút năm mươi tám giây, và thế là anh ta chiến thắng. Cụ thể thì đêm nay mất bao lâu bọn chúng mới chết… ờ, việc ấy không quan trọng, miễn nó đừng diễn ra nhanh chóng”. Một cái liếc nhìn sang Vincent. “Tao không định phê phán câu hỏi của mày.”
“Có sao đâu”, Vincent đáp, chẳng bận tâm mình bị phê phán hay không. Vincent Reynolds ít bạn và chịu đựng được Gerald Duncan. “Tôi chỉ tò mò thôi.”
“Tao hiểu. Có điều tao đã quên bấm giờ. Nhưng kẻ tiếp theo, tao sẽ nhớ.”
“Cô gái ấy à? Ngày mai à?” Trái tim Vincent đập gấp gáp hơn một chút.
Duncan gật đầu. “Mày muốn nói là hôm nay đấy.”
Đã qua nửa đêm. Đối với Gerald Duncan, người ta phải thật chính xác, đặc biệt khi đề cập tới thời gian.
“Ừ.”
Vincent Đói Khát bấy giờ đã đánh hơi thấy Vincent Láu đang nghĩ về Joanne, cô gái sẽ là người kế tiếp kết thúc mạng sống.
Hôm nay…
Sát thủ lái xe đi theo một tuyến phức tạp để trở về chỗ ở tạm thời của hai gã tại quận Chelsea, khu Manhattan, phía nam Midtown[3], gần sông. Ngoài đường vắng tanh. Trời lạnh chừng mười mấy độ[4] và dọc các con phố hẹp gió thổi miệt mài.
Duncan đỗ xe vào lề đường, tắt máy, cài phanh. Hai gã bước ra khỏi xe, đi bộ chừng nửa khối phố trong gió lạnh băng. Duncan liếc nhìn bóng mình đổ xuống vỉa hè, dưới ánh trăng. “Tao vừa có một câu trả lời khác. Về chuyện mất bao lâu bọn chúng mới chết.”
Vincent lại rùng mình – chủ yếu vì lạnh, nhưng không hẳn vì thế.
“Nếu mày xem xét vấn đề theo quan điểm của bọn chúng”, tên sát thủ nói, “mày có thể bảo là cực kì lâu.”
[3] Midtown (trung), cùng với Uptown (thượng) và Downtown (hạ), là một trong ba phân khu chính của Manhattan, New York.
[4] oF, khoảng 10oC.
CHƯƠNG 2
Đó là cái gì?
Từ chiếc ghế dựa kêu cọt kẹt trong văn phòng ấm áp, người đàn ông to lớn nhấm nháp cà phê và nheo mắt dưới ánh nắng chói buổi sáng nhìn về đầu đằng kia của cầu tàu. Ông ta là nhân viên giám sát buổi sáng công ti sửa chữa tàu kéo trên sông Hudson, phía bắc khu Greenwich Village. Bốn mươi phút nữa sẽ có một chiếc Moran chạy loại động cơ diesel hạng bét cập bến, còn lúc này cầu tàu không bóng thuyền bè và ông ta đang tận hưởng sự ấm áp trong căn phòng, nơi ông ta ngồi gác chân lên bàn, ấp tách cà phê trước ngực. Ông ta lau chút hơi nước đọng ở cửa sổ và lại nhìn ra.
Đó là cái gì?
Một chiếc hộp nhỏ màu đen nằm bên mép cầu tàu, mép đối diện với Jersey. Nó không ở đó khi cầu tàu đóng lúc sáu giờ hôm qua, và sau khi cầu tàu đóng thì không ai cập bến được. Phải từ phía bờ. Một hàng rào mắt cáo ngăn người đi bộ và khách qua đường, nhưng, từ trường hợp những dụng cụ và thùng rác thất lạc, người đàn ông biết rằng, nếu ai đó muốn, họ có thể đột nhập được.
Nhưng tại sao bỏ lại cái gì thế?
Người đàn ông nhìn chằm chặp một lúc, nghĩ ngợi. Bên ngoài trời lạnh, gió thổi ù ù, tách cà phê là thứ hoàn toàn thích hợp. Rồi ông ta quyết định. Rõ khỉ, đi kiểm tra thì hơn. Ông ta khoác chiếc vét tông dày màu xám, mang găng tay và mũ, tợp ngụm cà phê cuối cùng, bước ra bầu không khí lạnh ngợp thở.
Người nhân viên giám sát đi xuyên qua những cơn gió dọc theo cầu tàu, cặp mắt chảy nước tập trung vào chiếc hộp màu đen.
Nó là cái thứ chết tiệt gì? Chiếc hộp hình chữ nhật, cao chưa tới ba mươi centimét, và ánh mặt trời yếu ớt phản chiếu rõ rệt một cái gì đó ở phía trước. Ông ta nheo mắt tránh ánh chói. Làn nước bạc của sông Hudson vỗ ì oạp dưới chân cầu.
Cách chiếc hộp khoảng ba mét, ông ta dừng lại, nhận ra nó là cái gì.
Một cái đồng hồ treo tường. Một cái đồng hồ kiểu cổ, với những con số ngộ nghĩnh – những con số La Mã – và một hình trăng ở phía trước. Trông đắt tiền. Ông ta liếc nhìn đồng hồ đeo tay, thấy cái đồng hồ đang chạy, giờ giấc chính xác. Ai mà để một vật đẹp đẽ thế này ở đây? Thôi được, coi như ta vớ được một món quà.
Ông ta tiến bước định cầm cái đồng hồ lên thì trượt chân và một thoáng chốc trong ông ta chỉ còn nỗi hoảng sợ rằng ông ta sẽ ngã nhào xuống sông. Nhưng ông ta ngã xuống một mảng băng lúc trước ông ta không trông thấy và không bị trượt thêm nữa.
Nhăn mặt vì đau, thở hổn hà hổn hển, ông ta gượng đứng dậy. Ông ta liếc nhìn xuống, nhận ra mảng băng này khác thường. Nó có màu nâu đỏ.
“Ôi, lạy Chúa”, ông ta thì thầm khi nhìn chằm chằm vũng máu lớn đọng gần cái đồng hồ và đã đóng băng bóng loáng. Ông ta cúi về phía trước và càng kinh hoàng hơn bởi những vết máu ở đó – tựa như những vết móng tay vấy máu cào trên sàn gỗ của cầu tàu, tựa như ai đó với những ngón tay hay cổ tay bị cứa đứt đã bám vào để khỏi rơi xuống dòng sông chảy rất xiết.
Ông ta rón rén đi ra mép cầu tàu, nhìn xuống. Không có ai nổi giữa những lớp sóng bập bềnh. Ông ta không ngạc nhiên, nếu điều ông ta hình dung là sự thực, vũng máu đã đóng băng có nghĩa kẻ tội nghiệp ấy đã ở đây lâu rồi, nếu không được cứu, cái xác lúc này đã nửa đường đến đảo Tự Do[5].
Vừa sờ soạng tìm điện thoại di động, ông ta vừa quay bước và dùng răng tháo găng. Liếc nhìn cái đồng hồ lần cuối cùng, ông ta vội vã trở về văn phòng, bấm phím gọi cảnh sát bằng ngón tay múp míp run rẩy.
[5] Liberti Island: Một hòn đảo nhỏ, không có người sinh sống nằm ở khu Thượng trong vịnhNew York.
* * *
Trước và Sau.
Thành phố giờ đã khác, sau buổi sáng tháng Chín ấy, sau vụ nổ, cái đuôi khói khổng lồ, và những tòa nhà biến mất.
Bạn không thể phủ nhận điều đó. Bạn có thể nói tới tính kiên cường, dũng khí, thái độ trở-lại-với-công-việc của người New York và đó là sự thực. Nhưng người ta vẫn thoáng ngừng lại khi những chiếc máy bay lượn vòng lần cuối cùng để đáp xuống sân bay LaGuardia[6]và chúng dường như bay thấp hơn bình thường một chút. Bạn băng ngang con phố, tránh xa cái túi mua hàng bị bỏ rơi trên đường. Bạn chẳng ngạc nhiên nhìn thấy binh lính hay cảnh sát mặc đồng phục sẫm màu mang súng máy đen sì kiểu quân sự.
[6] LaGuardi: Một trong số ba sân bay chính ở New York, đặt theo tên của Fiorello Henry LeGuardia – Thị trưởngNew Yorktừ năm 1934 đến năm 1945.
Đám rước lễ Tạ ơn đến rồi lại đi không sự kiện và giờ kì Giáng sinh đang vào lúc sôi nổi nhất, người ta tụ tập khắp nơi. Nhưng lơ lửng bên trên cảnh hội hè, tựa như bóng phản chiếu nơi cửa kính hiệu bách hóa, là hình ảnh dai dẳng của tòa tháp đôi không còn ở đó nữa, những con người không còn bên cạnh chúng ta nữa. Và, lẽ dĩ nhiên, câu hỏi lớn là: Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?
Lincoln Rhyme có cái Trước và Sau của riêng mình và anh rất hiểu khái niệm này. Đã có khoảng thời gian anh có thể đi bộ và vận động, rồi thì đến khoảng thời gian anh không thể nữa. Vừa đó, anh còn mạnh khỏe như bao người, khám nghiệm một hiện trường vụ án, chỉ một phút sau một thanh rầm làm cổ anh gẫy rắc và để lại cho anh chứng liệt tứ chi mức độ C4, từ vai trở xuống gần như liệt hoàn toàn.
Trước và Sau…
Có những khoảnh khắc biến đổi bạn vĩnh viễn.
Tuy nhiên, Lincoln Rhyme tin rằng, nếu bạn coi những khoảnh khắc ấy như những bức tranh thánh quá linh thiêng, chúng sẽ càng có tác dụng mạnh mẽ hơn. Và những kẻ xấu xa sẽ chiến thắng.
Lúc này đây, trong buổi sáng sớm của một ngày thứ Ba lạnh lẽo, những ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu Rhyme khi anh lắng nghe cô phát thanh viên đài Truyền thanh Quốc gia[7], bằng cái giọng đanh thép trên sóng FM, thông báo về một buổi diễu hành sẽ diễn ra vào ngày kia, tiếp theo là những lễ lạt và họp hành của các quan chức chính phủ, tất cả nếu hợp lẽ thì phải được tổ chức ở thủ đô. Nhưng thái độ sát-cánh-với-New York đã trở nên thịnh hành và các khán giả, cũng như những người phản đối, sẽ đổ đến, gây tắc nghẽn phố xá, khiến cuộc sống phố Wall càng khó khăn hơn nhiều. Tương tự chính trị là thể thao. Những trận đấu quyết định đáng lẽ được tổ chức ở New Jersey nay được lên lịch cho Madison – như một sự phô bày, vì lí do nào đấy, lòng ái quốc. Rhyme hoài nghi tự hỏi liệu sang năm giải đua marathon Boston có được tổ chức ở New York hay không.
[7] National Public Radio: Viết tắt là NPR.
Trước và Sau…
Rhyme đã đi tới chỗ tin tưởng rằng bản thân anh chẳng đổi khác lắm ở giai đoạn Sau này. Thể chất của anh hay như bạn có thể nói, hình dáng của anh, đã thay đổi. Nhưng bản chất anh vẫn là con người ở giai đoạn Trước: một cảnh sát và một nhà khoa học nôn nóng, tính khí thất thường (vâng, đôi khi đáng ghét), nghiêm khắc và không dung thứ cho sự bất tài cùng thói lười biếng. Anh không ỷ mình què quặt, không rên rỉ, không quan trọng hóa tình trạng của mình (mặc dù giờ hồn cho chủ những tòa nhà nào không thực hiện đúng các quy định căn cứ theo Luật Người Khuyết tật về chiều rộng cửa ra vào và đoạn dốc dẫn lên bậc thềm, nếu anh có mặt tại hiện trường vụ án xảy ra trong những tòa nhà đó).
Khi Rhyme lắng nghe bản thông báo, cái thực tế là một số người dân thành phố dường như đang không vượt qua được sự tự thương hại mình làm anh phát cáu. “Tôi sẽ viết một bức thư”, anh bảo Thom.
Anh chàng phụ tá trẻ tuổi mảnh khảnh, mặc chiếc quần sẫm màu, áo sơ mi trắng và áo len dày (ngôi nhà ở đường Tây Công viên Trung Tâm của Rhyme phải chịu đựng hệ thống sưởi tồi tệ và vật liệu cách nhiệt cũ kĩ) đang trang trí cho lễ Giáng sinh ngẩng nhìn lên. Rhyme thích thú với nét châm biếm anh đã tạo ra khi đặt một cây thường xanh bé tí trên bàn, bên dưới nó đã có một món quà, tuy không được bọc lại, đợi sẵn: một chiếc hộp đựng bỉm loại dùng một lần dành cho người lớn.
“Thư ạ?”
Rhyme trình bày cái lí thuyết của anh rằng nếu cứ đề cập đến chuyện buôn bán thương mại như mọi khi thì tinh thần ái quốc lại cao hơn. “Tôi sẽ xạc cho bọn họ một trận. Tôi nghĩ là tờ Thời báo.”
“Tại sao không?”, anh chàng phụ tá hỏi. Công việc của anh ta được gọi là “điều dưỡng viên” (tuy vậy theo anh ta thì, làm cho Lincoln Rhyme, anh ta phải được mô tả thực sự là “ông thánh”).
“Tôi sẽ làm”, Rhyme đáp cứng rắn.
“Tốt đấy… thế nhưng, một vấn đề.”
Rhyme nhướn một bên mày. Nhà hình sự học có thể – và đã – diễn đạt được rất nhiều, nhờ những phần cơ thể còn hoạt động: vai, mặt và đầu.
“Hầu hết những người nói sẽ viết thư rốt cuộc đều không viết. Những người viết thật thì chỉ đơn giản là bắt tay vào việc và viết thôi. Họ chẳng cần thông báo. Anh có bao giờ nhận ra điều ấy không?”
“Cảm ơn cậu vì sự hiểu biết sâu sắc về tâm lí học, Thom ạ. Cậu biết rằng lúc này không gì ngăn cản nổi tôi đâu ”
“Tốt”, anh chàng phụ tá nhắc lại.
Sử dụng cái điều khiển bằng cảm ứng, nhà hình sự học lái chiếc xe lăn Storm Arrow[8] đến gần hơn một trong sáu màn hình phẳng lớn đặt trong căn phòng.
[8] Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.
“Lệnh”, anh nói vào hệ thống nhận giọng, qua chiếc mic gắn ở xe. “Soạn thảo văn bản.”
Tuân theo câu lệnh, cửa sổ WordPerfect mở ra trên màn hình.
“Lệnh, gõ. Thưa các vị. Lệnh, phẩy. Lệnh, xuống dòng. Lệnh, gõ. Tôi đã để ý thấy là…”
Chuông cửa reo và Thom đi ra xem ai tới.
Rhyme nhắm mắt lại và đang soạn thảo lời mắng mỏ thế giới thì một giọng nói đột ngột vang lên. “Này, Linc. Chúc Giáng sinh vui vẻ!”
“Ừm, cũng chúc anh như thế”, Rhyme lầu bầu với Lon Sellitto bụng phệ đang bước vào. Viên thám tử to béo phải thận trọng di chuyển. Căn phòng vốn dĩ là một phòng khách cổ lỗ kiểu thời Victoria nhưng nay đầy ắp các dụng cụ khám nghiệm: các kính hiển vi quang học, một kính hiển vi điện tử, một máy tách hợp chất, các giá và cốc thủy tinh phòng thí nghiệm, ống hút, đĩa nuôi cấy tế bào, máy li tâm, hóa chất, sách, tạp chí, máy tính – rồi dây điện dày chạy khắp nơi trong căn phòng. (Khi Rhyme bắt đầu tiến hành công việc tư vấn khám nghiệm hiện trường tại ngôi nhà này, đám thiết bị ngốn điện ấy thường xuyên gây nổ cái ngắt điện. Lượng điện tiêu thụ ở đây có lẽ bằng tổng lượng điện tiêu thụ của tất cả những người khác trong cùng tòa nhà.)
“Lệnh, âm lượng, mức ba.” Thiết bị điều khiển môi trường lập tức hạ âm lượng đài Truyền thanh Quốc gia.
“Bây giờ chúng ta không có tâm trạng hội hè, nhỉ?” viên thám tử hỏi.
Rhyme chẳng trả lời. Anh lại nhìn màn hình.
“Này, Jackson.” Sellitto cúi xuống nựng chú chó nhỏ lông dài nằm cuộn tròn trong chiếc hộp đựng chứng cứ của Sở Cảnh sát New York. Chú ta đang tạm thời ở đây. Người chủ trước của chú, bà bác già của Thom, mới mất ở Westport, Connecticut, sau một thời gian dài đau ốm. Trong số các món anh thanh niên được thừa kế có Jackson, chú chó giống Havanese. Giống chó này, là bà con với giống Bichon Frise, gốc gác từ Cuba. Jackson ở đây tới chừng nào Thom tìm được cho chú ta một chỗ ở tử tế.
“Chúng ta có một vụ nghiêm trọng, Linc ạ”, Sellitto nói và đứng dậy. Ông ta định cởi áo khoác rồi lại thôi. “Lạy chúa, trời lạnh quá. Đây là đợt lạnh nhất à?”
“Không biết nữa. Không xem kênh thời tiết mấy.” Rhyme suy nghĩ về một đoạn mở đầu hay ho cho bức thư anh gửi ban biên tập.
“Nghiêm trọng”, Sellitto nhắc lại.
Rhyme nhướn mày liếc nhìn Sellitto.
“Hai người chết, cùng một kiểu gây án. Ít nhiều là thế.”
“Khối vụ nghiêm trọng ở ngoài kia, Lon. Sao những vụ này lại có gì nghiêm trọng hơn cơ chứ?” Như vẫn thường xảy ra vào những ngày tẻ nhạt giữa các vụ án, tâm trạng của Rhyme rất tồi tệ. Trong tất cả các đối tượng anh từng gặp, đối tượng tồi tệ nhất là cảnh buồn chán.
Nhưng Sellitto đã làm việc với Rhyme bao nhiêu năm nay và đã miễn dịch trước thái độ của nhà hình sự học. “Một cú điện thoại từ Tòa nhà Lớn[9]. Các cốp muốn anh và Amelia đảm nhận vụ này. Họ báo rằng họ yêu cầu đấy.”
[9] Big Building: Cơ quan hành chính Long Island, thuộc Queens (khu vực hành chính lớn nhất trong năm khu vực hành chính của thành phố New York).
“Ồ, yêu cầu ấy à?”
“Tôi cam đoan tôi sẽ không nhắc lại với anh là họ bảo vậy. Anh không thích bị yêu cầu.”
“Chúng ta đi đến phầnnghiêm trọngđược chăng, Lon? Hay như thế là đòi hỏi nhiều quá?”
“Amelia đâu?”
“Ở Westchester[10], đang làm một vụ. Cô ấy chắc sắp về.”
[10 ]Westchester: Một hạt thuộc bangNew York, nơi tập trung các cơ quan thực thi pháp luật.
Viên thám tử giơ ngón tay lên ra hiệu chờ vì điện thoại di động của ông ta đổ chuông. Ông ta trao đổi, gật đầu và ghi chép. Rồi ông ta kết thúc cuộc gọi, liếc nhìn Rhyme. “Được lắm, chúng ta có thông tin đây. Vào đêm hôm qua đối tượng của chúng ta, hắn đã chộp lấy…”
“Hắn?”, Rhyme nhấn mạnh.
“Vâng. Chúng ta chưa chắc chắn giống đực hay giống cái.”
“Giới tính.”
“Cái gì?”
Rhyme nói: “Giống là một khái niệm ngôn ngữ. Nó đề cập những từ chỉ nam và nữ trong từng ngôn ngữ nhất định. Giới tính là một khái niệm sinh học, phân biệt các bộ phận cơ thể của nam và nữ.”
“Cảm ơn bài học ngữ pháp”, viên thám tử lẩm bẩm. “Nó sẽ hữu ích chăng nếu tôi lên chương trình Jeopardy[11]! Dù sao, hắncũng đã chộp lấy kẻ tội nghiệp nào đấy và đưa đến cái cầu tàu trên sông Hudson. Chúng ta không chắc chắn làm về cách hắn hành động, nhưng hắn đã buộc người đàn ông, hoặc phụ nữ, đó treo mình lơ lửng bên trên sông, rồi cứa đứt cổ tay người này. Nạn nhân đã cố gắng bám một lúc lâu, xem chừng đủ lâu để mất cả vũng máu, tuy nhiên cuối cùng đành buông tay ra.”
[11] Jeopardy: Một chương trình trò chơi tìm hiểu kiến thức trên truyền hình Mỹ.
“Xác?”
“Chưa thấy. Lực lượng Tuần tra Bờ biển và Đơn vị Phản ứng nhanh đang tìm kiếm.”
“Lúc nãy tôi nghe là số nhiều.”
“Phải. Vài phút sau chúng tôi nhận được cú điện thoại nữa. Tới kiểm tra một con hẻm ở khu trung tâm, gần đường Broadway. Đối tượng có thêm nạn nhân. Một đội dân phòng phát hiện ra người thanh niên bị trói bằng băng dính nhựa trong tư thế nằm ngửa. Đối tượng treo một thanh kim loại, nặng cỡ ba mươi lăm ki-lô, bên trên cổ anh ta. Nạn nhân đã phải giữ cho nó không nén xuống để khỏi bị vỡ họng.”
“Ba mươi lăm ki-lô? Được, xét về sức lực, tôi công nhận giới tính của đối tượng hẳn là nam.”
Thom bước vào phòng với cà phê và bánh nướng. Sellitto, mà trọng lượng cơ thể luôn luôn là một vấn đề, nhặt chiếc bánh hạnh nhân mặt phết kem và rắc lạc trước hết, chế độ ăn kiêng của ông ta được bỏ qua trong các dịp lễ. Ông ta chén xong nửa chiếc bánh, vừa lau miệng vừa tiếp tục. “Vậy, nạn nhân đã đỡ thanh kim loại lên. Có lẽ anh ta đã đỡ một lúc lâu, nhưng cuối cùng đành chịu.”
“Nạn nhân là ai?”
“Tên là Theodore Adams. Sống gần công viên Battery. Đêm hôm qua một phụ nữ gọi cho 911 nói rằng anh trai chị ta đáng lẽ đã đến ăn tối với em mình nhưng lại không thấy đâu. Đó là cái tên do chị ta cung cấp. Sáng nay cảnh sát khu vực sẽ gọi cho chị ta.”
Lincoln Rhyme thường không thấy những mô tả nhẹ nhàng là hữu ích. Tuy nhiên, anh thừa nhận từ nghiêm trọng phù hợp với tình hình này.
Cả từ hấp dẫn nữa. Rhyme hỏi: “Tại sao anh bảo cùng một kiểu gây án?”
“Đối tượng để lại một danh thiếp ở cả hai hiện trường. Những chiếc đồng hồ treo tường.”
“Đang chạy?”
“Phải. Chiếc thứ nhất gần vũng máu trên cầu tàu. Chiếc còn lại bên cạnh đầu nạn nhân. Có vẻ như kẻ thực hiện muốn nạn nhân nhìn thấy đồng hồ. Và, tôi cho là, nghe thấy tiếng nó chạy.”
“Mô tả chúng xem nào. Những chiếc đồng hồ ấy.”
“Trông cổ lỗ. Tôi chỉ biết đến thế.”
“Không phải bom chứ?” Giờ đây – trong thời buổi của cái giai đoạn hậu mười một tháng Chín này – mọi vật chứng kêu tích tắc thông thường đều được kiểm tra xem có phải là thiết bị phát nổ không.
“Không. Chúng sẽ không nổ đánh đùng đâu. Nhưng chúng sẽ được chuyển tới Rodman’s Neck[12] để kiểm tra các tác nhân sinh học hay hóa học. Có vẻ như cùng một kiểu đồng hồ. Lạ lùng và đáng sợ, một trong số các nhân viên Đơn vị Phản ứng nhanh nhận xét vậy. Một hình trăng trên mặt đồng hồ. Ồ, và phòng trường hợp chúng ta chậm hiểu, đối tượng để lại một lời ghi chú dưới mỗi chiếc đồng hồ. In ra từ máy vi tính. Không phải viết tay.”
“Lời ghi chú là…?”
Sellitto liếc nhìn xuống cuốn sổ, không dựa dẫm vào trí nhớ. Rhyme đánh giá cao điều này ở viên thám tử. Ông chẳng phải thuộc loại xuất sắc nhưng ông ta là loài chó bull[13], tiến hành mọi việc một cách từ từ và hoàn hảo. Ông ta đọc: “Vầng Trăng Lạnh tròn vành vạnh trên bầu trời, chiếu ánh sáng lên thi thể này dưới mặt đất, cho biết thời điểm cái chết đến và kết thúc cuộc hành trình bắt đầu từ khi chào đời.” Ông ta ngẩng nhìn Rhyme. “Nó được kí tên Thợ Đồng Hồ.”
“Chúng ta đã có hai nạn nhân và một chủ đề nguyệt cầu.” Thông thường, sự ám chỉ về thiên văn có nghĩa là sát thủ lập kế hoạch hành động nhiều lần. “Hắn sẽ còn có thêm nạn nhân.”
“Linc này, anh nghĩ tại sao tôi lại ở đây chứ?”
Rhyme liếc nhìn đoạn mở đầu bức thư gửi tờ Thời báo. Anh đóng chương trình soạn thảo văn bản lại. Bài luận về hai giai đoạn Trước và Sau sẽ phải đợi.
[12] Rodman’s Neck: Tên bán đảo ở phía tây bắcManhattan, nơi đặt một căn cứ đào tạo của Sở cảnh sátNew York.
[13] Chó bull: Giống chó luôn luôn sẵn sàng tấn công.