Những kẻ điên rồ phải chết - Chương 11 phần 1
Chương 11
Bố của Vallie thu xếp cho tôi khỏi mất việc.
Khoảng thời gian “hoang đàng chi địa” của tôi được tính vào thời gian nghỉ phép và nghỉ bệnh, vì thế tôi vẫn được trả lương cho cả tháng lang thang ở Vegas. Nhưng khi tôi trở lại đơn vị thì cấp chỉ huy của tôi, một Thiếu tá quân đội chính quy, có vẻ tức giận. Tôi chẳng mấy lo lắng về chuyện đó. Nếu bạn là nhân viên dân sự của Bộ Quốc phòng và bạn không có tham vọng, cũng không để tâm lắm đến chuyện sĩ diện lặt vặt, thì cấp chỉ huy chẳng có mấy tí quyền lực đối với bạn.
Tôi đảm nhiệm chức phụ tá hành chánh văn thư cho các đơn vị quân dự bị. Vì các đơn vị chỉ gặp nhau mỗi tuần một lần để huấn luyện, tôi phải chịu trách nhiệm về mọi công tác hành chánh văn thư của cả ba đơn vị được giao. Tôi có tổng cộng sáu trăm con người để phải lưu tâm, tính sổ lương, quay ronéo các sổ quân bạ của họ, bao thứ giấy tờ liên quan khác. Tôi phải kiểm tra công tác hành chánh của những đơn vị do nhân viên dự bị thực hiện. Họ soạn thảo báo cáo buổi sáng cho những cuộc họp, cắt đặt lệnh thăng thưởng, sửa soạn đợt bổ nhiệm.
Nghe thì cũng rộn chuyện lắm song thực ra công việc cũng dễ ợt? Chỉ trừ khi các đơn vị đi dự trại huấn luyện hè trong hai tuần. Lúc đó thì tôi khá bận rộn.
Văn phòng làm việc của chímg tôi có không khi thân mật, hữu nghị. Có một nhân viên dân sự khác tên là Frank Alcore lớn tuổi hơn tôi và thuộc một đơn vị dự bị mà anh phục vụ với tư cách Trưởng phòng quản trị. Với kiểu lập luận rất có cơ sở thực tế, Frank nói với tôi về chuyện móc nối để kiếm chác. Tôi làm việc bên cạnh anh gần hai năm và không hề biết anh ta vẫn tham nhũng và ăn hối lộ đều đều?
Quân dự bị của nước Mỹ là một kho béo bở không bao giờ cạn. Chỉ việc đi dự họp hai giờ mỗi tuần, bạn vẫn được lãnh lương trọn ngày. Cộng với tiền ăn ở. Và trong hai giờ đó, bạn chỉ đến nghe những chỉ thị trong lúc có thể lơ mơ ngủ gà ngủ gật để dưỡng sức.
Phần lớn những người quản trị dân sự gia nhập lực lượng quân dự bị. Trừ tôi. Chiếc mũ pháp sư của tôi đã tiên đoán những biến cố lớn trong tương lai. Rằng có thể một cuộc chiến tranh khác sắp xảy ra và các đơn vị dự bị sẽ là những nhóm đầu tiên được gọi vào lực lượng chính quy.
Mọi người đều nghĩ tôi điên. Frank Alcore nài nỉ tôi gia nhập. Trong Thế chiến thứ hai, suốt ba năm tôi vẫn chỉ là một anh lính trơn “đơ-zèm cùi bắp” nhưng Frank bảo tôi rằng anh có thể vận động cho tôi được đồng hóa Trung sĩ nhất, căn cứ trên thâm niên công vụ của tôi trong tư cách một Trưởng ban quản trị của quân đội. Đó là một quả bóng, vừa làm nhiệm vụ yêu nước vừa lãnh được hai suất lương. Nhưng tôi ghét ý tưởng phải nhận mệnh lệnh trở lại ngay cả chỉ có hai giờ mỗi tuần và hai tuần trong mùa hè. Là một nhân viên dân sự, tôi cũng phải theo bao hướng dẫn của cấp trên. Nhưng có một khác biệt lớn giữa mệnh lệnh và hướng dẫn.
Mỗi lần đọc các bài báo về lực lượng dự bị được huấn luyện kĩ của xứ sở Huê Kỳ, tôi đều lắc đầu. Trên một triệu người chẳng được cái tích sự gì. Tôi tự hỏi tại sao họ chưa dẹp quách toàn bộ đám đó đi. Nhưng rất nhiều thành phố nhỏ tùy thuộc vào số lương trả cho quân dự bị để vận hành nền kinh tế của chúng. Nhiều chính trị gia trong các thể chế pháp lí và quốc hội bang là những sĩ quan dự bị cao cấp và kiếm được những khoản lương bổng hậu hĩ từ đó.
Và có một điều xảy đến làm thay đổi cả cuộc đời tôi. Chỉ thay đổi có một thời gian ngắn nhưng thay đổi theo hướng tốt hơn về cả hai phương diện kinh tế và tâm lí. Tôi trở nên một kẻ bất chính. Do rơi vào guồng máy cơ cấu quân sự của nước Mỹ.
Một thời gian ngắn sau khi tôi quay về từ Vegas, những chàng trai trẻ ở Mỹ đều biết rằng nhập ngũ vào chương trình “nhiệm vụ tích cực” trong sáu tháng sẽ cho họ cái lợi được tự do trong mười tám tháng. Một chàng trẻ trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, chỉ cần đầu quân vào chương trình quân dự bị và thi hành sáu tháng nghĩa vụ quân chính quy ở các bang ngay tại Mỹ. Sau đó đi lính năm năm rưỡi trong quân dự bị. Có nghĩa là hàng tuần đi dự họp mất hai gìờ và làm nghĩa vụ tích cực trong hai tuần ở trại hè. Nếu chàng ta chùng chình và đợi đến khi có lệnh gọi nhập ngũ, chàng ta sẽ phải đi lính chiến đấu hai năm ròng, có thể là tận chiến trường Triều Tiên.
Tình hình ngày càng căng. Ngày càng nhiều chàng trai trẻ được gọi đến dưới cờ. Cuba và Việt Nam đã hiện ra nơi chân trời mịt mờ khói lửa. Vào thời ấy, tôi nhận thấy có điều gì ám muội đang diễn ra. Và chuyện ấy phải là rất đáng ngại mới khiến tôi nhận ra bởi vì tôi tuyệt đối chẳng có hứng thú gì với công việc hay khung cảnh làm việc.
Frank Alcore lớn tuổi hơn tôi, đã có vợ và hai con. Về ngạch trật dân sự chúng tôi ngang cấp nhau chúng tôi phục vụ riêng rẽ, anh phụ trách các đơn vị của anh, tôi lo các đơn vị của tôi. Chúng tôi có bậc lương ngang nhau khoảng một trăm đô-la mỗi tuần.
Nhưng anh thuộc về đơn vị quân dự bị, mang cấp bậc trung sĩ nhất và hàng năm còn được lãnh thêm cả ngàn đô. Vậy mà anh vẫn lái chiếc xe Buick mới đi làm và đậu xe nơi một garage gần bên, tốn ba đô-la mỗi ngày.
Anh ta chơi cá độ tất cả các môn bóng: bóng đá, bóng rổ, bóng chày và tôi biết như vậy tốn đến bao nhiêu. Tôi tự hỏi anh ta lấy tiền ở đâu ra mà chơi bạo thế. Tôi hỏi đùa anh ta và anh nháy mắt bảo tôi là kiếm tiền cũng đơn giản như là ta đang giỡn thôi, có khó gì đâu?
- Ồ, ở đâu “dzậy?” Chỉ ngộ, ngộ cho tiền cò!
Anh cười:
- Này, cậu hai, cậu chớ có lo, hết tiền cậu cứ xuống kho lấy xài Kho bạc Nhà nước ngay trước mũi cậu chớ đâu!
Tôi biết anh chỉ ba hoa để khỏa lấp thế thôi. Thế rồi một ngày kia anh ta dẫn tôi đi khao một chầu “đáng kể” nơi một nhà hàng Ý sang trọng ở đại lộ số chín và lật ngửa con bài tẩy lên.
Lúc uống cà phê, anh hỏi:
- Này Merlin, mỗi tháng cậu đưa vào danh sách các đơn vị của cậu bao nhiêu tên? Chỉ tiêu từ Washington định cho cậu là bao nhiêu?
- Tháng rồi là ba mươi, - Tôi đáp. - Biến động trong khoảng từ hai mươi lăm đến bốn mươi tùy theo số mất.
- Những điểm tuyển quân đó giúp ta hái ra tiền đấy! - Frank nói. - Bạn có thể kiếm được món khơ khớ hàng tháng.
Tôi không đáp ứng. Anh tiếp tục:
- Hãy để tôi sử dụng năm trong số ấy của bạn, - Anh nói. Tôi sẽ cho bạn mỗi điểm một tờ cứng, hàng tháng.
Tôi không dễ bị đổ. Năm trăm đô-la mỗi tháng là một sự gia tăng thu nhập một trăm phần trăm cho tôi. Nhưng tôi vẫn “em chã” và bảo anh ta quên chuyện ấy đi. Lúc ấy tôi còn nhiều sĩ diện và tự ái lắm. Tôi chưa bao giờ làm điều gì bất lương trong đời mình. Trở thành một kẻ ăn hối lộ, đối với tôi, là chuyện bất xứng. Xét cho kĩ, tôi là một nghệ sĩ cơ mà? Một tiểu thuyết gia cỡ lớn đang chờ nổi tiếng đây! Làm chuyện bất lương là tầm thường hóa chính mình, là bôi bác cái hình tượng tự thân đẹp đẽ mà tôi đã tự tạo cho mình. Chuyện vợ con tôi có sống mấp mé bờ vực nghèo khổ cũng chưa quan trọng lắm. Tôi có phải làm thêm việc buổi tối để trang trải cơm áo gạo tiền cũng không sao. Tôi là một người hùng bẩm sinh? Mặc dầu ý tưởng về các chàng trai chịu trả tiền để được ghi tên vào danh sách tòng quân làm tôi thấy thích thích.
Frank không bỏ cuộc.
- Cậu không phải chịu nguy cơ nào cả đâu, - Anh ta nói. - Những danh sách đó có thể ngụy tạo dễ dàng, không có sổ cái. Cậu không phải lấy tiền từ đám lính tò te đó đâu. Cũng chẳng cần phải kì kèo thương lượng gì hết. Tôi sẽ lo mọi chuyện, cậu chỉ có việc ghi danh chúng khi tôi Ok. Sau đó là tiền bạc sột soạt từ tay tôi chuyển sang tay cậu. Rốp rẻng, ngon lành, sòng phẳng!
À nếu anh ta cho tôi một trăm hẳn anh ta phải bỏ túi được hai trăm. Và anh ta có khoảng mười lăm “khe” của riêng phần anh để nhét vào và với cái giá hai trăm mỗi khe thì hàng tháng anh ta lượm sơ sơ ba ngàn đô? Có điều tôi chưa biết là anh ta không thể sử dụng cả mười lăm khe đó cho riêng mình. Các sĩ quan của đơn vị anh cũng phải lo cho một số người. Các chính trị gia, dân biểu, nghị sĩ gửi các cậu ấm vào làm lính kiểng, lính ma. Và thế là giật mất phần bánh khỏi miệng Frank khiến anh nổi giận một cách chính đáng? Nhưng đố dám kêu ca bởi đã ăn xôi chùa phải nghẹn họng! Anh chỉ còn bán được có năm “khe” hàng tháng. Nhưng dầu sao thì cái khoản ngoại bổng một ngàn đô-la mỗi tháng cũng thơm quá ấy chứ? Tuy nhiên, tớ đây vẫn đếch thèm? Lỡ làm anh hùng. À phải trong sạch tới cùng. Nga tử sự tiểu, thất tiết sự dại chết đói chuyện nhỏ, đánh mất trinh tiết, khí tiết mới là chuyện lớn? Hãy giữ vững khí tiết, hỡi nhà tiểu thuyết sẽ thành danh vang dội. Tôi tự nhủ lòng.
Những lí do tự khoan miễn mang đủ mọi kiểu dáng mà người ta có thể tạo ra để cuối cùng là chịu móc ngoặc.
Tôi đã từng phác thảo một chân dung tự họa. Khá đẹp! Tôi trọng danh dự và sẽ không bao giờ nói dối hoặc đánh lừa bạn bè, người quen. Rằng tôi sẽ không bao giờ làm bất kì điều gì thấp hèn để trục lợi. Tôi nghĩ mình cũng giống như anh Artie. Nhưng Artie là người trung thực từ trong cốt tủy. Không có áp lực nào có thể khiến anh trở nên thoái hóa, biến chất. Anh thường kể tôi nghe câu chuyện về những áp lực trong công việc. Với tư cách là một kĩ sư hóa học xét nghiệm các loại tân dược cho Cục quản lí Lương thực và Dược phẩm Liên bang, anh ở vào một vị thế có quyền lực. Anh làm ra khá tiền, nhưng khi thực hiện các cuộc xét nghiệm, anh cho nhiều loại dược phẩm mà các dược sĩ liên bang đã thông qua là chưa đạt yêu cầu chất lượng. Thế rồi nhiều công ty dược phẩm khổng lồ đã cho người tiếp cận anh và ngỏ ý với anh rằng họ có nhiều công việc dành cho anh, với lương bổng hậu hĩ chưa từng thấy. Nếu chịu “uyển chuyển” hơn một ư, anh sẽ mau thăng tiến hơn. Artie xua họ đi. Rồi cuối cùng một trong những loại thuốc mà anh đã phủ quyết lại được chấp thuận “trên đầu anh.” Một năm sau, loại dược phẩm đó bị buộc phải tái kiểm và bị cấm lưu hành bởi vì những hiệu ứng độc hại đối với bệnh nhân. - Có vài người đã chết sau khi dùng loại thuốc đó. Toàn bộ sự việc được đưa lên báo chí và Artie trở thành người hùng trong một thời gian. Anh còn được đề bạt lên cấp quản lí cao trong cơ quan. Nhưng được ngầm hiểu rằng không bao giờ anh có thể lên cao hơn nữa. Rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở thành thủ trưởng cơ quan, vì anh thiếu hiểu biết về những yêu cầu chính trị của công việc. Anh chẳng thèm quan tâm và tôi lấy làm tự hào về ông anh đầy tiết tháo của mình.
Tôi muốn sống một cuộc đời đáng quý trọng, đó là cao vọng của tôi. Tôi tự hào là một người thực tế, vì thế không chờ đợi mình hoàn hảo hay chí thiện. Nhưng khi lỡ làm điều gì bậy, tôi liền thấy bất mãn và tự chế giễu chính mình và thường tự hứa phải dứt khoát không tái phạm điều ấy nữa. Nhưng trong thâm tâm tôi thường thất vọng bởi vì có vô khối chuyện bậy mà người ta có thể phạm và vì thế tôi vẫn thường thấy ngạc nhiên.
Giờ đây tôi phải bán cho mình cái ý tưởng trở thành kẻ móc ngoặc. Muốn thành một người khả kính, biết trọng danh dự bởi vì khi nói sự thật tôi cảm thấy bình yên hơn là khi nói dối. Khi mình vô tội, sẽ cảm thấy thoải mái hơn là khi có tội. Tôi đã nghĩ ra rồi. Đó là một ước muốn có tính thực dụng chứ không hề lãng mạn. Nếu như thấy làm kề nói dối hay trộm cắp mà dễ chịu hơn, có lẽ tôi đã làm thế. Và do đó tôi đã khoan dung hơn với nhưng ai đã hành động như vậy. Đó là cái nghiệp của họ, chứ không hẳn là một chọn lựa đạo đức. Đức lí không có liên quan gì ở đây Nhưng tôi không thực sự tin hẳn vào điều đó.
Trong cốt tủy, tôi vẫn tin vào thiện ác như là những giá trị đạo đức. Và nếu như cần phải nói sự thật, tôi vẫn luôn muốn ganh đua với người khác. Do đó, muốn là một người tốt hơn đáng trọng hơn. Tôi cảm thấy thỏa mãn khi mình không tham lam tiền bạc trong lúc bao nhiêu người khác sẵn dàng hạ mình để có. Khinh thường hư danh, trung thực với phu nữ, tự chọn làm một kẻ vô tội. Tôi hài lòng không hoài nghi về động cơ hành động nơi người khác và trong hầu hết mọi việc tôi tin họ. Sự thật là tôi chưa bao giờ tin vào chính mình. Sống có danh dự là một điều, sống liều lĩnh lại là một điều khác.
Nói tóm lại là chẳng thà chấp nhận bị lừa hơn là lừa người khác, thất vọng hơn là gây thất vọng cho người, tôi sẵn lỏng chấp nhận xoay xở khi nào tôi chưa trở thành một kẻ gian hùng, cơ hội. Chẳng thà bị ngụy tạo, bị lạm dụng chứ nhất quyết không làm một nghệ sĩ trá ngụy.
Và hiểu rằng đây là một thứ áo giáp mà tôi giấu mình, rằng nó không thực sự đáng ngưỡng mộ. Thế giới không thể gây tổn thương cho tôi nếu không thể làm cho tôi thấy mình phạm tôi. Nếu tôi nghĩ tốt về mình thì người khác có nghĩ xấu về tôi, cũng đâu thành vấn đề? Tất nhiên không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Bộ áo giáp có những kẽ hở. Và qua năm tháng, tôi đã phạm một số sơ suất. Và tuy thế - tuy thế tôi cảm thấy ngay cả điều này, ra vẻ chính trực một cách tự mãn, éo le thay, lại là sự xảo trá ở cấp thấp nhất! Rằng tính đạo đức của tôi đặt nền móng trên một tảng đá lạnh lùng. Rằng đơn giản chỉ vì không có cái gì trong cuộc đời khiến tôi khao khát đến độ nó có khả nãng làm hư hỏng tôi. Điều duy nhất mà tôi muốn làm là sáng tạo một tuyệt tác nghệ thuật. Không phải vì danh tiếng, vì tiền bạc hay vì quyền lực, hay tôi nghĩ như thế. Hoàn toàn chỉ vì lợi ích cho nhân loại. A, tôi nhở có lần vào thuở thiếu niên, hoang mang với mặc cảm tội lỗi và ý nghĩ về sự bất xứng của bản thân mình, tuyệt vọng đến buồn nôn trước hiện sinh phi lí, tôi chạy trốn thực tại bằng cách đắm mình vào bộ tiểu thuyết đồ sộ “Anh em nhà Karamarov”của Dostoevsky. Quyển sách đó đã làm thay đổi đời tôi. Cho tôi sức mạnh tinh thần cho tôi thấy được vẻ đẹp dễ tổn thương nơi mọi con người dù, bên ngoài họ có thể tầm thường ti tiện đến đâu. Và luôn nhớ cái ngày cuối cùng tôi buông quyển sách ra, trả nó lại cho thư viện của trường rồi đi ra trong ánh nắng vàng chanh của một chiều thu nhẹ mơn man aa thịt. Lòng tôi lâng lâng một niềm vui thanh thoát như vừa nhận được một thiên khải.
Và thế là tôi chỉ mong ước viết được một quyển sách có khả năng làm cho người khác cảm nhận được điều mà ngày đó mình cảm nhận. Với tôi, đó là sự thi triển quyền năng tối hậu và thuần khiết nhất. Và thế là khi quyển tiểu thuyết được xuất bản, quyển sách mà tôi đã mất cả năm năm mới viết ra, mà tôi đã chịu bao đớn đau dằn vặt để xuất bản mà không có sự thỏa hiệp hay nhượng bộ nào về nghệ thuật, thì bài điểm sách đầu tiên mà tôi đọc được lại gọi đó là một quyển sách bẩn thỉu, suy đồi một quyển sách lẽ ra không bao giờ nên viết và một khi được viết rồi thì cũng đừng bao giờ đem in ấn, phát hành.
Quyển sách đem lại cho tôi rất ít tiền bạc. Nhưng sau đó nó nhận được nhiều bài tán dương. Nhiều nhà phê bình nhất trí rằng tôi đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật thực sự và quả thực, trong một chừng mực nào đó, tôi đã đong đầy được tham vọng của mình. Vài người còn viết thư rằng tôi có thể viết lời đề tặng quyển sách của mình cho Dostoevsky tôi thấy rằng niềm an ủi từ những bức thư này không đền bù được cảm thức về sự bác bỏ mà thất bại thương mại của quyển sách đem lại cho tôi.
Tôi nảy sinh ý tưởng khác về một kiệt tác thực sự, một quyển tiểu thuyết “Tội ác và trừng phạt” của tôi. Nhưng nhà xuất bản không chịu ứng tiền trước cho tôi. Không có nơi nào chịu. Tôi đành gác bút. Nợ nần chồng chất, dồn lên thấy phát ngợp. Gia đình tôi bị bủa vây trong cùng khổ. Con cái tôi không có những thứ mà những đứa tre khác có. Vợ tôi phải chịu thua chị kém em, chẳng có được niềm vui đua đòi, mua sắm. Tôi phải đi đến Vegas. Và thế là tôi không thể viết. Bây giờ, chuyện đã quá rõ. Để trở thành một nghệ sĩ và người tốt như mong muốn, tôi cần phải kiếm chút đỉnh tiền hối lộ một thời gian để thoát khỏi cơn ngặt nghèo trước mắt và tháo gỡ bớt những vttớng mắc đang trói tay bậc anh tài. Than ôi? Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt, anh hùng khi gấp cũng khoanh tay. Mong các bạn vô vàn thông cảm cho kẻ sĩ cuối cùng này của nước Mỹ, cái xứ sở rất ư thực dụng và sùng bái tiền bạc, vật chất này! Không biết xứ sở của các bạn có giống vậy chăng? Nếu trên mặt đất này có xứ xở nào mà người ta chỉ sống với những giá trị tinh thần thuần túy, khinh thường của cải thế gian thì tôi mong ước biết bao, sau một giấc ngủ, thức dậy thấy mình trở thành công dân của cái xứ sở trong mơ đó!
Thế nhưng Frank Alcore cũng còn phải mất đến sáu tháng sau mới đốn ngã tôi được. Mà cũng còn phải nhờ đến vận may nữa cơ đấy! Tôi bị “dính chấu” bởi Frank vì anh ta là một tay chơi thiện nghệ. Khi anh ta mua món quà cho vợ, luôn luôn là có vật gì đó anh ta có thể cầm cố nơi tiệm cầm đồ nếu như anh ta hết tiền mặt. Và điều tôi thích là cách anh sử dụng tài khoản kiểm soát của mình.
Vào những ngày thứ bảy, Frank thường ra ngoài, dẫn gia đình đi mua sắm. Tất cả cấc thương gia láng giềng đều biết anh và họ đổi tiền mặt cho các tấm séc của anh.
Nơi cửa hàng thịt, anh sẽ mua những phần thịt bò hay thịt heo ngon nhất, tốn mất khoảng bốn mươi đô-la. Anh sẽ đưa cho người bán thịt tờ séc một trăm đô-la và lấy lại sáu mươi đô-la tiền thối. Chuyện tương tự cũng xảy ra ở cửa hàng rau quả và cả ở hàng rượu. Đến trưa ngày thứ bảy, anh ta sẽ có khoảng hai trăm đô-la tiền thối lại từ việc mua sắm và sẽ dùng số tiền đó để đánh cá các độ bóng đá, bóng rổ, bóng chày. Nếu ăn, thì sáng sớm thứ hai, anh đem tiền đến ngân hàng để cho vào tài khoản của mình.
Nếu thua, anh để cho các tấm séc bị trả lại. Rồi trong tuần anh sẽ xoay sở những khoản tiền lót tay từ các anh tân binh muốn đi vào chương trình sáu tháng để trả cho các tờ séc kia.
Frank thường rủ tôi đến dự những trận đấu bóng bàn đêm và anh bao hết mọi khoản kể cả bánh hot-dogs.
Anh ta có bản chất hào phóng tự nhiên và khi tôi giành trả tiền, anh đẩy bàn tay tôi qua một bên và nói đại ý là: “Những người lương thiện làm sao có đủ tiền để ghiền thể thao.” Tôi vẫn luôn thấy thoải mái vui vẻ với anh và trong công việc. Trong giờ ăn trưa chúng tôi chơi bài giải trí và tôi thường thắng được anh năm, bảy đô, không phải vì tôi chơi hay hơn.
Mọi người đều tìm được lí do khoan miễn cho sự vấp ngã về đức hạnh của mình. Sự thật là bạn bắt đầu vấp ngã, khi bạn đã “dọn mình để rước lấy vấp ngã.”
Một buổi sáng nọ tôi đến sở làm thì đại sảnh bên ngoài văn phòng của tôi đông nghịt những chàng trai đến tòng quân vào chương trình sáu tháng. Thực tế là cả kho vũ khí đều đầy ắp người. Tất cả các đơn vị đều bận rộn, suốt cả tám tầng nhà, trong việc ghi danh đầu quân.
Người khách đầu tiên của tôi là một ông già nhỏ thó mang theo một cậu thanh niên độ hai mươi mốt tuổi để ghi danh đầu quân. Anh ta đến ghi vào danh sách của tôi.
- Rất tiếc, chúng tôi sẽ chỉ gọi anh sớm nhất là sáu tháng sau. - Tôi nói.
Ông già có tôi mắt xanh với nhãn lực rất có thần toát ra uy quyền đầy tự tin.
- Tốt hơn anh nên hội ý với thượng cấp của anh, - Ông ta nói.
Vào lúc đó tôi thấy ông chủ tôi, thiếu tá Quân chính quy, cuống quýt ra dấu cho tôi qua ngăn cửa kính. Tôi đứng lên và đi vào văn phòng của ông. Tay thiếu tá này đã từng tham dự thế chiến thứ hai rồi chiến tranh Triều Tiên, với đủ thứ huân, huy chương đầy trên ngực. Thế nhưng giờ đây ông ta đang tháo mồ hôi hột và rất bồn chồn.
- Thưa thiếu tá, - Tôi nói. - Lão già kia bảo tôi nên nói chuyện với thiếu tá. Lão ấy muốn con lão được ghi tên trước mọi người vào danh sách. Tôi bảo lão ta rằng tôi không làm thế được.
Thiếu tá gắt om lên:
- Hãy cho lão ta cái gì lão muốn. Lão ấy là một đại biểu quốc hội đấy.
- Thế còn danh sách đã lập rồi thì sao? - Tôi hỏi.
- Dẹp mẹ cái danh sách của anh đi, - Lão thiếu tá gào lên.
Tôi quay về bàn giấy của mình nơi vị đại biểu quốc hội và kẻ được ông bảo hộ đang ngồi. Tôi bắt đầu thực hiện các mẫu đăng kí nhập ngũ. Bây giờ tôi biết được tên chú nhóc. Hắn ta đáng giá cả hàng trăm triệu đô-la đấy, trong một ngày không xa. Gia đình hắn là một trong những huyền thoại về thành công vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Và giờ đây hắn lọt vào văn phòng của tôi, đăng kí vào chương trình sáu tháng để tránh phải thi hành hai năm “quân dịch tích cực.”
Vị đại biểu xử sự rất hoàn hảo. Ông ta không biểu thị uy quyền với tôi, không làm cho tôi nghĩ rằng, quyền lực của ông ta khiến tôi làm sai lệch luật lệ. Ông ta nói chuyện điềm đạm, hữu nghị, nhắm đúng tâm để buông tên. Người ta phải phục cách ông ta “xử sự” với tôi. Ông ta cố gắng làm cho tôi cảm thấy tôi đang làm ơn cho ông và nêu ra rằng nếu có điều gì ông có thể làm giúp, tôi cứ việc gọi đến văn phòng của ông. Chú nhóc vẫn cứ câm như thóc trừ khi phải khai khẩu để trả lời những câu hỏi khi tôi đánh máy vào mẫu đăng kí đầu quân của cậu ta.
Nhưng tôi hơi cảm thấy “quê độ” mà không hiểu tại sao. Tôi không phản đối về phương diện đạo đức, việc sử dụng quyền lực, ngay cả việc lạm dụng nó. Chỉ có điều họ đã lướt qua đầu tôi mà tôi chẳng thể làm gì được nên mới thấy buồn trong “cái” bụng! Còn cái thằng nhóc kia, tại sao hắn không thể thi hành nghĩa vụ quân sự trọn hai năm để góp phần bảo vệ cái xứ sở đã từng và vẫn còn ưu đãi cho gia đình hắn đến như thế?