Những kẻ điên rồ phải chết - Chương 16 phần 2

Mặt tôi không biểu lộ điều gì tôi đã quyết định không làm diễn viên không biểu hiện ngạc nhiên, không cười không có gì kích động những câu hỏi thêm hay tấn công. Cứ để cho họ nghĩ tôi đang bao che cho bạn. Chuyện đó bình thường thôi ngay cả nếu tôi không có tội.

Hannon nói:

- Anh có bao giờ lấy tiền từ bất kì quân dự bị nào vì bất kì lí do nào không?

- Không! - Tôi nói.

Wallace nói rất chậm rãi có cân nhắc kĩ:

- Anh biết tất cả về chuyện này, anh chỉ ghi danh những người trong hạn tuổi tòng quân khi nào họ chịu chi cho anh một số tiền để làm điều ấy, anh biết rằng anh và Frank Alcore có khả năng thao tác khéo léo để vận dụng những danh sách đó theo ý đồ của các anh. Nếu phủ nhận chuyện này, anh đang nói dối với một sĩ quan liên bang, đó là tội ác. Bây giờ tôi hỏi lại anh lần nữa, anh có bao giờ lấy tiền hoặc của đút lót nào khác để dành ưu tiên việc đăng kí đầu quân cho người này đối với người khác?

- Không! - Tôi nói.

Haunon bỗng bật cười:

- Chúng tôi đã điểm huyệt được người bạn chí cốt Frank Alcore của anh rồi. Chúng tôi có bằng chứng rằng hai người làm ăn trong vụ này và rằng có thể anh còn liên kết với những viên chức hành chánh quân sự khác hoặc cả với những sĩ quan nơi dây để đòi hối lộ. Nếu anh thành thật khai báo với tất cả những gì anh biết, sẽ tốt cho anh nhiều hơn đấy.

Không có câu hỏi nào, vậy nên tôi chỉ nhìn anh ta mà không trả lời. Bỗng nhiên Wallace nói, bằng giọng đều đều, điềm đạm:

- Chúng tôi biết anh là đầu sỏ của tác vụ này.

Thế là lần đầu tiên tôi phá vỡ luật lệ của chính mình đặt ra. Tôi cười lớn. Một tiếng cười tự nhiên đến độ họ không thể công kích. Thực tế, tôi thấy Hamnon cũng mỉm cười. Lí do khiến tôi cười là cái từ “đầu sỏ.” Lần đầu tiên toàn bộ vụ việc đập vào tôi giống như một cái gì vút ra từ một phim hạng B và tôi cười bởi vì tôi đã chờ dợi Hannon nói điều gì tương tự như thế, bởi trông hắn ta khá non nớt. Tôi đã nghĩ Wallace là người nguy hiểm, có lẽ vì rõ ràng anh ta là người chủ chốt.

Và tôi cười, vì biết rõ ràng họ đã lạc lối. Họ đang truy tìm một mưu đồ tinh vi, một đường dây có tổ chức với một “đầu não.” Nếu không, có lẽ những nhân vật nặng kí của FBI sẽ không tốn thì giờ đến thế. Họ không biết rằng chỉ có túm mấy anh cạo giấy xoay sở để kiếm thêm tí ngoại bổng. Họ đã quên và không hiểu rằng đây là New York, nơi mọi người hàng ngày vẫn phạm luật, trong tình huống này hay tình huống khác. Họ không thể quan niệm là mọi người đều có thể bị móc ngoặc. Nhưng tôi không muốn họ nổi giận về tiếng cười của mình vì thế tôi nhìn thẳng vào mắt Wallace và nói với vẻ hối:

- Tôi ước chi mình được làm đầu sỏ của cái gì đó, thay vì chỉ là một anh kí quèn.

Wallace nhìn tôi đầy chủ ý, rồi nói với Hannon:

- Cậu còn muốn hỏi gì nữa không?

Hannon lắc đầu Wallace đứng lên.

- Cảm ơn đã trả lời câu hỏi của chúng tôi.

Cùng lúc Hannon đứng lên và tôi cũng thế. Trong cùng một lúc cả ba chúng tôi cùng đứng lên, sát nhau và gần như chẳng nghĩ gì, tôi đưa tay ra và Wallace bắt lấy.

Tôi cũng bắt tay Hannon và chúng tôi cùng ra khỏi phòng, xuống hành lang qua phòng của tôi. Họ gật đầu chào từ biệt, đến đầu cầu thang đưa xuống phòng dưới, còn tôi đi về phía văn phòng mình.

Tôi hoàn toàn lạnh nhưng không hoảng hốt. Không hề một tí. Tôi ngạc nhiên về chuyện mình đưa tay ra bắt. Chính động tác đó làm tan biến sự căng thẳng nơi tôi. Nhưng tại sao tôi làm như vậy? Tôi nghĩ động tác đó bắt nguồn từ sự biết ơn nào đấy. Rằng họ đã không cố để làm nhục hay hạ gục tôi. Rằng họ đã giữ cuộc phỏng vấn trong một giới hạn văn minh. Rằng họ có chút tội nghiệp cho tôi. Rõ là tôi có tội nhưng ở tầm cỡ bé xíu. Một anh kí quèn xoay sở kiếm thêm tí tiền còm để cà phê thuốc lá hay nhiều lắm là chút quà cho vợ con. Chẳng bõ bèn gì.

Dằn mặt tí thế là được rồi. Tất nhiên họ cũng có thể đưa tôi vào tù nhưng không cố tâm lắm. Hoặc có thể cũng thấy tức cười về những chàng trai chi tiền để được vào làm lính. Và rồi tôi phá ra cười.

Bốn mươi lăm ngàn đô-la đâu phải là tiền lẻ để tiêu vặt. Tậu ô tô, xây nhà lầu được đấy. Tôi đã để cho lòng tự thương hại dẫn đi quá xa.

Về văn phòng mình, viên thiếu tá xuất hiện ở cửa văn phòng và ra hiệu vào gặp ông ta. Tay thiếu tá mang đủ thứ huân huy chương trên đồng phục. Ông ta đã từng xông pha trên trận mạc trong Thế chiến thứ hai và ở Triều Tiên. Trên ngực ông ta có ít nhất là hai mươi huân huy chương lấp lánh.

- Cậu ứng phó thế nào? - Ông hỏi, cười cười.

Tôi nhún vai:

- Cũng tạm được, tôi đoán vậy.

Viên thiếu tá lắc đầu, ngạc nhiên:

- Họ bảo tôi là chuyện này đã kéo dài nhiều năm nay rồi. Các cậu làm thế nào hay vậy? - Ông ta lại lắc đầu tỏ ý thán phục.

- Tôi nghĩ đó là chuyện nhảm, - Tôi nói. - Tôi chẳng bao giờ thấy Frank lấy của ai một xu. Chỉ là do một số người nổi giận vì bị gọi tái ngũ để thi hành nghĩa vụ tích cực.

- Ờ, - Thiếu tá nói. - Nhưng ở pháo đài Lee họ đang có lệnh đưa lên máy bay khoảng một trăm anh chàng đó đến New York để xác chứng trước một khoáng đại hội thẩm. Chuyện đó thì không thể coi thường được đâu.

Ông ta ngắm nghía tôi có vẻ tươi cười, trong một lúc:

- Cậu ở trong binh chủng nào khi đánh nhau với Đức quốc xã?

- Đệ tứ sư đoàn thiết giáp. - Tôi nói.

- Cậu được một ngôi sao đồng trong quân bạ, - Thiếu tá nói. - Không ghê gớm lắm nhưng cũng là một cái gì.

Trong số các huân huy chương trên ngực ông ta có huy chương Sao bạc và Hùng tâm bội tinh (purple heart).

- Chẳng đáng gì đâu, - Tôi nói. - Tôi chỉ di tản được một số viên chức dân sự Pháp dưới làn đạn. Tôi không nghĩ là mình từng giết được tên lính Đức nào.

Viên thiếu tá gật đầu:

- Không đáng kể lắm, ông đồng ý. Nhưng cũng hơn là những tên kia chưa từng làm được gì. Vậy thì, nếu tôi có thể giúp được gì cho cậu, cứ cho tôi biết nhé!

- Cám ơn thiếu tá, - Tôi đáp.

Và khi tôi đứng lên để ra đi, viên thiếu tá nói một cách giận dữ, gần như với chính mình:

- Hai cái thằng con hoang đó bắt đầu đặt những câu hỏi với tôi và tôi bảo chúng cút xéo chỗ khác. Chúng nghĩ có thể tôi cũng dính vào đây.

Ông ta lắc đầu:

- Thôi được, cậu ráng mà chùi mép cho sạch. Làm một tên tội phạm không chuyên quả thật là hoài công.

Tôi bắt đầu phản ứng lại mọi chuyện giống như một kẻ sát nhân trong phim biểu lộ cực hình của tội lỗi tâm lí.

Mỗi khi chuông nơi căn hộ tôi ở reo lên vào thời gian bất thường, tôi cứ giật lên thon thót. Nghĩ đó là những tay cớm của FBI. Trong khi thật ra chỉ là một trong những người láng giềng hay một trong những người bạn Vallie ghé qua để tán gẫu hay mượn cái gì đó. Tại văn phòng tôi, nhân viên FBI mỗi tuần ghé vài lần, thường là với vài chàng trẻ nào đó, rõ ràng là để nhận dạng tôi. Tôi đoán là những quân dự bị đã từng chi tiền để được vào chương trình sáu tháng. Một lần Hannon đến để chuyện gẫu rồi xuống căn tin lấy cà phê và sandwiches lên cho chúng tôi và viên thiếu tá. Trong lúc trò chuyện, Hannon nói với tôi, bằng cái giọng dễ thương nhất có thể tưởng tượng được:

- Merlin này, bạn là một người tốt. Mình thật sự ghét ý tưởng đưa bạn vào tù. Như bạn biết mình đã từng bắt buộc phải đưa nhiều người rất dễ thương đi tù. Mình luôn luôn nghĩ điều đó thật xấu hổ, phải chi họ biết tự cứu mình hơn một chút.

Viên thiếu tá dựa người ra sau ghế, quan sát phản ứng của tôi. Tôi chỉ nhún vai và ăn sandwiches. Lập trường của tôi là chẳng việc gì phải trả lời những nhận xét kiểu đó và chỉ trả lời khi nào, chiếu theo luật tôi phải trả lời. Còn không thì cứ lờ, coi như không có gì. Tội vạ gì lại muốn tỏ ra thông minh, giỏi lí luận ở những khoản đó, cho bị va vào những tảng đá ngầm! Tớ đây đếch chơi dại? Đừng có ngứa cổ ở những chỗ không đúng lúc, đúng nơi, đúng người, đúng việc! Nên minh triết bảo thân là thế đấy? Cho nên tôi bèn đánh trống lảng. Tôi hỏi viên thiếu tá xin có thể được nghỉ phép vài ngày để giúp vợ tôi trong việc mua sắm mừng Giáng sinh hay không. Thật ra trong lúc này cũng chẳng có việc gì nhiều và chúng tôi có một nhân viên dân sự trong văn phòng thay thế cho Frank Alcore, đủ khả năng trông coi cửa hàng trong khi tôi nghỉ phép. Thiếu tá nói được thôi. Vả chăng, cái anh chàng Hannon này ngớ ngẩn lắm. Câu nói của anh ta về việc gửi hàng lố người đi tù là một câu ba hoa ngạo sự! Anh chàng còn quá trẻ để có thể gửi hàng lố những người dễ thương hay khó thương vào tù. Tôi coi anh ta chỉ là một chàng tập sự, một chàng tập sự dễ thương, nhưng không phải là kẻ sắp gửi tôi đi tù. Và nếu anh ta làm được, thì có lẽ tôi là người thứ nhất.

Chúng tôi tán gẫu một lúc và Hannon ra đi. Viên thiếu tá nhìn tôi với lòng kính trọng mới. Và rồi ông ta nói:

- Ngay cả nếu bọn họ chẳng ngắt véo được gì nơi anh, tôi cũng gợi ý anh nên tìm một việc làm khác.

***

Lễ Giáng sinh vẫn luôn là ngày hội trọng đại đối với Vallie. Nàng thích đi mua quà cho bố mẹ, con cái, cho tôi và các anh chị em của nàng. Và lễ Giáng sinh năm đó nàng có nhiều tiền để tiêu pha mua sắm hơn là bất kì năm nào trước. Hai cậu con trai có hai chiếc xe đạp còn cất trong tủ. Một áo ấm bằng len Ireland nhập khẩu cho bố nàng một khăn choàng đắt tiền, sang trọng cho mẹ nàng. Tôi không biết nàng mua gì cho tôi.

Nàng luôn giữ bí mật chuyện đó. Còn quà của tôi cho nàng là một chiếc nhẫn kim cương nhỏ, món nữ trang thật sự mà tôi mua cho nàng từ khi quen biết nhau cho tới giờ. Tôi chưa bao giờ mua cho nàng nhẫn đính hôn. Trong bao nhiêu năm trời trước đó không ai trong chúng tôi tin vào chuyện vô nghĩa mang tính tư sản kiểu đó. Sau mười năm, nàng đã thay đổi nhưng tôi chẳng bận tâm mấy. Tôi biết là món quà sẽ làm nàng vui lòng.

Thế là vào đêm Noel, bọn trẻ giúp nàng trang hoàng cây thông trong khi tôi làm việc trong phòng. Valie vẫn chưa có ý tưởng nào về chuyện rắc rối mà tôi gặp phải trong công việc. Tôi viết mấy trang cho cuốn tiểu thuyết của mình rồi ra nhìn để trầm trồ tán thưởng cây Noel. Nó được trang hoàng với các quả chuông xanh đỏ vàng với những dải viền bằng giấy bạc lóng lánh. Trên đỉnh là một ngôi sao rực rỡ. Vallie không thích dùng đèn điện nhấp nháy trên cây Noel. Bọn trẻ rất háo hức và phải mất một thời gian lâu mới dỗ được chúng chịu lên giường và nằm yên. Nhưng chúng vẫn thậm thò thậm thụt ra vào và chúng tôi không dám gắt gỏng với chúng nhất là vào đêm Giáng sinh. Cuối cùng chúng mệt mỏi quá mới chịu đi ngủ. Tôi kiểm tra chúng lần cuối. Chúng mặc những bộ đồ pyjama mới và trước đó đều đã đánh rằng súc miệng, tắm rửa sạch sẽ thơm tho, trông chúng xinh đẹp như những thiên thần nhỏ đến nỗi tôi không dám tin chúng là con mình, thuộc về mình. Vào lúc ấy, tôi thật sự thấy lòng mình tràn ngập niềm yêu thương vô bờ đối với Vallie.

Cảm thấy thực sự may mắn. Tôi quay lại phòng khách.

Vallie đang vui vẻ sắp những gói quà Noel sáng lên với các dấu hiệu Giáng sinh dưới cây thông. Không biết bao nhiêu là quà. Tôi vào lấy gói quà tôi mua cho nàng và đặt dưới cây:

- Anh chẳng mua sắm được gì nhiều cho em, - Tôi nói có vẻ e thẹn, - Chỉ một món quà nhỏ thôi.

Tôi biết nàng sẽ không bao giờ ngờ rằng nàng đang được nhận được một chiếc nhẫn kim cương thật. Nàng cười và cho tôi một nụ hôn, nàng chưa hề thật sự quan tâm đến cái gì nàng nhận được vào dịp Giáng sinh, nàng thích mua quà cho người khác đặc biệt là cho lũ con, rồi tôi và cho gia đình nàng.

Bọn nhỏ có bốn hay năm món quà trong đó có cả một chiếc xe đạp mà chúng tôi hì hục lắp ráp đến gần ba giờ sáng mới xong. Và chúng tôi biết bọn trẻ sẽ bật ra khỏi giường ngay lúc chúng thức giấc. Chúng tôi chỉ còn bốn giờ để nghỉ. Rồi sau đó sẽ ra xe về nhà bố mẹ Vallie cho một ngày lễ hội tưng bừng.

- Chúng ta nên đi ngủ để giữ sức cho ngày mai, - Tôi nói.

Vallie nằm dài ra trên sàn nhà.

- Em nghĩ mình sẽ nghỉ ngay tại đây, - Nàng nói.

Tôi nằm xuống bên cạnh nàng và rồi cả hai chúng tôi quay người nằm nghiêng để có thể ôm nhau thật chặt.

Chúng tôi nằm đó, mệt nhọc nhưng hài lòng với hạnh phúc tràn ngập. Vào lúc đó có một tiếng gõ mạnh vào cửa. Vallie nhanh chóng đứng lên, với tia nhìn ngạc nhiên trên khuôn mặt nàng và nàng liếc tôi có ý dò hỏi. Chớp nhoáng chỉ trong vòng một phần tư giây, tâm hồn nặng trĩu mặc cảm tội lỗi của tôi đã dàn dựng nên một kịch cảnh với toàn bộ lớp lang. Hẳn nhiên đó là những nhân viên FBI. Họ đã cố ý chờ đến đêm Noel, đến lúc tâm lí tôi lơ lỏng cảnh giác nhất. Họ đến đây với một lệnh truy nã trên tay họ, sẽ tìm thấy mười lăm ngàn đô-la tôi đang giấu trong nhà và sẽ mang tôi đi tù. Họ sẽ đề nghị để cho tôi được hưởng trọn đêm lễ Giáng sinh với vợ con nếu như tôi thành thật khai báo. Nếu không, tôi sẽ bị hạ nhục: Vallie sẽ ghét tôi vì để bị bắt ngay vào ngày lễ Giáng sinh. Bọn trẻ sẽ khóc lóc và sẽ bị tổn thương tâm lí suốt đời. Chắc hẳn trông tôi có vẻ ốm bất ngờ hay sao ấy và Vallie hỏi tôi:

- Anh có sao không vậy?

Lại một tiếng gõ lớn vào cửa vang lên. Vallie bước ra khỏi phòng khách và đi xuống hành lang để trả lời. Tôi có thể nghe nàng nói với ai đó và tôi đi ra ngoài lấy thuốc uống. Nàng đang quay lại từ hành lang và quẹo vào bếp. Trong đôi tay nàng là bốn bình sữa.

- Đó là người bán sữa, anh ta giao sữa sớm để có thể quay về với gia đình trước khi lũ nhóc của anh ta thức giấc. Anh ấy thấy ánh đèn qua cửa nhà chúng ta, nên anh ta gõ cửa và chúc mừng gia đình mình mùa Giáng sinh vui vẻ.Thật là một người dễ thương.

Nàng đi vào bếp. Tôi đi theo nàng và ngồi yếu ớt trên một chiếc ghế. Vallie ngồi kế bên tôi:

- Em cá thế nào anh cũng nghĩ đó là một tay láng giềng khùng điên hay một tên tội phạm nào đó. Lúc nào anh cũng nghĩ là chuyện xấu nhất sẽ xảy ra.

Nàng hôn tôi say đắm.

- Chúng mình đi ngủ nhé anh.

Nàng còn tiếp tục hôn tôi dính chặt và chúng tôi lên giường, nàng thì thầm:

- Em yêu mình.

- Anh yêu em, - Tôi đáp.

Và tôi cười trong bóng tối. Mình đúng là tên trộm vặt nhát gan nhất ở phương Tây, tôi tự nghĩ thầm.

***

Nhưng rồi ba ngày sau lễ Giáng sinh, một người lạ bước vào văn phòng tôi và hỏi tôi có phải là tên John Merlin không? Khi tôi nói đúng thế anh ta trao cho tôi một bức thư được gấp lại. Trong lúc tôi mở thư thì anh ta đi ra ngoài. Bức thư được in bằng những chữ cái lớn của thứ tiếng Anh cổ:

Tòa án Quận của Hiệp chủng quốc

Rồi bằng chữ in lớn, bình thường: Quận Nam của thành phố New York

Rồi tên và địa chỉ của tôi và ở cuối bằng chữ lớn, nội dung như sau:

“Xin chào.

Bản tòa lệnh cho đương sự, rằng mọi việc riêng cũng như mọi lí do khoan miễn phải để qua một bên, đương sự phải đích thân ra hầu tòa trước khoáng đại hội thẩm nhân dân của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.”

Tiếp theo là thời gian và địa điểm được quy định rồi kết thúc:

“Đương sự đã vi phạm điều 18 trong Luật hình sự Mỹ.”

Tiếp theo, tòa bảo rằng nếu tôi không ra trình diện tòa, tôi sẽ bị coi là khinh thường và bất tuân lệnh tòa và sẽ chịu hình phạt của pháp luật.

À ít ra thì bây giờ tôi cũng đã biết tôi đã phạm vào luật nào. Điều 18 Luật Hình sự Mỹ. Tôi chưa từng nghe về nó. Tôi đọc lại trát tòa lần nữa. Tôi bị mê hoặc bởi câu thứ nhất. Trong tư cách nhà văn, tôi thích viết cách đó. Chắc là họ đã lấy câu đó từ luật lệ cổ của Anh. Và cũng ngộ là một khi các luật gia muốn rõ ràng và giản ước thì họ có thể rõ ràng và giãn ước đến như thế nào, không còn chỗ nào để ngộ nhận. Tôi đọc lại câu ấy lần nữa: “Bản tòa lệnh cho đương sự, rằng mọi việc riêng cũng như mọi lí do khoan miễn phải để qua một bên, đương sự phải đích thân ra hầu tòa trước khoáng đại hội thẩm nhân dân của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.”

Hay thiệt! Có thể chính Shakespeare đã viết ra câu này cũng nên! Và giờ đây, khi cuối cùng chuyện phải đến đã đến, tôi ngạc nhiên thấy mình phấn chấn hẳn lên, muốn mau mau xông vào đấu trường thư hùng một trận, dù thắng hay bại cũng phải ra ngô ra khoai cho rồi. Cứ để mập mờ, lửng lơ mãi nó căng thẳng thần kinh lắm. Vào cuối ngày làm việc, tôi gọi điện thoại đến Las Vegas và gặp Culli nơi văn phòng của anh. Tôi kể lại cho anh những gì đã xảy ra và cho anh biết trong một tuần nữa tôi phải sẽ ra trình diện trước Khoáng đại hội thẩm. Anh bảo tôi cứ giữ vững tinh thần, đừng lo sợ gì cả. Anh sẽ bay đến New York vào ngày hôm sau và sẽ gọi về nhà tôi từ

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3