Trăng lạnh - Phần III - Chương 34

PHẦNIII

PHẦN III

8:32 SÁNG THỨ NĂM

Thời gian là một ông thầy vĩ đại, nhưng bất hạnh thay ông thầy này giết chết mọi học trò của mình

LOUIS-HECTOR BERLIOZ

CHƯƠNG 34

Chỉ còn lại hai người, Rhyme và Sachs nhìn các bảng chứng cứ – những thứ được thu thập trong cả vụ bê bối tham nhũng quán Thánh James lẫn vụ Thợ Đồng Hồ.

Sachs đang rất cố gắng tập trung, nhưng Rhyme biết cô như phát điên lên. Họ thức khuya và trao đổi về những gì vừa xảy ra. Chuyện tham nhũng cũng đủ tồi tệ rồi, tuy nhiên cái thực tế là chính cảnh sát giết cảnh sát khiến cô thậm chí thêm chấn động.

Sachs tuyên bố cô vẫn chưa quyết định việc rời khỏi lực lượng, nhưng một vẻ trên gương mặt cô nói cho Rhyme biết rằng cô sẽ ra đi. Rhyme còn biết cô đã có vài cuộc trao đổi trên điện thoại với công ti Argyle.

Chẳng nghi ngờ gì nữa.

Lúc này, Rhyme liếc nhìn tờ giấy nhỏ hình chữ nhật màu trắng nằm bên trong chiếc cặp tài liệu đang mở: cái phong bì đựng lá thư xin thôi việc của Sachs. Tựa ánh sáng chói lọi của vầng trăng tròn đẩy trên bầu trời tối thẫm, màu trắng của cái phong bì khiến người ta lóa mắt. Hầu như không thể nhìn thấy nó rõ ràng, hầu như không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì khác.

Rhyme ép buộc bản thân mình không nghĩ về nó và quay lại nhìn các bảng chứng cứ.

Gerald Duncan đang đợi bị buộc tội bởi những hành vi vi phạm pháp luật của anh ta, tất cả chỉ là những vi phạm nhỏ (Phân tích ADN cho thấy máu ở dụng cụ cắt hộp, ở chiếc veston vớt được dưới cảng và máu đọng trên cầu tàu là của chính Duncan, mảnh móng tay bị tước ra cũng hoàn toàn phù hợp).

Vụ án tham nhũng đồn cảnh sát khu vực 118 đang tiến triển chậm chạp.

Đã có đầy đủ bằng chứng để truy tố Baker và Wallace, cũng như Toby Henson. Đất lấy tạo hiện trường vụ Sarkowski và các mẫu Sachs thu thập từ ngôi biệt thự ở Westchester của Creeley phù hợp với các dấu vết được tìm thấy trong nhà Baker và Henson. Tất nhiên, họ phát hiện ra sợi vải khiến Baker liên quan đến cái chết của Creeleey, nhưng họ còn phát hiện ra những sợi vải tương tự trên con thuyền của Wallace. Henson sở hữu đôi găng tay da mà đặc điểm bề mặt phù hợp với các dấu vết được tìm thấy ở Westchester.

Nhưng bộ ba đối tượng này không hợp tác. Bọn họ không chấp nhận bất cứ đề nghị thương lượng nào, và chẳng chứng cứ nào cho thấy còn ai khác dính líu vào nữa, kể cả hai cảnh sát gác bên ngoài cái câu lạc bộ khu East Village kia, hai người này khẳng định rằng mình vô tội. Rhyme thử để Kathryn Dance tấn công bọn họ, nhưng bọn họ không chịu nói bất cứ điều gì.

Rhyme tự tin là rốt cuộc thì anh sẽ có thể phát hiện ra tất cả các đối tượng ở đồn 118 và khởi tố bọn chúng. Tuy nhiên, anh không muốn chờ đợi tới cái lúc “rốt cuộc thì”, anh muốn đạt được điều ấy ngay bây giờ. Như Sachs đã nhận xét, những cảnh sát khác thuộc đám tụ tập tại quán Thánh James có thể đang lên kế hoạch thủ tiêu thêm nhân chứng – có thể thậm chí mưu sát lần nữa cô và Pulaski. Cũng có khả năng một hoặc một số kẻ đang ép buộc Baker, Henson và Wallace giữ im lặng bằng cách đe dọa gia đình bọn họ.

Bên cạnh đó, Rhyme còn được đề nghị tham gia các vụ án khác nữa. Anh đã nhận một cuộc điện thoại thông báo về một vụ việc – nhân viên mật vụ FBI Fed Dellray (tạm thời thoát khỏi địa ngục của các vụ tội phạm tài chính) trình bày rằng vừa xảy ra một vụ đột nhập và cố ý gây hỏa hoạn ở Viện Quốc gia và tiêu chuẩn và công nghệ ở Brooklyn. Thiệt hại không nghiêm trọng nhưng với ý nghĩa thường trực về khủng bố trong đầu óc hết thảy mọi người, bất cứ vụ đột nhập cơ quan chính phủ nào đều được quan tâm. Các nhân viên FBI muốn Rhyme hỗ trợ về mặt giám định vật chứng. Anh muốn nhận lời, tuy nhiên muốn hoàn thành vụ đường dây tống tiền Baker – Wallace trước.

Một liên lạc viên đem đến hồ sơ về vụ nhà doanh nghiệp bạn Duncan bị giết, do sự sắp đặt của Baker vì người đàn ông này không chịu nộp tiền. Hồ sơ vẫn đang được mở – không có thời hiệu cho việc điều tra – nhưng không có tiến triển gì suốt một năm qua. Rhyme hi vọng tìm thấy manh mối nào đó trong vụ án có thể giúp đỡ họ xác định những đối tượng ở đồn cảnh sát khu vực 118.

Đầu tiên, Rhyme đến bộ phận lưu trữ của tờ Thời báo New York và đọc bài mô tả ngắn về cái chết của nạn nhân, Andrew Culbert. Nó chẳng cung cấp thông tin gì khác ngoài việc anh ta là một nhà doanh nghiệp tới từ Duluth và bị giết trong một trường hợp có vẻ là cướp của ở khu Midtown. Không phát hiện ra đối tượng tình nghi nào. Không thấy tiếp tục đưa tin.

Rhyme bảo Thom đặt bản báo cáo điều tra vào chiếc giá có chức năng giở trang và nhà hình sự học bắt đầu đọc. Như lệ thường, đối với một vụ án chưa giải quyết xong, các đoạn ghi chú được viết tay bởi một vài người, vì cuộc điều tra cứ được chuyển từ người này sang người khác – với nhiệt tình càng ngày càng giảm đi. Theo báo cáo khám nghiệm hiện trường, hầu như không có dấu vết, không có vỏ đạn (nạn nhân chết do hai phát súng bắn vào trán, đạn cỡ ba tám, nhưng khảo sát đường đạn những khẩu súng tịch thu của Baker và các cảnh sát khác đồn 118 thì thấy không phù hợp).

“Em đọc danh mục khám nghiệm hiện trường chưa?”, Rhyme hỏi Sachs.

“Để xem nào. Đây”, cô nói, nhấc tờ giấy lên. “Em sẽ đọc.”

Rhyme nhắm mắt lại để có hình dung rõ hơn về mỗi vật.

“Ví”, Sachs đọc. “Một chìa khóa phòng khách sạn St. Regis, một chìa khóa quầy bar mini, một chiếc bút hiệu Cross, một máy PDA[73], một hộp kẹo gôm, một tập giấy nhỏ với những chữ Phòng vệ sinh nam ở tờ trên cùng. Tờ thứ hai ghi Chardonnay. Chấm hết. Thám tử chính thuộc bộ phận Án mạng là Ron Repetti.”

[73] PDA (viết tắt của Personal Digital Assistant): Thiết bị kỹ thuật số cá nhân, có thể bao gồm một số chức năng của máy vi tính, điện thoại di động, máy nghe nhạc, máy ảnh.

Phát điên lên được.

Vừa lắng nghe ca sĩ hát nhạc blue Blind Lemon Jefferson hát ca khúc See That My Grave Is Kept Clean qua máy iPod, Kathryn Dance vừa chằm chằm nhìn chiếc vali của mình, căng phồng, không chịu đóng hẳn lại.

Tất cả những gì mình mua là hai đôi giày, mấy món quà giáng sinh… ơ, ba đôi giày, một đôi gót thấp. Đôi này coi như không chiếm chỗ. Ôi, rồi lại chiếc áo len. Chiếc áo len là cả vấn đề.

Dance rút nó ra. Và thử lại. Những cái móc chỉ bập vào nhau nửa chừng, khoảng dăm bảy phân.

Điên lên được…

Mình phải làm sao trông cho thanh lịch. Dance tìm thấy chiếc túi dùng đựng đồ để người phục vụ phòng khách đem đi giặt, trút vào đấy quần bò, một bộ vét, những cái cuốn tóc, lũ bít tất dài và chiếc áo len to đùng, xấu xí. Cô thử đóng vali một lần nữa.

Tách.

Chẳng cần đến thấy phù thủy nào cả.

Máy điện thoại trong phòng đổ chuông và nhân viên lễ tân thông báo rằng Dance có khách.

Vừa kịp.

“Mời họ lên”, Dance nói, và năm phút sau, Lucy Richter đã ngồi trên chiếc đi văng nhỏ trong phòng cô.

“Chị muốn uống gì không?”

“Không, cảm ơn. Tôi không ở lâu được.”

Dance hất đầu chỉ chiếc tủ lạnh nhỏ. “Ai nghĩ ra quầy bar mini thật tệ. Những thanh kẹo và khoai tây chiên. Những thứ khiến tôi sa sút. Chà, tất cả đều khiến tôi sa sút. Và miệng nói tay đấm, xốt sansa[74] giá tận mười đô la.”

[74] Thông thường là các loại xốt cay đặc trưng cho các món Mexico, dùng để chấm.

Lucy, trông có vẻ như chưa bao giờ phải tính toán đến một ca-lo hay gam mỡ thừa nào trong đời, bật cười. Rồi cô nói: “Tôi nghe nói họ đã bắt được hắn. Người gác cửa tòa nhà tôi ở bảo tôi thế. Nhưng ông ta không có thông tin chi tiết.”

Nữ nhân viên mật vụ trình bày về Gerald Duncan, về việc anh ta hoàn toàn vô tội, và về vụ bê bối tại một đồn cảnh sát khu vực thuộc Sở cảnh sát New York.

Lucy lắc đầu trước thông tin này. Rồi cô nhìn xung quanh căn phòng nhỏ. Cô nêu vài bình luận vu vơ về những bức tranh đóng khung treo trên tường, về quang cảnh bên ngoài cửa sổ. Bồ hóng, tuyết và một đường ống thông khí, đó là những chi tiết chủ yếu.

“Tôi đến chỉ để nói lời cảm ơn.”

Không, không phải thế, Dance tự nhủ thầm, nhưng cô đáp: “Chị không cần cám ơn tôi. Đó là công việc của chúng tôi mà.”

Dance để ý thấy hai cánh tay Lucy không còn khoanh trước ngực và người phụ nữ lúc này đang ngồi vẻ thoải mái, hơi ngả ra đằng sau, vai buông lỏng, nhưng không rũ xuống. Một sự thú nhận, hoặc cái gì đại loại thế, đang đến.

Dance chờ đợi sự im lặng kết thúc. Lucy hỏi: “Chị là một nhà tư vấn tâm lí à?”

“Không. Chỉ là một cảnh sát.”

Tuy nhiên, trong quá trình phỏng vấn, các đối tượng cũng thường xuyên giãi bày sau khi đã thú nhận, chia sẻ những lầm lỗi khác về đạo đức, những ông bố bà mẹ bị căm ghét, sự ghen tức với các anh chị em, những người vợ, người chồng không chung thủy, những nỗi giận dữ, những niềm vui, hi vọng. Tâm sự, tìm kiếm lời khuyên. Không, Dance không phải một nhà tư vấn tâm lí. Nhưng cô là một cảnh sát, một người mẹ, một chuyên gia về ngôn ngữ hình thể và cả ba vai trò này đều đòi hỏi cô trở thành chuyên gia về thứ nghệ thuật nhiều khi cứ bị quên lãng đi, nghệ thuật lắng nghe.

“Chà, trò chuyện với chị thực sự rất thoải mái. Tôi nghĩ chắc tôi có thể hỏi ý kiến chị về một việc.”

“Vâng, xin mời chị”, Dance khuyến khích.

Người phụ nữ quân nhân nói: “Tôi không biết phải làm gì. Hôm nay tôi sẽ nhận tuyên dương, như tôi đã kể cho chị. Nhưng có một vấn đề”, cô giải thích thêm về công việc của cô ở nước ngoài, quản lí các xe tải chở nguyên liệu và hàng hóa tiếp tế.

Dance mở quầy bar mini, lấy hai chai Perrier sáu đô la. Cô nhướn một bên lông mày ra ý hỏi.

Người nữ quân nhân ngập ngừng, “Ồ, vâng.”

Dance mở nắp và đưa một chai cho Lucy. Để cho đôi bàn tay bận rộn thì đầu óc tự do suy nghĩ hơn và giọng nói cất lên thoải mái hơn.

“Vâng, cậu hạ sĩ này thuộc nhóm của tôi, Pete. Lính dự bị tới từ Nam Dakota. Hài hước. Rất hài hước. Hồi ở trong nước là huấn luyện viên bóng đá, làm việc trong ngành xây dựng. Cậu ý giúp đỡ tôi nhiều khi tôi mới sang đó. Một hôm, cách đây độ một tháng, cậu ấy và tôi phải đi kiểm tra các xe bị hư hại. Một số sẽ được đưa theo đường biển về Fort Hood để sửa chữa, một số chúng tôi có thể tự xử lí, một số chỉ xây xước thôi.

Tôi ở trong văn phòng còn cậu ấy đã đến quán ăn tự phục vụ của doanh trại. Tôi sẽ đón cậu ấy lúc một giờ chiều và chúng tôi sẽ đi ôtô tới bãi xe. Tôi qua đón cậu ấy trên một chiếc Humvee[75]. Tôi nhìn thấy cậu ấy ở đó, đợi tôi. Đúng lúc một quả bom tự chế phát nổ. Đó là một quả bom.”

Tất nhiên, Dance biết thứ này.

[75] Dòng xe đa dụng quân sự, sản phẩm của hãng chế tạo xe hạng nặng AM General, Mỹ.

“Khi quả bom nổ, tôi ở cách đấy chừng mười mét. Pete đang vẫy tay và rồi ngọn lửa bùng lên, toàn bộ quang cảnh thay đổi. Giống như khi người ta chớp mắt một cái, cả quảng trường bỗng biến thành chốn khác.” Lucy nhìn ra bên ngoài cửa sổ. “Phần phía trước quán ăn bay mất, những cây cọ chẳng còn thấy đâu. Mấy quân nhân và dân thường đang đứng đó… Một phút trước đứng đó, rồi tan tành luôn.”

Giọng Lucy bình thản đến khó hiểu. Dance nhận ra giọng nói ấy, cô thường xuyên nghe nó ở các nhân chứng bị mất những người thân yêu. (Những cuộc phỏng vấn khó khăn nhất, khó khăn hơn cả việc ngồi đối diện một kẻ sát nhân vô luân nhất.)

“Thân thể Pete nát bét. Đó là cách duy nhất để mô tả.” Giọng Lucy tắc lại. “Tất cả chỉ còn là hai màu đen và đỏ, gãy nát… Ở đó, tôi từng chứng kiến rất nhiều. Nhưng lần này khủng khiếp quá.” Cô hớp một ngụm nước, rồi giữ chặt cái chai tựa đứa trẻ giữ chặt con búp bê vậy.

Dance không nói lời thông cảm nào – chúng sẽ là vô ích. Cô gật đầu để người phụ nữ tiếp tục. Một hơi thở sâu. Những ngón tay Lucy đan chặt lại. Trong công việc, Dance xác định tính chất của cử chỉ này – một cử chỉ phổ biến – là để cố gắng kiềm chế sự căng thẳng không thể chịu đựng nổi xuất hiện do cảm giác tội lỗi hay đau đớn, xấu hổ.

“Vấn đề là… tôi đã đến muộn. Tôi ở trong văn phòng. Tôi ngẩng nhìn đồng hồ. Lúc đó chừng một giờ kém năm, nhưng tôi còn một chút soda chưa uống hết. Tôi cũng định vứt nó đi và rời khỏi văn phòng, từ văn phòng tới quán ăn sẽ mất năm phút, nhưng tôi muốn uống nốt chỗ soda. Tôi muốn ngồi lại và uống nốt. Tôi đã đến nơi muộn. Nếu tôi đến đúng giờ, cậu ấy đã không chết. Tôi đã đón được cậu ấy và chúng tôi đã ở cách đấy nửa dặm khi quả bom tự chế phát nổ.”

“Chị có bị thương không?”

“Nhẹ thôi.” Lucy kéo ống tay áo lên để lộ vết sẹo lớn trên cẳng tay. “Chẳng có gì nghiêm trọng.” Cô nhìn chằm chằm vết sẹo, rồi lại uống nhiều hơn. Cặp mắt cô trống rỗng. “Thậm chí nếu tôi chỉ chậm một phút thôi thì ít nhất cậu ấy đã kịp vào xe. Cậu ấy có thể đã sống sót. Sáu mươi giây… Khoảng thời gian ấy có thể đã tạo nên sự khác biệt, giữa cái sống và cái chết. Và tất cả vì một lon soda. Tất cả những gì tôi muốn là uống nốt chỗ soda chết tiệt.” Một tiếng cười buồn bã bật ra từ đôi môi khô của cô. “Và rồi kẻ nào đã xuất hiện định giết tôi? Cái kẻ tự xưng danh Thợ Đồng Hồ, bỏ chiếc đồng hồ khốn kiếp trong buồng tắm. Suốt nhiều tuần, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là làm sao chỉ một phút, cách này hay cách khác, lại tạo nên sự khác biệt giữa cái sống và cái chết như thế. Và ở đây, kẻ điên rồ này đem ném nó vào mặt tôi.”

Dance hỏi: “Còn điều gì nữa? Vẫn còn điều gì nữa, phải không?”

Một tiếng cười yếu ớt. “Vâng, đây là vấn đề. Chị thấy đấy, chuyến du lịch của tôi được lên lịch vào tháng sau. Nhưng tôi cảm thấy tội lỗi vì chuyện Pete tới mức tôi đã đến Sở chỉ huy nói tôi sẽ tái ngũ.”

Dance gật đầu.

“Đó là nội dung lần tuyên dương này. Nó không phải về việc bị thương. Ngày nào chúng tôi chả bị thương. Nó là về việc tái ngũ. Quân đội đang gặp nhiều khó khăn trong tuyển quân. Họ sẽ sử dụng những người xin tái ngũ làm một thứ áp phích cổ động. Rằng chúng tôi thích cuộc sống quân ngũ tới mức chúng tôi muốn tiếp tục. Đại khái thế.”

“Và chị đang suy nghĩ lại?”

Lucy gật đầu. “Việc này đang khiến tôi phát điên. Tôi không thể ngủ được. Tôi không thể làm chuyện ấy với chồng tôi. Tôi không thể làm gì… Tôi cô đơn, tôi sợ hãi. Tôi nhớ gia đình. Nhưng tôi cũng biết chúng tôi đang làm một việc quan trọng ở đó, một việc tốt đẹp cho nhiều người. Tôi không thể quyết định nổi. Đơn giản là tôi không thể quyết định.”

“Điều gì sẽ xảy ra nếu chị nói với họ rằng chị đã suy nghĩ lại?”

“Tôi không biết. Họ có lẽ sẽ bực bội. Tuy nhiên chúng ta sẽ không nói tới tòa án binh. Nó là vấn đề của tôi nhiều hơn. Tôi sẽ khiến mọi người thất vọng. Tôi sẽ từ bỏ một cái gì đó. Điều tôi chưa từng làm trong đời. Tôi sẽ không giữ được lời hứa.”

Dance suy nghĩ một lát, nhấm nháp chút nước. “Tôi không thể bảo chị nên hành động như thế nào. Nhưng tôi sẽ nói điều này: Công việc của tôi là tìm kiếm sự thật. Hầu hết những người tôi tiếp xúc là các đối tượng, những kẻ tội phạm. Bọn họ biết sự thật và bọn họ nói dối để giữ thân. Tuy nhiên, cũng có nhiều người tôi gặp tự nói dối chính mình. Và thông thường họ thậm chí không biết điều ấy.

Nhưng dù chị lừa dối cảnh sát hay mẹ mình, hay chồng mình, hay bạn bè, hay chính bản thân chị, các dấu hiệu luôn luôn giống nhau. Chị bị căng thẳng, giận dữ, chán nản. Sự lừa dối khiến người ta xấu xa đi. Sự thật khiến người ta tốt đẹp… Tất nhiên, đôi khi xem chừng sự thật là cái cuối cùng người ta mong muốn. Nhưng tôi không thể nói với chị đã bao nhiêu lần tôi khiến một đối tượng tự thú và anh ta cho tôi thấy vẻ mặt này, nó giống như sự nhẹ nhõm hoàn toàn vậy. Điều kì lạ nhất là đôi khi họ thậm chí còn cảm ơn.”

“Chị muốn nói tôi biết sự thật?”

“Ồ, vâng. Chị biết. Nó ở đó. Được che giấu kĩ. Và chị có thể không thích nó khi chị tìm thấy nó. Nhưng nó ở đó.”

“Làm sao tôi tìm thấy nó? Tự thẩm vấn chính mình?”

“Chị biết đấy, đó là một cách rất hay. Chắc chắn rồi, việc chị làm là xem xét những thứ mà tôi cũng xem xét: sự giận dữ, chán nản, phủ nhận, những lời bào chữa, ngụy biện. Khi nào chị cảm thấy như thế và tại sao? Đằng sau tình cảm này hay tình cảm kia là gì? Và đừng để cho bản thân chị trốn tránh bất kì điều gì. Hãy kiên trì xem xét. Chị sẽ tìm thấy cái chị thực sự mong muốn.”

Lucy Richter vươn người về phía trước và ôm lấy Dance – một việc hầu như chưa đối tượng nào từng làm.

Người nữ quân nhân mỉm cười. “Này, tôi có một ý tưởng. Chúng ta hãy viết một cuốn sách dạy cách rèn luyện bản thân. Hướng dẫn của một phụ nữ trẻ về việc tự thẩm vấn[76]. Nó sẽ là một cuốn sách bán chạy.”

[76] The Girl’s Guide to Self-Interrogation.

“Bằng tất cả thời gian rảnh rỗi của chúng ta nhé”, Dance bật cười.

Họ chạm hai chai nước vào nhau kêu keng một tiếng.

Mười lăm phút sau, họ đang thưởng thức cà phê và món bánh nướng nhân việt quất gọi từ bộ phận phục vụ phòng thì chuông điện thoại di động của Dance cất lên lanh lảnh. Cô nhìn số máy hiển thị, lắc đầu và bật cười.

Chuông cửa nhà Rhyme kêu. Một lát sau, Thom bước vào phòng thí nghiệm cùng với Kathryn Dance. Tóc cô bỏ xõa, chứ không tết chặt như trước, và bộ tai nghe máy iPod đung đưa quanh cổ. Cô cởi chiếc áo choàng mỏng, chào Sachs và Mel Cooper cũng mới tới.

Dance cúi xuống nựng chú chó Jackson.

Thom nói: “Hừm, chị thích một món quà chia tay như thế nào?” Và hất đầu chỉ chú chó giống Havanese.

Dance bật cười. “Nó rất đáng yêu, nhưng ở nhà tôi số lượng động vật đã đến mức tối đa rồi, đều thuộc loài hai chân và bốn chân cả.”

Đó là Rhyme gọi điện, hỏi liệu cô có thể giúp đỡ họ một lần nữa không? “Tôi xin hứa đây sẽ là lần cuối cùng”, anh nói khi cô đang ngồi cạnh bên anh lúc này.

Cô hỏi: “Vậy có chuyện gì thế?”

“Xuất hiện một lỗi virus trong vụ án này. Và tôi cần sự giúp đỡ của chị.”

“Tôi có thể làm gì?”

“Tôi nhớ chị kể cho tôi nghe về vụ Hanson ở California, việc xem xét bản ghi lời khai của hắn khiến chị nhận ra một số điều hắn toan tính.”

Dance gật đầu.

“Tôi muốn chị cũng làm như thế hộ chúng tôi.”

Rhyme trình bày với cô về vụ người bạn của Duncan, Andrew Culbert, bị giết, sự việc đã khiến Duncan quyết định sẽ tiêu diệt Baker và Wallace.

“Tuy nhiên, chúng tôi phát hiện ra một số chi tiết kì lạ trong hồ sơ. Culbert có máy PDA nhưng không có điện thoại di động. Điều ấy bất bình thường. Tất cả những ai làm ăn kinh doanh bây giờ đều có điện thoại di động. Và anh ta có một tập giấy với hai tờ giấy có ghi chữ. Một là Chardonnay. Có thể nó có nghĩa anh ta viết để nhắc nhở mình mua loại rượu vang nào đấy. Nhưng tờ kia là Phòng vệ sinh nam. Tại sao ai đó lại viết thế? Tôi suy nghĩ về nó và đi đến giả thiết là ai đó đã viết thế nếu họ có vấn đề về chức năng nói hoặc nghe. Gọi rượu trong một nhà hàng, rồi hỏi phòng vệ sinh ở đâu. Và cũng chẳng cần điện thoại di động. Tôi tự hỏi phải chăng anh ta bị điếc.”

“Vậy”, Dance nói. “Người bạn của Duncan bị giết vì tên cướp tức giận khi nạn nhân không thể hiểu hắn hoặc không đưa ví ra nhanh chóng. Anh ta tưởng rằng Baker đã sát hại bạn mình, nhưng đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.”

Sachs nói: “Vấn đề phức tạp hơn thế.”

Rhyme tiếp lời: “Tôi truy tìm được người vợ góa của Culbert ở Duluth. Chị ta nói với tôi rằng anh ta bị câm điếc bẩm sinh.”

Sachs bổ sung: “Nhưng Duncan bảo Culbert đã cứu sống anh ta khi hai người đang trong quân ngũ. Nếu anh ta bị điếc, anh ta không thể tham gia quân đội được.”

Rhyme nói: “Tôi nghĩ rằng Duncan chỉ đọc bài viết về nạn nhân một vụ cướp và tuyên bố đó là bạn anh ta, để tạo tính tin cậy đối với cái kế hoạch đưa Baker vào tròng.” Nhà hình sự học nhún vai. “Nó có thể chẳng thành vấn đề. Suy cho cùng, chúng ta đã tóm cổ được một cảnh sát thoái hóa biến chất. Nhưng vụ việc còn để lại một số câu hỏi. Liệu chị có thể xem xét băng ghi âm cuộc phỏng vấn Duncan và nói với chúng tôi suy nghĩ của chị?”

“Tất nhiên là được rồi.”

Cooper gõ bàn phím.

Lát sau, một đoạn video quay Duncan với ống kính góc rộng hiện ra trên màn hình. Anh ta ngồi thoải mái tại phòng phỏng vấn ở khu trung tâm trong khi giọng Lon Sellitto đang nêu các thông tin: anh ta là ai, ngày tháng và vụ án. Rồi phần lấy lời khai chính thức bắt đầu. Về cơ bản, Duncan trình bày lại đúng những điều mà anh ta đã nói với Rhyme lúc ngồi trên lề đường bên ngoài hiện trường cuối cùng của “kẻ giết người hàng loạt”.

Dance quan sát, chậm rãi gật đầu trong khi lắng nghe chi tiết kế hoạch anh ta đặt ra.

Khi đoạn băng kết thúc, Cooper ấn phím tạm dừng, giữ khuôn mặt Duncan ở nguyên trên màn hình.

Dance quay sang Rhyme.

“Tất cả đấy à?”

“Vâng.” Anh để ý thấy gương mặt cô bất động. Nhà hình sự học hỏi: “Chị nghĩ thế nào?”

Dance ngập ngừng và rồi nói: “Tôi phải nói rằng… Cảm giác của tôi là không riêng câu chuyện về người bạn anh ta bị giết mới là vấn đề. Tôi cho là hầu như mọi điều anh ta nói với các anh trong đoạn băng đều hoàn toàn dối trá.”

Sự im lặng xâm chiếm ngôi nhà của Rhyme.

Sự im lặng tuyệt đối.

Cuối cùng, Rhyme ngước mắt lên khỏi gương mặt Duncan đang bất động trên màn hình, và nói: “Tiếp tục đi.”

“Tôi có xuất phát điểm của anh ta khi anh ta đề cập tới kế hoạch để Baker bị bắt. Chúng ta biết một số khía cạnh nhất định của kế hoạch này là thật. Bởi vậy lúc mức độ căng thẳng thay đổi, tôi nghĩ rằng anh ta đang gian dối. Tôi nhận ra những sai chệch lớn lúc anh ta nói về người bạn. Và tôi không nghĩ tên anh ta là Duncan. Hay anh ta sống ở vùng Midwest. Ồ, và anh ta quá quan tâm đến Baker. Anh ta có mối quan tâm mang tính tình cảm đối với việc gã đàn ông đó bị bắt. Còn một điều nữa.”

Dance liếc nhìn màn hình.

“Anh cho chạy về quãng giữa được chứ? Có một chỗ anh ta sờ má mình.”

Cooper cho đoạn video tua ngược lại.

“Đấy. Chiếu chỗ ấy đi.”

“Tôi chưa bao giờ làm hại bất cứ ai. Tôi chẳng thể nào làm được việc đó. Tôi có lẽ đã hơi uốn cong pháp luật một tí…”

Dance lắc đầu, cau mày.

“Sao?”, Sachs hỏi.

“Cặp mắt anh ta…”, Dance thì thào, “Ôi, đây là một vấn đề.”

“Tại sao?”

“Tôi cho rằng anh ta nguy hiểm, rất nguy hiểm. Tôi đã dành hàng tháng trời nghiên cứu các băng phỏng vấn Ted Bundy, kẻ giết người hàng loạt. Hắn thuộc loại bệnh hoạn xã hội thuần túy, có nghĩa hắn đánh lừa ta mà chẳng bộc lộ một chút dấu hiệu bề ngoài nào. Nhưng một điều tôi nhận ra được ở Bundy là phản ứng mơ hồ trong ánh mắt hắn khi hắn khẳng định rằng chưa bao giờ sát hại ai. Phản ứng ấy không phải phản ứng đặc trưng cho sự gian dối, nó thể hiện nỗi thất vọng và bị phản bội. Vì hắn đang phủ nhận cái gì đó thuộc về trung tâm bản ngã của mình.”

“Chị chắc chắn chứ?”, Sachs hỏi.

“Không chắc chắn, không. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta phải phỏng vấn anh ta thêm.”

“Dù anh ta đang toan tính làm gì, chúng ta cũng nên chuyển anh ta sang phòng giam cấp ba cho tới lúc chúng ta tìm hiểu được sự việc.”

Bị bắt do chỉ phạm các tội nhẹ và không mang tính bạo lực, Gerald Duncan sẽ được bố trí trong một phòng giam canh phòng ít nghiêm ngặt ở phố Trung Tâm. Chuyện trốn thoát không nhiều khả năng xảy ra, tuy nhiên không phải là không thể. Rhyme yêu cầu đưa điện thoại để gọi cho giám thị trại giam trung tâm Manhattan.

Anh xưng danh và đề nghị chuyển Duncan sang phòng giam đảm bảo an ninh hơn.

Viên giám thị không nói gì. Rhyme nghĩ vì anh ta không muốn nhận mệnh lệnh từ một người ở ngoài lực lượng cảnh sát.

Cái cơ chế chính trị chán chết…

Rhyme nhăn mặt rồi liếc nhìn Sachs, ý bảo cô phải yêu cầu việc chuyển phòng giam này. Đúng lúc ấy, lí do đích thực cho việc yên lặng của viên giám thị trở nên rõ ràng.

“Chà, thưa thám tử Rhyme”, người đàn ông nói vẻ lo lắng. “Anh ta chỉ ở đây vài phút. Chúng tôi thậm chí chưa kịp ghi biên bản.”

“Cái gì?”

“Ông công tố viên, ông ta đã có những thỏa thuận nào đó và thả Duncan ra đêm hôm qua rồi. Tôi cứ nghĩ ông biết.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3