Điệu vũ bên lề - Chương 2 phần 2

Charlie

Ngày 23 tháng Mười Một, 1991

Bạn thân mến,

Bạn có thích được nghỉ lễ cùng người thân không? Ý tôi không phải là gia đình nhỏ với ba mẹ, mà là gia đình của chú bác, cô dì, anh em họ của bạn? Riêng tôi thì thích vì nhiều lí do.

Đầu tiên là tôi rất thích thú khi thấy mọi người tỏ ra thương yêu nhau dù không có ai thực sự ưa nhau cả. Thứ hai là những vụ cãi vã lúc nào cũng y hệt.

Thường sẽ có chuyện khi ba của mẹ tôi (tức ông ngoại của tôi) cạn chầu rượu thứ ba. Từ lúc này ông bắt đầu nói nhiều. Ông ngoại của tôi thường chỉ phàn nàn về chuyện có người da đen tới sống trong khu ngụ cư lâu đời, rồi chị tôi bực ông, rồi ông ngoại bảo chị ấy sống ở ngoại thành thì biết gì mà nói. Rồi ông than rằng chẳng ai tới nhà dưỡng lão thăm nom ông. Cuối cùng ông khề khà kể những bí mật trong nhà, ví dụ chuyện người em họ gì-gì-đó từng “tặng ba-lô ngược” một cô phục vụ ở quán Big Boy. Tiện thể phải nói rằng có lẽ ông ngoại đã lãng tai, nên ông cứ oang oang khi kể mấy chuyện này.

Chị tôi cố đấu lí với ông những chẳng bao giờ thắng cuộc. Ông ngoại chắc chắn là ương ngạnh hơn chị nhiều. Mẹ tôi thường giúp bà dì nấu nướng đồ ăn, ông ngoại thì ăn gì cũng chê là “khô quá”, kể cả món súp. Tới khi bà dì phát khóc và tự nhốt mình trong phòng vệ sinh.

Nhà bà dì chỉ có một phòng vệ sinh, thế là thành chuyện khi mấy đứa anh em họ bắt đầu bị bia hành tội. Cả bọn đứng kẹp chân kẹp cẳng lại mà đập mấy phút liền, tới khi suýt dỗ được bà dì chịu ra ngoài thì lại có tiếng ông la mắng gì đó, thế là mọi chuyện trở lại từ đầu. Chỉ trừ mỗi kì nghỉ khi ông ngoại tôi ngất xỉu ngay sau bữa tối, còn thì các anh em họ của tôi đều phải đi vệ sinh lộ thiên chỗ mấy bụi cây. Nếu bạn nhìn ra ngoài cửa sổ như tôi làm khi ấy, có thể thấy họ lom khom như đi săn vậy. Tôi thấy rất tội nghiệp các chị em họ và các bà dì khác, bởi họ không ra bụi cây được, nhất là lúc trời lạnh.

À, còn ba tôi thường chỉ ngồi rất yên lặng mà uống rượu thôi. Ba tôi hiếm khi uống nhiều, nhưng hễ ở chơi với gia đình bên mẹ tôi là ông “xả láng”, nói theo cách thằng em họ Tommy. Tôi nghĩ tận đáy lòng, ba thích về chơi với nhà nội Ohio hơn. Vì như thế ông không phải gần ông ngoại. Ba không thích ông ngoại lắm, nhưng ông không hé nửa lời về chuyện đó. Ngay cả khi lái xe về nhà. Đơn giản là ba tôi thấy không hợp.

Rồi tàn buổi tối, ông ngoại tôi thường say lịm đi không làm gì được nữa. Ba mẹ và mấy anh em họ cùng khiêng ông ra xe của người nào hôm ấy ít giận ông nhất. Lần nào cũng là tôi đứng mở sẵn cửa cho họ ra. Ông ngoại của tôi rất to béo.

Tôi nhớ có một lần anh tôi đưa ông về nhà dưỡng lão, có tôi theo cùng. Anh tôi luôn thấu hiểu ông ngoại. Anh hiếm khi nổi cáu với ông, trừ khi ông ngoại nói điều gì đó khó nghe về mẹ tôi, chị tôi hoặc gây ra cảnh không hay. Tôi nhớ lúc đó tuyết rơi dày, chung quanh yên tĩnh. Thật thanh bình. Rồi ông ngoại tỉnh ra và bắt đầu nói chuyện kiểu khác hẳn.

Ông kể rằng hồi ông mười sáu, ông phải bỏ học vì ba của ông chết, mà phải có người đứng ra gánh vác gia đình. Ông kể về giai đoạn ông phải đi tới nhà máy ba lần một ngày xem có việc gì cho ông làm không. Rồi ông kể trời lúc đó lạnh cỡ nào. Và ông đói cỡ nào, bởi vì ông muốn chắc cả nhà được ăn no trước đã. Những chuyện ấy bọn trẻ như tôi không hiểu được bởi vì bọn tôi may mắn. Rồi ông kể về các cô con gái, mẹ tôi và dì Helen.

“Ông biết mẹ các con nghĩ sao về ông. Cả Helen nữa. Có một lần... ông đến nhà máy, không có việc gì cả... không hề... Tận hai giờ sáng ông mới về tới... buồn bực hết chỗ nói... Bà ngoại của con cho ông xem sổ liên lạc của hai đứa... C+ trung bình... Mà bọn nó đâu có ngu dốt gì. Nên ông vào phòng bọn nó cho chúng một trận ra trò... xong thì bọn nó khóc, ông chỉ giơ mấy cuốn sổ liên lạc lên mà nói... ‘Không có lần sau đâu đấy nhé’... Con bé tới giờ còn nhắc vụ đó, mẹ của con ấy mà... nhưng con biết không, quả là không bao giờ thấy điểm thấp nữa... Hai đứa nó vào đại học hết cả hai... Hồi xưa ông ước đủ khả năng cho bọn nó đi học... ông luôn muốn như thế... Giá mà con Helen hiểu được điều đó... Ông nghĩ mẹ con hiểu được... thật tâm... con bé tốt lắm... Tụi con nên tự hào về mẹ mình.”

Khi tôi kể lại chuyện này cho mẹ nghe, bà trông rất buồn bởi ông không nói những điều này với bà. Chưa bao giờ. Ngay cả khi ông đưa bà đến bục làm lễ cưới.

Nhưng kì nghỉ Lễ Tạ ơn này có khác. Chẳng là nhà tôi mang băng video thu lại trận đấu bóng bầu dục của anh tôi cho bà con xem. Cả đại gia đình quây quần bên ti vi, có cả các dì của tôi, vốn trước giờ không xem bóng bầu dục. Tôi sẽ không bao giờ quên biểu cảm trên gương mặt họ mỗi khi anh tôi giữ bóng. Rất phức tạp. Một người anh họ của tôi làm ở trạm xăng dầu. Một anh khác thất nghiệp đã hai năm nay vì bị thương ở tay. Và người khác nữa bảy năm nay luôn muốn trở lại trường đại học mà không được. Ba tôi bảo họ rất ghen tị với anh tôi, bởi anh tôi có được cơ hội và thực sự tận dụng được cơ hội ấy.

Nhưng trong giây phút anh tôi dẫn bóng, tất cả những điều ấy không quan trọng nữa, mọi người đều hết sức tự hào. Đến lúc anh tôi dẫn bóng ngoạn mục ở lượt xuống bóng thứ ba, mọi người òa ra hoan hô mặc dù có người đã xem trận đấu rồi. Tôi nhìn ba, thấy ông đang mỉm cười. Tôi nhìn mẹ, bà cũng đang mỉm cười dù hồi hộp sợ anh tôi bị thương. Kể cũng lạ vì đây là băng thu lại trận đấu mà, mẹ đã biết rằng anh ấy không hề hấn gì. Các dì, mấy người anh em họ lẫn con cái của họ, tất thảy đều cười. Cả chị tôi nữa. Chỉ có hai người không cười. Là ông ngoại và tôi.

Ông ngoại tôi đang khóc.

Đó là kiểu khóc thầm kín đáo, không thành tiếng. Chỉ có mỗi tôi để ý thấy. Tôi nghĩ tới cảnh ông đi vào phòng mẹ hồi mẹ còn nhỏ, đánh mẹ rồi giơ sổ liên lạc của bà lên, quát rằng không bao giờ được điểm thấp nữa. Có lẽ ông cũng có ý nói thế với anh trai tôi. Hoặc chị tôi. Hoặc tôi. Ông muốn đảm bảo rằng ông là người cuối cùng trong nhà phải đi làm ở nhà máy.

Tôi không biết như vậy là tốt hay xấu. Tôi không biết để con cái vui vẻ, không phải bận tâm học đại học gì cả thì liệu có tốt hơn không. Tôi không biết nên gần gũi với con gái hay nên nghiêm khắc để chắc rằng sau này nó sống sung sướng hơn mình. Đơn giản là tôi không sao biết được. Tôi chỉ yên lặng quan sát ông.

Khi trận đấu kết thúc, bữa tối cũng xong, đến lượt mọi người tỏ lời cảm ơn nhân dịp lễ. Phần nhiều lời cảm ơn ấy nhắc tới anh tôi, gia đình, con cái, hay Chúa trời. Ai nấy đều nói thật lòng, bất kể ngày mai có thế nào. Tới lượt tôi, tôi nghĩ thật kĩ bởi đây là lần đầu tiên tôi ngồi ở bàn chính với toàn người lớn, thế chỗ anh tôi.

“Con biết ơn vì anh con chơi bóng bầu dục trên ti vi để không ai phải cãi nhau.”

Hầu hết mọi người khi đó đều thấy sượng. Có người còn có vẻ tức giận. Ba tôi ra ý tán đồng, nhưng ông không lên tiếng bởi đây không phải gia đình của ông. Mẹ tôi cứ nơm nớp không biết ông tôi phản ứng sao. Chỉ có một người cất tiếng đáp. Đó là dì lớn của tôi, cũng là người thường hay tự nhốt mình trong phòng vệ sinh.

“A-men.”

Và lời ấy làm mọi thứ ổn cả.

Khi nhà tôi sửa soạn về, tôi bước lại chỗ ông ngoại, ôm ông rồi hôn lên má ông. Ông đưa tay lên quệt dấu môi, rồi nhìn tôi. Ông không thích con trai cháu trai trong nhà bày tỏ tình cảm gần gũi như thế. Nhưng tôi rất vui vì đã hôn ông, phòng khi ông đột ngột qua đời. Tôi đã không kịp làm thế với dì Helen.

Thương mến,

Charlie

Ngày 7 tháng Mười Hai, 1991

Bạn thân mến,

Bạn có bao giờ nghe nói tới “Ông già Noel bí mật” chưa? Trò đó thế này, nhóm bạn bè rút thăm bỏ trong cái nón, ai bắt được tên người nào phải mua thật nhiều quà Giáng sinh cho người ấy. Quà tặng được “bí mật” đặt vào tủ đồ của người nhận lúc họ không có ở đó. Rồi chung cuộc, tất cả tổ chức tiệc, mọi người tiết lộ ai tặng ai quà gì, rồi trao nhau những món quà cuối cùng.

Ba năm trước, Sam bắt đầu trò này với nhóm bạn bè. Giờ nó gần như đã thành truyền thống. Và buổi tiệc chung cuộc luôn được chờ mong như cuộc tụ tập vui vẻ nhất cả năm. Tiệc diễn ra vào buổi tối của ngày đi học cuối cùng trước kì nghỉ.

Không biết ai bắt trúng tên tôi. Thăm của tôi là tên Patrick.

Tôi thật vui vì bắt trúng Patrick, dù tôi ước là bắt được Sam. Mấy tuần rồi, tôi không thấy Patrick trong lớp kĩ thuật, bởi cậu ấy dành hầu hết thời gian với Brad. Ngẫm nghĩ xem nên tặng quà gì kể ra cũng là cách hay để nghĩ tới cậu ấy.

Món quà đầu tiên sẽ là một cuộn băng nhạc. Không giải thích được, tôi chỉ biết là món ấy phù hợp. Tôi đã chọn xong xuôi các bản nhạc, cả chủ đề chính nữa: “Một mùa đông”. Nhưng tôi quyết định không tô màu lên vỏ băng. Mặt trước có nhiều bài hát của Village People và Blondie, bởi Patrick rất thích loại nhạc ấy. Trong đó cũng có bài Smells like teen spirit của Nirvana mà cả Sam và Patrick đều thích. Nhưng mặt sau mới là mặt tôi thích nhất, nó gồm toàn những bài hát mùa đông.

Những bài ấy gồm:

Asleep của The Smiths

Vapour trail của Ride

Scarborough fair của Simon & Garfunkel

A whiter shade of pale của Procol Harum

Time of no reply của Nick Drake

Dear prudence của Beatles

Gypsy của Suzanne Vega

Nights in the white satin của Moody Blues

Daydream của Smashing Pumpkins

Dusk của Genesis (trước khi Phil Collins nhập nhóm!)

MLK của U2

Blackbird của Beatles

Landslide của Fleetwood Mac

Và cuối cùng là...

Asleep của The Smiths (lần nữa!)

Tôi dành cả đêm ghi băng, mong là Patrick thích cuốn băng nhiều như tôi. Nhất là mặt sau. Tôi hi vọng mỗi khi lái xe một mình, cậu ấy sẽ tìm được bài nào đó phù hợp ở mặt sau mà nghe, để thấy đâu đó vẫn có chốn dành cho mình mỗi khi buồn. Tôi mong cuốn băng đem lại được cho Patrick những điều ấy.

Thật là vui sướng khi cầm trong tay cuộn băng đã hoàn thành. Cứ tự nhủ rằng trong bàn tay của mình đây, là cuộn băng chứa mọi kí ức, rung động, niềm vui choáng ngợp lẫn nỗi buồn sâu sắc. Ngay đây, trong lòng bàn tay tôi. Tôi nghĩ đến biết bao người từng thích những bài hát này. Biết bao người vượt qua nhiều lúc khốn khó nhờ chúng. Và biết bao người đã có những phút giây vui vẻ khi nghe chúng. Chúng mới sâu sắc làm sao. Viết ra được dù chỉ một trong những bài trong số đó thôi đã là quá tuyệt vời. Nếu tôi làm được thế, chắc hẳn tôi sẽ rất đỗi tự hào. Tôi hi vọng những ai viết ra những bài hát này đều được hạnh phúc. Tôi hi vọng họ cảm thấy như thế là đủ đầy. Tôi thực sự mong vậy, bởi họ đã khiến tôi hạnh phúc. Mà tôi chỉ là một con người đơn lẻ mà thôi.

Tôi rất sốt ruột chờ lấy bằng lái xe. Sắp tới rồi!

Tiện thể, cũng lâu rồi tôi chưa kể với bạn về thầy Bill nhỉ. Cũng không có gì nhiều để kể, bởi mọi chuyện vẫn vậy thôi, thầy đưa tôi những quyển sách chọn riêng, tôi cứ thế đọc, rồi thầy bảo tôi viết bài, thế là tôi viết. Vào tháng rồi thì phải, tôi đã đọc Gatsby vĩ đại và Hòa bình biệt lập. Tôi bắt đầu nhận ra xu hướng thật sự của loạt sách thầy Bill đưa tôi đọc. Và giống như cuộn băng nhạc, thật thú vị khi có thể nắm trọn từng quyển sách trong lòng bàn tay tôi. Chúng đều là những quyển tôi ưa thích. Tất cả chúng.

Thương mến,

Charlie

Ngày 11 tháng Mười Hai, 1991

Bạn thân mến,

Patrick thích cuốn băng! Tôi nghĩ cậu ấy đoán ra tôi là Ông già Noel bí mật của cậu ấy, bởi hẳn cậu ấy biết tôi là người duy nhất ghi một cuộn băng như thế. Cậu ấy cũng biết nét chữ của tôi. Tôi không biết sao lại không nghĩ tới những chuyện này, giờ thì muộn rồi. Lẽ ra tôi phải để dành nó làm món quà cuối.

À mà tôi cũng nghĩ tới món quà thứ hai cho Patrick rồi. Là thơ nam châm. Bạn nghe nói lần nào chưa? Để tôi giải thích luôn, nhỡ bạn không biết. Ta dán một mớ chữ lên một tờ nam châm, rồi cắt riêng từng từ ra. Rồi ta dính nó lên tủ lạnh, rồi ghép từ thành thơ y như làm bánh mì kẹp vậy. Vui lắm.

Món quà từ Ông già Noel bí mật của tôi không có gì đặc biệt cả. Điều đó làm tôi buồn. Tôi cược với bạn bất kì thứ gì rằng Mary Elizabeth chính là Ông già Noel bí mật của tôi, bởi chỉ có cô ấy mới tặng tôi đôi vớ.

Thương mến,

Charlie

Ngày 19 tháng Mười Hai, 1991

Bạn thân mến,

Kể từ lúc tham gia trò “Ông già Noel bí mật”, tôi đã nhận thêm một cái quần tây mua từ hiệu đồ cũ. Tôi cũng nhận được một cái cà-vạt, một áo sơ-mi trắng, đôi giày, và một dây nịt cũ. Tôi đoán rằng món quà cuối dành cho tôi ở bữa tiệc sẽ là áo vét bởi thiếu mỗi món đó là đủ bộ mà. Có cả tờ giấy đánh máy bỏ kèm nói tôi hãy mặc mọi thứ được tặng đi dự tiệc. Mong là sẽ còn bất ngờ thú vị.

Thật mừng là Patrick rất thích mọi món quà của tôi. Món thứ ba là một bộ màu nước và vài tờ giấy. Tôi nghĩ cậu ấy sẽ thích, dù có khi chẳng bao giờ có dịp đụng tới. Món thứ tư là một cây harmonica cùng quyển sách dạy thổi kèn. Có lẽ món này cũng giống như món màu nước, nhưng tôi thực sự nghĩ là ai cũng nên có màu nước, thơ nam châm và kèn harmonica.

Món quà cuối tôi tặng trước buổi tiệc là quyển sách có tựa Thủ lĩnh đường Castro. Nó kể về Harvey Milk, một nhà lãnh đạo đồng tính ở San Francisco. Tôi vào thư viện tìm đọc thêm về giới đồng tính sau khi nghe Patrick tâm sự rằng cậu ta là gay. Cũng mất chút thời gian vì tôi thật tình không biết gì về vấn đề đó cả. Tôi lục ra được một bài báo về bộ phim tài liệu nói về Harvey Milk. Tôi không tìm được bộ phim ấy nên chỉ tìm theo từ khóa là tên ông, thế là ra quyển sách này.

Tôi chưa đọc quyển ấy, nhưng theo phần mô tả tóm tắt thì sách có vẻ rất hay. Tôi hi vọng nó có ý nghĩa với Patrick. Tôi rất nóng lòng chờ tới bữa tiệc để tặng Patrick món quà cuối. Tiện thể, tôi đã thi xong hết các môn học kì này, cả một kì bận bịu, lẽ ra tôi kể bạn nghe hết, nhưng mấy chuyện đó không thú vị bằng những chuyện sắp làm trong kì nghỉ.

Thương mến,

Charlie

Ngày 21 tháng Mười Hai, 1991

Bạn thân mến,

Ôi chao, ôi chao. Tôi có thể vẽ lại cảnh này nếu bạn thích. Bọn tôi ngồi trong nhà của Sam và Patrick, tôi chưa đến đây bao giờ. Ngôi nhà thật lộng lẫy. Sáng bóng. Rồi bọn tôi tặng những món quà cuối cho nhau. Đèn ngoài sân bật sáng, tuyết rơi, như là phép màu hiển hiện. Như thể bọn tôi đang ở nơi nào khác. Một nơi tuyệt vời hơn.

Hôm đó là lần đầu tôi gặp ba mẹ của Sam và Patrick. Họ thật tử tế. Mẹ Sam xinh đẹp và rất biết kể chuyện cười. Sam nói hồi còn trẻ, bác ấy là diễn viên. Ba của Patrick rất cao, có cái bắt tay thật chặt. Bác ấy nấu ăn cũng rất ngon. Các vị phụ huynh thường khiến ta thấy ngại ngần khi gặp, nhưng ba mẹ của Sam và Patrick thì khác. Hai bác nói chuyện rất cởi mở suốt bữa tối, và khi ăn xong thì rời đi để bọn tôi thoải mái tiệc tùng. Thậm chí họ không quay lại ngó chừng bọn tôi gì cả. Không lần nào. Họ hoàn toàn để bọn tôi giả vờ đó là nhà của bọn tôi. Thế là cả bọn quyết định mở tiệc trong phòng bi-a, phòng này không có bàn bi-a nào cả mà chỉ có một tấm thảm rõ to.

Khi tôi tiết lộ rằng tôi là Ông già Noel bí mật của Patrick, mọi người cười phá lên vì họ đã biết từ lâu rồi, chỉ có Patrick cố sức giả vờ ngạc nhiên, cậu ấy tốt bụng thật. Rồi mọi người hỏi món quà cuối của tôi là gì, tôi nói đó là một bài thơ tôi đọc lâu rồi. Ngày xưa Michael chép cho tôi một bản. Tôi đã đọc nó cả ngàn lần bởi tôi không biết ai là tác giả. Không biết nó có được đưa vào cuốn sách hay chương trình học nào không. Không rõ tác giả bao nhiêu tuổi, nhưng tôi muốn biết người đó là ai, muốn biết người đó vẫn ổn.

Thế rồi, mọi người bảo tôi đứng lên đọc bài thơ. Tôi không ngượng chút nào bởi cả bọn đang cố hành xử như người lớn mà, còn uống rượu brandy nữa. Tôi thấy người ấm rực. Giờ tôi hãy còn âm ấm đây, nhưng vẫn ngồi vào viết ngay cho bạn. Rồi tôi đứng lên, trước khi đọc, tôi bảo mọi người ai biết người viết bài thơ này thì nói tôi nghe với.

Khi tôi đọc xong, mọi người đều lặng đi. Lặng đi vì buồn ấy. Nhưng điều hay là đó không phải nỗi buồn khiến tôi thấy tệ hại. Chỉ là thứ cảm giác khiến mọi người quay nhìn nhau để cảm nhận rằng bạn tôi vẫn hiện diện ngay đó. Sam và Patrick nhìn tôi. Tôi nhìn lại hai người. Tôi nghĩ là họ hiểu. Thực ra không phải điều gì cụ thể. Họ chỉ hiểu được thôi. Bạn bè với nhau chỉ mong có vậy.

Patrick bật mặt sau cuốn băng tôi ghi cho cậu ấy, và rót cho mỗi người một li brandy nữa. Trông dáng bọn tôi uống rượu chắc là hơi ngô ngố, nhưng bọn tôi không cảm thấy thế. Dám chắc với bạn là vậy.

Giữa những bài hát lần lượt ngân nga, Mary Elizabeth đứng lên. Nhưng cô ấy không cầm cái áo vét. Hóa ra cô ấy không phải Ông già Noel bí mật của tôi. Cô ấy là Ông già Noel của Alice, cô nàng này cũng có hình xăm và khuyên rốn. Cô tặng Alice sơn móng tay bóng màu đen mà có lần Alice đứng ngắm nghía. Alice cảm kích lắm. Tôi chỉ ngồi đó, nhìn quanh căn phòng, dõi mắt tìm cái áo vét. Không biết ai đang giữ nó nhỉ.

Tiếp theo là Sam, rồi cô ấy tặng Bob một cái tẩu hút cần sa thủ công của thổ dân châu Mỹ, kể cũng có vẻ hợp với hắn.

Những người khác lần lượt tặng quà. Rồi thêm nhiều cái ôm. Cuối cùng, không còn ai chưa tặng ngoài Patrick. Cậu ấy đứng lên, đi vào bếp.

“Ai ăn khoai tây chiên không nào?”

Ai cũng muốn. Rồi cậu ấy trở ra với ba ống khoai tây Pringles và một cái áo vét. Và cậu ấy bước lại chỗ tôi, bảo rằng mọi tác gia vĩ đại thường lúc nào cũng đóng bộ đồ lớn mà.

Thế là tôi mặc cái áo vét vào, dù thấy không thực sự xứng đáng, bởi trước nay tất cả những gì tôi viết mới chỉ là vài bài luận nộp thầy Bill thôi, nhưng món quà thật là tuyệt, và mọi người cũng vỗ tay. Sam và Patrick đều đồng ý rằng tôi trông bảnh trai. Mary Elizabeth mỉm cười. Tôi nghĩ đó là lần đầu tiên trong đời tôi tự cảm thấy khá “ổn”. Bạn hiểu ý tôi chứ? Giống niềm vui khi nhìn vào gương và tóc tai mình nằm đúng nếp lần đầu tiên trong đời. Tôi nghĩ không nên quan trọng quá mức chuyện cân nặng, cơ bắp, hay tóc tai, nhưng khi tôi trông ổn thì cảm giác cũng tuyệt chứ. Thật sự là tuyệt.

Khoảng thời gian sau đó rất đặc biệt. Vì nhiều bạn sắp cùng gia đình dời đi tận Florida và Indiana, nên bọn tôi tặng quà cho cả những bạn mà bọn tôi không phải Ông già bí mật của họ.

Bob tặng Patrick ba gam rưỡi cần sa, cùng một tấm thiệp Giáng sinh đính kèm. Hắn còn cẩn thận vấn sẵn nữa. Mary Elizabeth tặng hoa tai cho Sam. Alice cũng vậy. Rồi Sam cũng tặng hoa tai cho họ. Tôi nghĩ đó là quà riêng kiểu con gái. Thú thật là tôi hơi buồn bởi ngoài Sam và Patrick, không có ai tặng quà cho tôi cả. Có lẽ tôi không thân với họ lắm, cũng phải thôi. Nhưng tôi buồn một chút.

Rồi đến phiên tôi tặng quà. Tôi tặng Bob một chai nhựa đựng bong bóng xà phòng, vì món ấy có lẽ hợp với tính cách hắn. Chắc tôi nghĩ đúng rồi.

“Quá được,” hắn nói gọn lỏn.

Rồi từ đó tới lúc tàn cuộc, hắn mải mê thổi bong bóng lên trần nhà.

Người nhận kế tiếp là Alice. Tôi tặng cô ấy quyển sách của Anne Rice, bởi cô ấy luôn nhắc về tác giả này. Và cô ấy nhìn tôi như thể không tin được là tôi biết cô ấy thích Anne Rice. Hẳn cô ấy không biết được tôi đã nói nhiều cỡ nào, hoặc tôi lắng nghe được nhiều ra sao. Nhưng dù sao cô ấy cũng cảm ơn tôi. Tiếp nữa là Mary Elizabeth. Tôi tặng cô ấy bốn mươi đô-la kẹp trong một cái thiệp. Trên thiệp đề một câu đơn giản: “Dành để in màu tờ Punk Rocky số tới.”

Cô ấy nhìn tôi là lạ. Rồi tất cả bọn họ đều nhìn tôi là lạ như thế, ngoại trừ Sam và Patrick. Tôi nghĩ họ hơi ngại bởi không có gì tặng tôi. Không nên thế, bởi chuyện đó đâu phải điều quan trọng nhất đâu. Mary Elizabeth chỉ nhoẻn cười, nói cảm ơn, rồi thôi nhìn vào mắt tôi.

Người sau cùng là Sam. Tôi đã loay hoay nghĩ mãi về món quà này từ lâu. Có lẽ từ lần đầu tiên tôi thực sự nhận ra cô ấy. Không phải lần đầu gặp mặt hay lần đầu trông thấy cô ấy, mà là lần đầu tiên tôi nhận ra cô ấy, bạn hiểu ý tôi nhỉ. Có một tấm thiệp đính kèm.

Trong tấm thiệp, tôi kể với Sam món quà tôi tặng cô ấy là quà của dì Helen tặng tôi. Đó là một cái đĩa than 45 vòng cũ có bài “Something” của nhóm Beatles. Ngày xưa, tôi nghe đĩa than ấy luôn và nghĩ ngợi những chuyện sẽ làm khi thành người lớn. Lúc đó tôi đi lại cửa sổ phòng ngủ, nhìn bóng tôi phản chiếu trong kính và cây cối bên ngoài, nghe đi nghe lại bài ấy hàng giờ liền. Rồi tôi tự nhủ sau này gặp ai đẹp như bài hát ấy, tôi sẽ tặng đĩa hát cho người đó. Và người đó không phải chỉ đẹp bề ngoài, mà là đẹp về mọi mặt. Thế nên tôi tặng nó cho Sam.

Sam nhìn tôi dịu dàng. Rồi cô ấy ôm tôi. Tôi nhắm mắt lại vì tôi không muốn biết gì khác ngoài vòng tay của cô ấy. Rồi cô ấy hôn lên má tôi, và thì thầm để khỏi ai nghe thấy.

“Mình yêu cậu.”

Tôi biết rằng cô ấy có ý nói yêu theo kiểu bạn bè, nhưng không sao, bởi đó là lần thứ ba kể từ khi dì Helen mất, có người nói yêu tôi. Hai lần kia là mẹ tôi nói.

Sau đó, thật khó tin, Sam cũng chuẩn bị cho tôi một món quà. Thành thật mà nói, tôi tưởng câu “mình yêu cậu” là quà rồi. Nhưng cô ấy có quà cho tôi thật. Và lần đầu tiên, một điều tốt đẹp như thế khiến tôi mỉm cười chứ không khóc. Tôi đoán Sam và Patrick đã cùng đến hiệu đồ cũ bởi quà của hai người là một bộ. Cô ấy dẫn tôi vào phòng cô ấy, đẩy tôi tới trước tủ com-mốt, trên có phủ cái vỏ gối nhiều màu đẹp đẽ. Cô ấy nhấc vỏ gối lên, và tôi đứng đó, trên người là bộ vét cũ, nhìn một cái máy đánh chữ cũ đã thay cuộn giấy mới. Trong khe giấy ló lên một đoạn giấy trắng.

Trên đó, Sam gõ, “Thi thoảng hãy viết về tôi nhé.” Rồi tôi đứng ngay trong phòng ngủ của cô ấy, gõ lại.

“Nhất định.”

Tôi thấy thật vui bởi vì đó là hai chữ đầu tiên tôi đánh bằng cái máy đánh chữ cũ mà Sam tặng tôi. Hai đứa tôi chỉ ngồi yên lặng một lát, rồi cô ấy mỉm cười. Rồi tôi lại chỗ cái máy đánh chữ, và gõ.

“Mình cũng yêu cậu.”

Sam nhìn mảnh giấy, rồi nhìn tôi.

“Charlie à, cậu từng hôn cô gái nào chưa?”

Tôi lắc đầu, chưa.

Im lặng.

“Hồi còn nhỏ thì sao?”

Tôi lại lắc đầu. Cô ấy trông buồn trĩu.

Cô ấy kể tôi nghe lần đầu tiên cô bị hôn. Là một ông bạn của ba Sam. Lúc đó cô ấy mới bảy tuổi. Cô ấy không kể chuyện này với ai ngoại trừ Mary Elizabeth, và sau đó là Patrick, hồi năm ngoái. Rồi cô ấy bắt đầu khóc. Rồi cô ấy nói một điều mà tôi sẽ không bao giờ quên, không bao giờ.

“Hẳn cậu biết là tôi thích Craig. Tôi cũng từng bảo cậu đừng nghĩ về tôi theo hướng ấy. Tôi biết chúng ta không thể ở bên nhau như một đôi. Nhưng tôi muốn quên tất cả những điều đó đi trong một phút. Được không?’

“Được.”

“Tôi muốn chắc chắn rằng người đầu tiên cậu hôn là một người yêu cậu. Được chứ?”

“Được.” Giờ thì cô ấy khóc dữ hơn nữa. Và tôi cũng khóc, bởi khi nghe một điều như vậy, tôi không thể kiềm lòng được.

“Tôi chỉ muốn chắc chắn như thế thôi. Được chứ?”

“Được.”

Rồi cô ấy hôn tôi. Đó là nụ hôn mà tôi không thể nào kể thành lời với bạn bè được. Nó là nụ hôn khiến tôi cảm thấy mình chưa bao giờ hạnh phúc đến vậy trong cả cuộc đời này.